Chuyên đề Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 0

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II: 1.1 . BỐI CẢNH CHUNG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ (SMES) CỦA NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II 2

1.1.1 Bối cảnh 2

1.1.1.1. Bối cảnh trong nước 2

1.1.1.2. Bối cảnh quốc tế 2

1.1.2. Tình hình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 3

1.2. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 10

1.2.1. Khái niệm về Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 10

1.2.2.Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ 10

1.2.3. Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 10

1.3. CƠ SỞ CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 11

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II 16

2.1. LỊCH SỬ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SMES CỦA NHẬT BẢN 16

2.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ 2 20

 

2.2.1. Mục tiêu của các chính sách 20

2.2.2. Nội dung của chính sách 21

2.2.2.1. Ban hành luật đặc biệt 22

2.2.2.2. Biện pháp thuế 23

2.2.2.3. Tài trợ vốn 25

2.2.2.4. Cấp tín dụng theo chính sách 25

2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SMES 26

2.3.1.Đánh giá các chính sách hiện đại hóa SMEs 26

2.3.2. Đánh giá chung về chính sách phát triển SMEs 28

CHƯƠNG III: SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 33

3.1. QUAN ĐIỂM , ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN SMES CỦA VIỆT NAM 33

3.1.1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam 33

3.1.2. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn 2006-2010 34

3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát: 34

3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể: 34

3.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNNVV THỜI GIAN QUA 34

3.2.1. Bối cảnh kinh tế – xã hội giai đoạn 2006-2010: 34

3.2.1.1. Bối cảnh quốc tế 35

3.2.1.2. Bối cảnh trong nước 36

3.2.2. Các thách thức đối với công tác phát triển DNNVV thời gian tới: 37

3.2.3.Thực trạng phát triển đội ngũ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thời gian vừa qua. 40

3.2.3.1. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay 40

3.2.3.2. Những tồn tại, yếu kém trong phát triển DNNVV 58

 

3.2.3.3 Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trong phát triển DNNVV thời gian qua: 62

CHƯƠNG IV: BÀI HỌC KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY TỪ SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN. 64

4.1. NHẬN XÉT VỀ BỐI CẢNH CHÍNH SÁCH CỦA 2 NƯỚC- XÉT TÍNH TƯƠNG THÍCH VỀ MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH 64

4.2. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT BẢN 65

4.2.1. Kế hoạch, chiến lược phát triển SMEs được ban hành một cách có hệ thống trong từng giai đoạn và được điều chỉnh cho phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế chung, cũng như những thay đổi của môi trường. 65

4.2.2 Cùng với việc đề ra các biện, chính phủ cũng đồng thời thành lập các tổ chức, cơ quan chuyên trách hay các chương trình nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ các SMEs một cách thường xuyên và hiệu quả. 67

4.2.3. Một số biện pháp chính sách mà chính phủ Nhật đã áp dụng thành công nhằm phát triển, bảo vệ các SMEs trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. 70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73

 

 

doc78 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Như vậy, điều này cho thấy trong số các ngành được lựa chọn có những ngành có năng suất lao động gia tăng nhờ hiện đại hóa cơ sở sản xuất (cơ khí hóa) và sản xuất hàng loạt, nhưng đồng thời cũng có những ngành trong đó những biến động như vậy là không đáng kể. Bảng 4: Biến động về năng suất và hàm lượng vốn của các ngành công nghiệp được lựa chọn trong Luật xúc tiến hiện đại hóa (10 000 Yên) Năng suất lao động (a) tỷ lệ vốn / lao động (b) 1965 1970 1975 mức tăng 1965-1970 mức tăng 1970-1975 mức tăng 1965-1970 mức tăng 1970-1975 SMEs trong toàn ngành công nghiệp 75,3 159,5 302,4 2,118 1,895 1,739 2,175 SMEs trong toàn ngành công nghiệp được lựa chọn # 88,4 184,1 350,2 2,082 1,958 1,816 2,159 Độ lệch chuẩn trung bình 39,6 86,7 159,8 0,272 0,452 0,389 0,326 Nguồn: Tsusansho [MITI], Kogyo Tokeihyo [điều tra các ngành công nghiệp] (a) Gía trị gia tăng tính theo mỗi lao động. (b) Tài sản cố định tính theo mỗi lao động. Nếu như quá trình hiện đại hóa cơ sở sản xuất và sản xuất hàng loạt chỉ tỏ ra hữu hiệu khi “có một phát minh kỹ thuật làm cho qua trình cơ khí hóa và sản xuất hàng loạt trở nên có lợi, và nhất là khi có thể lường trước được sự gia tăng nhu cầu đủ để khai thác việc mở rộng quy mô sản xuất”. Thì khi đó khó có thể cho rằng tất cả các ngành đều thỏa mãn các tiêu thức này. Chính sách hiện đại hóa trong những năm 1960 theo đuổi mục tiêu tăng năng suất lao động trong SMEs thông qua quá trình hiện đại hóa cơ sở sản xuất và sản xuất hàng loạt, nhưng không phải mục tiêu này đều đạt được trong tất cả các ngành công nghiệp. Như đã nói ở trên, trên thực tế chính sách áp dụng theo khuôn khổ Luật xúc tiến hiên đại hóa có mục tiêu là đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa dựa trên cách tiếp cận theo ngành cụ thể, và đây là một trong những chính sách ”có chọn lọc” mà trọng tâm được đặt vào những đặc điểm riêng biệt của từng ngành cụ thể. Tuy nhiên, với thực tế là hiện tại có hơn 200 ngành công nghiệp đã trở thành những ngành được lựa chọn, các chính sách áp dụng với tất cả các ngành, do đó mà làm giảm hiệu lực của các chính sách hiện đại hóa. 2.3.2. Đánh giá chung về chính sách phát triển SMEs Như đã lưu ý trong phần mô tả nội dung chính sách, trọng tâm của chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu dành cho việc hỗ trợ SMEs nhằm thích ứng với những biến động trong cơ cấu công nghiệp. Chính sách kinh doanh nhỏ là một phần trong chính sách xã hội chung kể từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến những năm 1950. Nhưng hiện tại bản chất của nó có sự thay đổi theo hướng trở thành một phần của chính sách công nghiệp. Đối với chính sách kinh doanh nhỏ với tư cách là một chính sách công nghiệp, đã có những phê phán cho rằng các chính sách này không mang tính phân biệt. Nếu xuất phát từ trọng tâm của chính sách thì đương nhiên sẽ có những chính sách chung áp dụng cho tất cả SMEs, thế nhưng đối với những chính sách đặc thù áp dụng cho từng ngành công nghiệp cụ thể hoặc các nhóm doanh nghiệp khác nhau như trong trường hợp các ngành công nghiệp được lựa chọn trong khuôn khổ Luật xúc tiến hiện đại hóa, thì khó có thể xác nhận được rằng trọng tâm chính sách như vậy là tồn tại trên thực tế. Xét theo các công cụ chính sách thì có nhiều công cụ khác nhau được sử dụng như các biện pháp tài chính, thuế và trợ cấp, điều chỉnh, cung cấp thông tin, ưu tiên trong các hợp đồng mua sắm. Đối với các lĩnh vự chính sách khác ngoài chính sách kinh doanh nhỏ thì cũng có khuynh hướng vận dụng chính sách theo cách thức không mang tính phân biệt, thế nhưng khuynh hướng đó dược thể hiện rõ nhất trong chính sách kinh doanh nhỏ vởi vì tác động của cơ chế sau đây. Đặc biệt, so SMEs có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng áp đảo về nhân công, cùng với một thực tế là SMEs được nhìn nhận là “ốm yếu”, cho nên đa số các đảng phái chính trị đều luôn tuyên bố rằng mở rộng chính sách kinh doanh nhỏ là một trong những chính sách then chốt mà họ theo đuổi. Mặt khác, các cơ quan Chính phủ (các bộ và cơ quan khác) chịu trách nhiệm hoạch định chính sách đã đáp lại bằng cách tích cực đề xuất các biện pháp đối với kinh doanh nhỏ (mà theo dự kiến sẽ được tất cả các đảng phái chính trị chấp thuận) bởi vì nhìn chung các cơ quan này có khả năng tác động một cách thuận lợi đến việc gia tăng ngân sách chi tiêu và quyền hạn cho những người thiết kế chính sách. Cơ chế chính sách không mang tính phân biệt này ảnh hưởng tới việc hoạch định và thi hành chính sách trên cơ sở nhận định rằng liệu có cần thiết hoặc có tác dụng hay không khi giúp cho SMEs thích ứng đối với môi trường hoạt động thông qua đáp ứng các nhu cầu về lao động, hàng, hóa, vốn, và thông tin, hoặc khi phải quyết định (trong điều kiện có sự khác biệt rất lớn về kiều kiện và nguồn lực quản lý trong các ngành công nghiệp) là các doanh nghiệp hoặc ngành công nghiệp nào được coi là trọng tâm của chính sách. Rất khó phủ nhận một điều là bản chất không phân biệt của chính sách đã làm yếu đi tác động (hiệu lực) của chính sách. Xu hướng rõ ràng về chính sách không mang tính phân biệt nói trên không phải lúc nào cũng hàm ý rắng có sự gia tăng các chính sách bảo hộ nhằm bảo vệ các doanh nghiệp biên, hoạt động không hiệu quả. Thực vậy, tác động tiêu cực của việc duy trì các doanh nghiệp biên, hoạt động không hiệu quả dường như tỏ ra không đáng kể. Thứ nhất, các chính sách hạn chế cạnh tranh trong khu vực SMEs lại khống có mấy hiệu lực, và thứ hai, bên cạnh đầu tư của Chính phủ như là công cụ chính sách chủ yếu thì công cụ trợ cấp trực tiếp chỉ tạo ra tác động rất nhỏ. Hai đặc tính này của các công cụ chính sách đã dẫn đến kết quả là cạnh tranh vẫn được duy trì trong khu vực SMEs. Tình trạng này rất khác so với trường hợp chính sách nông nghiệp Với tư cách là bộ phận của chính sách kinh doanh nhỏ, một số biện pháp đã được áp dụng để hạn chế cạnh tranh, chẳng hạn như việc thừa nhận sự hình thành cacten theo khuôn khổ Luật tổ chức SMEs (Luật liên quan đến tổ chức các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 1957) và việc hạn chế sự xâm nhập của các doanh nghiệp lớn vào thị trướng bán lẻ và các thị trường khác của SMEs. Khi xem xét cơ chế tác động thực tế cảu các chính sách này, có thể thấy rằng số lượng cacten hình thành trong khuôn khổ Luật tổ chức SME đã tăng lên hàng năm cho đến đầu những năm 1960 (khi các chính sách hiện đại hóa được thực sự bắt đầu), để rồi lại giảm xuống một cách nhanh chóng, cho đến cuối năm 1983 chỉ còn có 19 ngành công nghiệp trong đó còn tồn tại hình thức cacten. Do vậy, có thể ghi nhận sự chuyển hướng của các chính sách hạn chế cạnh tranh từ cuối những năm 1960. Điều này còn được phản ánh trong quan điểm về chính sách hạn chế sử dụng các chính sách hạn chế cạnh tranh, và thay vào đó sử dụng các chính sách điều chỉnh công nghiệp tích cực như giúp các doanh nghiệp chuyển sang các ngành khác khi nhập khẩu tăng lên nhanh chóng trong các ngành công nghiệp được lựa chọn từ những năm 1970. Như đã lưu ý ở trên, các khoản cho vay đối với SMEs và các tổ chức của SMEs (như các hợp tác xã) từ ngân sách của Chính phủ được sử dụng chủ yếu như là một công cụ chính sách. Được thực hiện thông qua các thể chế tài chính chính phủ đối với SMEs, các chính sách tài chính nhìn chung đã giúp các doanh nghiệp này có được nguồn vốn (chính sách chung), và đồng thời được sử dụng như một công cụ để đạt tới các mục tiêu chính sách riêng rẽ dưới hình thức hỗ trợ cho SMEs tiếp cận cụ thể được với nguồn vốn (chính sách đặc thù). Nguồn vốn do các thể chế tài chính của chính phủ chiếm khoảng 10% quy mô các khoản cho vay đối với SMEs, do đó cỏ thể nói rằng nguồn vốn đó có đóng góp nhất định đối với khả năng vay vốn của SMEs. Tuy nhiên, điều này không hàm ý rằng việc cấp vốn như vậy của chính phủ được coi là nhằm bảo hộ các doanh nghiệp biên không có hiệu quả. Trường hợp cấp vốn khác với trợ câp trực tiếp ở chỗ các doanh nghiệp phải trả cả vốn lẫn lãi suất, trong khi đó sự vận hành của cơ chế thì trường sẽ không cho phép nguồn vốn được cấp cho các doanh nghiệp không có khả năng thanh toán. Mặc dù trợ cấp trực tiếp cũng được sử dụng như là một bộ phận của chính sách kinh doanh nhỏ, thế nhưng xét trong tương quan với nguồn vốn được cấp từ ngân sách của Chính phủ thì quy mô của trợ cấp trực tiếp là rất nhỏ. Có thể đưa ra sự đánh giá tổng quát về chính sách kinh doanh nhỏ như sau. Việc loại bỏ hoàn toàn các chính sách không mang tính phân biệt là điều rất khó khăn, bởi vì các yếu tố không hoàn hảo trên thị trường có thể dẫn đến vị thế bất lợi cho SMEs theo nhiều kênh khác nhau, và sự vận hành của các yếu tố kinh tế chính trị cũng có ảnh hưởng tới quá trình hoạch định và thực hiện chính sách. Không thể phủ nhận rằng việc sử dụng các chính sách không mang tính phân biệt sẽ làm yếu đi hiệu lực của chính sách. Vai trò chủ đạo của việc cấp vốn diễn ra trong cơ chế thị trường, chứ không phải là việc sử dụng các biện pháp hạn chế cạnh tranh và trợ cấp trực tiếp như là những công cụ chính sách, sẽ đặt dấu chấm hế cho việc sự dụng chính sách kinh doanh nhỏ như là chính sách bảo hộ. Về phương diện này có thể thấy sự đối lập rất rõ với các chính sách nông nghiệp, trong đó các biện pháp hạn chế nhập khẩu và trợ cấp trực tiếp được sử dụng rồng rãi. CHƯƠNG III SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. QUAN ĐIỂM , ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN SMES CỦA VIỆT NAM 3.1.1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam 3.1.1.1. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. 3.1.1.2. Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. 3.1.1.3. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo nhiều việc làm, xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa gắn với các mục tiêu kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng địa phương, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống; chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; ưu tiên phát triển và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người tàn tật … làm chủ doanh nghiệp; chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao. 3.1.1.4. Hoạt động trợ giúp của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 3.1.1.5. Gắn hoạt động kinh doanh với bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. 3.1.1.6. Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế - xã hội. 3.1.2. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn 2006-2010 3.1.2.1. Mục tiêu tổng quát: Đẩy nhanh tốc độ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp ngày càng cao vào tăng trưởng cho nền kinh tế. 3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể: - Số doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới khoảng 320.000 (hàng năm tăng khoảng 22%); - Tỷ lệ tăng trưởng doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới tại các tỉnh khó khăn là 15% đến năm 2010; - Tỷ lệ trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3 - 6% trong tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa; - Tạo thêm khoảng 2,7 triệu chỗ làm mới trong giai đoạn 2006 - 2010; - Có thêm 165.000 lao động được đào tạo kỹ thuật làm việc tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 3.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DNNVV THỜI GIAN QUA 3.2.1. Bối cảnh kinh tế – xã hội giai đoạn 2006-2010: Nước ta xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm 2006-2010 trong điều kiện tình hình trong nước và quốc tế có nhiều chuyển biến, những khó khăn và thuận lợi đan xen, tác động lẫn nhau đòi hỏi các các Bộ, ngành, địa phương và đặc biệt bản thân các doanh nghiệp phải tận dụng thời cơ, nắm bắt những thuận lợi, đồng thời dự báo trước các khó khăn, các mặt không thuận lợi để kịp thời có giải pháp phù hợp hạn chế những tác động bất lợi đến phát triển kinh tế. 3.2.1.1. Bối cảnh quốc tế - Xu hướng chung là kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và phát triển, các nền kinh tế mang tính hội nhập cao sẽ mang đến thời cơ cho các sản phẩm của DNNVV Việt Nam tham gia thị trường quốc tế, nhưng đó cũng thách thức chính đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn lên, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh cả trên thị trường trong n ớc và quốc tế. - Quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nước ta đã ký kết nhiều Hiệp định hợp tác đa phương và song phương với các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, theo kế hoạch, sắp tới nước ta sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thực hiện các cam kết WTO và các hiệp định hiệp định song phương và đa phương sẽ dẫn đến việc xuất hiện nhanh chóng các cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như các thách thức trong cạnh tranh quốc tế đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là DNNVV. - Các thành tựu khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới không ngừng được phát minh và ứng dụng trong thực tế. Đây cũng là yếu tố tác động mang tính hai mặt đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. - Khủng hoảng năng lượng kéo dài đã gây khó khăn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. - Tình hình chính trị tại nhiều khu vực diễn biến theo chiều hướng phức tạp. 3.2.1.2. Bối cảnh trong nước - Nước ta đựơc thế giới đánh giá có sự ổn định cao về chính trị, kinh tế - xã hội; nền kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. - Chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng và cam kết tạo điều kiện để phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân. Các thành phần kinh doanh theo pháp luật đều là cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. - Nhiều cơ chế, chính sách đổi mới kinh tế – xã hội đã được thực hiện; nhiều đạo luật về kinh tế đã được ban hành và sửa đổi phù hợp với yêu cầu thị trường, Luật Đất đai, Luật Thương mại, các Luật về thuế,… đã từng bước tạo nên môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, an toàn và thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Thể chế kinh tế thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị tr ờng khoa học – công nghệ… đang được hình thành và từng bước được hoàn thiện. - Việt Nam thực hiện các cam kết về AFTA và WTO, các hiệp định song phương và đa phương khác. - Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng đáng kể; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đang dần thích nghi với thị trường quốc tế. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao, trong đó nhiều tập đoàn xuyên quốc gia đã có mặt tại Việt Nam, đây là một trong những yếu tố kích thích phát triển DNNVV với vai trò là các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào cũng như phân phối sản phẩm đầu ra. - Đặc điểm của thời kỳ tới là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động sâu sắc tới quá trình điều chỉnh cơ cấu, cải cách kinh tế, cải cách hành chính, chất lượng và quá trình phát triển kinh tế xã hội cả nước. Việc cạnh tranh trong một môi trường kinh doanh quốc tế sẽ ảnh hưởng tích cực đến sản xuất trong nước, đặc biệt là đối với những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Đây cũng sẽ là tác nhân quan trọng thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật công nghệ và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, hơn thế nữa, nhân tố này còn bắt buộc Việt Nam phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất bằng cách cho ra đời các sản phẩm có đủ sức cạnh tranh. 3.2.2. Các thách thức đối với công tác phát triển DNNVV thời gian tới: Bên cạnh những thuận lợi thì sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển DNNVV nói riêng trong thời gian tới cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, cụ thể: - Tuy đã đạt được một số thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nhìn chung xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trình độ thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng (hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước,…) còn thiếu và yếu; mặt bằng sản xuất - kinh doanh chật hẹp, nằm xen kẽ trong các khu dân cư , khó cung cấp các tiện ích công cộng và cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm; trình độ công nghệ máy móc, thiết bị lạc hậu, năng suất thấp, thiếu đồng bộ, lãng phí nguyên liệu và chất lượng sản phẩm chất lượng cao; - Khung pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng chưa được xây dựng một cách đầy đủ và đồng bộ. Nhiều văn bản pháp quy dưới Luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu nhất quán đã gây không ít cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một số Luật về kinh tế, một số các văn bản pháp quy dưới luật còn yếu. - Thị trường nội địa kém phát triển và chưa hoàn chỉnh, tuy nhu cầu tiêu dùng của dân cư là rất lớn, nhưng vì thu nhập của dân cư còn chưa cao nên các doanh nghiệp ít có cơ hội để đầu tư phát triển. - Mặc dù Chính phủ đã và đang thực hịên nhiều chính sách kinh tế-xã hội, nhưng sự phát triển chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và vùng núi đang ngày càng thể hiện rõ nét. Trong khi kinh tế các vùng đô thị tăng trưởng với tốc độ cao thì ở nông thôn, đặc biệt là những vùng thuần nông, vùng thường bị thiên tai lại phát triển rất chậm, đã gây khó khăn cho việc phát triển một số ngành (điển hình là công nghiệp chế biến), mối liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến lỏng lẻo và không bền vững. - Thiếu sân chơi bình đẳng cho DNNVV phát triển, điều này thể hiện ở sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất và liên tục thay đổi trong các cơ chế, chính sách; chi phí gia nhập thị trường cao; việc thực thi chính sách thiếu thống nhất từ trung ương tới địa phương; quy hoạch vừa “thừa” vừa “thiếu”; không ít quy họach đã tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình đã thay đổi; đã trở thành cản trở lớn đối với phát triển kinh doanh và gây lãng phí. - Các hoạt động kinh doanh chưa minh bạch đã và đang nuôi dưỡng một môi trường đầu tư gây tổn hại cho thị trường chính thức, có thể dẫn đến triệt tiêu phát triển thị trường chính thức, xói mòn đạo đức kinh doanh, không khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể chính thức hoá hoạt động kinh doanh. - Tiến trình mở cửa và hội nhập, việc thực hiện các cam kết quốc tế và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới bên cạnh việc đem lại nhiều thụân lợi quan trọng, cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam phải “chơi cùng sân” với các doanh nghiệp quốc tế, Nhà n ớc phải cắt giảm những chính sách bảo hộ đối với sản xuất trong n ớc (giảm thuế và mở cửa cho hàng hoá nhập khẩu...) và từ bỏ chính sách bao cấp. Trong khi các doanh nghiệp quốc tế có tiềm lực kinh tế mạnh, có công nghệ hiện đại, có nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh, thì các DNNVV của Việt Nam vốn dĩ đã yếu kém, lại chưa nhận thức đúng mức độ sự ảnh hưởng của quá trình này đối với mình và cho rằng doanh nghiệp của mình sản xuất với quy mô nhỏ, chỉ tiêu thụ trong nước và quá trình hội nhập không ảnh hưởng đến mình. - Vẫn còn sự bảo hộ của nhà nước đối với khu vực DNNN... mà chưa quan tâm đúng mức tới các DNNVV cũng góp phần hạn chế năng lực cạnh tranh của DNNVV. Trong xã hội vẫn tồn tại biểu hiện phân biệt đối xử, chưa thực sự bình đẳng, cởi mở đối với khu vực DNNVV, vai trò, vị trí của khu vực DNNVV chưa được đánh giá đúng mức. Vẫn còn quan điểm cho rằng DNNVV là phần thêm vào của nền kinh tế, là khu vực thường xuyên vi phạm luật pháp, chưa coi các DNNVV là một trong những yếu tố nòng cốt trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, tư tưởng của dân cư , của lớp thanh niên còn ưu chuộng những chỗ làm việc tại các cơ quan nhà nước, tư tưởng tự khởi nghiệp kinh doanh, tự tạo ra chỗ làm việc và thu nhập cho mình và cho những người xung quanh chưa cao. - Cải cách hành chính chậm, thiếu kiên quyết, bộ máy hành chính chậm đổi mới, kém hiệu lực và thiếu hiệu quả; một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều bất cập, yếu kém về năng lực, phẩm chất, chất tương xứng với cương vị, trách nhiệm được giao là trở ngại lớn trong việc đưa cơ chế, chính sách khuyến khích, phát triển doanh nghiệp vào thực hiện, làm tăng chi phí và giảm nhiệt huyết của doanh nghiệp trong quá trình thành lập và hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.2.3.Thực trạng phát triển đội ngũ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thời gian vừa qua. 3.2.3.1. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển DNNVV thì "DNNVV là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người". Như vậy, định nghĩa hiện tại về DNNVV không thể hiện sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp khác nhau khi đề cập đên một cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc khu vực DNNVV. Nói cách khác, một cơ sở sản xuất kinh doanh được coi là một “doanh nghiệp” dù cơ sở đó như một hộ kinh doanh cá thể hay đăng ký theo Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Tất cả các thực thể kinh doanh này được coi là một “doanh nghiệp”. Điều này cũng phù hợp với định nghĩa quốc tế về DNNVV Trong tài liệu này, khái niệm “doanh nghiệp” sẽ được sử dụng để chỉ các “hoạt động của doanh nghiệp” mà không hàm ý đến loại hình doanh nghiệp, khái niệm này không chỉ bao hàm các doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp mà còn tất cả các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi định nghĩa chính thức về DNNVV như đã nêu trên. DNNVV như được định nghĩa ở trên không phải là một khối doanh nghiệp thuần nhất. Các doanh nghiệp này khá khác biệt về số lượng lao động cũng như năng lực tài chính, công nghệ và quản lý. Các số liệu thống kê mô tả tình trạng DNNVV Việt Nam dưới đây sử dụng cách phân loại doanh nghiệp dự kiến dựa trện số lượng nhân công như sau: - Doanh nghiệp siêu nhỏ: <10 lao động - Doanh nghiệp nhỏ: 10-49 lao động - Doanh nghiệp vừa: 50-299 lao động - Doanh nghiệp lớn: >300 lao động Thực tế trong những năm qua, sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của các DNNVV đã góp phần quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng cũng như vào ngân sách, tạo việc làm, tăng thu nhập cá nhân; góp phần đáng kể trong việc huy động nguồn vốn đầu tư trong dân cho phát triển kinh tế - xã hội. DNNVV là động lực chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam Theo kết quả Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp của Tổng cục Thống kê, hiện có trên 2,7 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút trên 8,3 triệu lao động. Bảng 1 dưới đây cho thấy, vào thời điểm năm 2002, các DNNVV có ít hơn 300 lao động chiếm hơn 99% tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và thu hút hơn 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp. Bảng 5: Số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh ở Việt Nam Việt Nam (2002) doanh nghiệp vừa và nhỏ DN Lớn Tổng số siêu nhỏ nhỏ vừa tỏng Số lượng cơ sở sx kd (1000) 2,660 46.7 11 2,718 2.5 2,720 Tỷ lệ phần trăm trên tổng cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp (%) 97.8 1.7 0.4 99.9 0.09 100 Số lượng lao động Số lao động (1000) 4,375 887 1,221 6,483 1,909 8,392 Tỷ lệ % trên tổng số lao động 52.1 10.5 14.5 77.3 22.7 100 Quy mô bình quân 1 cơ sở 1.6 19 112 2.4 773 3 Nguồn: Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp, Bộ kế hoạch đầu tư Các doanh nghiệp lớn có hơn 300 lao động chỉ chiếm 0,1% tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và tạo công ăn việc làm cho 22,7% lực lượng lao động phi nông nghiệp. Trong khi mức trung bình của doanhnghiệp Việt Nam còn ở quy mô nhỏ với bình quân 3 lao động/cơ sở so với mức bình quân 9 lao động/cơ sở ở các nước EU, thì một “doanh nghiệp nhỏ” của Việt Nam cũng có mức bình quân lao động là 19 người tương đương mức bình quân 20 lao động của doanh nghiệp “nhỏ” của Châu Âu. “Doanh nghiệp vừa” của Việt Nam có 112 lao động còn ở Châu Âu là 95. Doanh nghiệp siêu nhỏ của Việt Nam thì có quy mô nhỏ hơn Châu Âu và có chưa đến 2 lao động tính theo bình quân một cơ sở. Sự khác biệt lớn nhất có thể thấy là trong trường hợp các doanh nghiệp quy mô lớn với mức bình quân 773 lao động/cơ sở tại Việt Nam và còn tại Châu Âu có mức bình quân cao hơn nhiều (1020 lao động) - Kể từ khi Luật Doanh ngh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20158.doc