Chuyên đề Ứng dụng phương pháp xác định giá trị rủi ro VaR trong phân tích và quản trị rủi ro các dự án đầu tư ngành thép tại Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương

VaR là chỉ tiêu đo mức độ tổn thất: Xác định VaR sẽ giúp cho các nhà đầu tư (Ngân hàng) ước tính được nguy cơ tổn thất tài chính của họ. Căn cứ vào VaR, Ngân hàng có thể ước tính được mức độ rủi ro (nguy cơ tổn thất tài chính) của một dự án đầu tư trong một giai đoạn nhất định, từ đó có kế hoạch để lập quỹ dự phòng rủi ro hợp lý. Ví dụ, nếu ngân hàng tính được VaR hàng ngày của một danh mục đầu tư là khoảng 500 triệu VND với mức tín cậy 95 % thì điều đó có nghĩa là xác suất mà Ngân hàng bị thiệt hại 500 triệu VND là 5%.

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4172 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Ứng dụng phương pháp xác định giá trị rủi ro VaR trong phân tích và quản trị rủi ro các dự án đầu tư ngành thép tại Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như về thuế, quyền sử dụng đất, bán đấu giá tài sản còn có nhiều bất lợi cho việc xử lí những tài sản đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp tuyên bố phá sản. Việc cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước hoặc cho vay theo chỉ định gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu nợ, tài sản đảm bảo bị giảm giá do biến động của thị trường, chất lượng tài sản thế chấp bị hỏng do quá thời hạn bảo hành. + Nguyên nhân chủ quan: Mặc dù có rất nhiều điều kiện khách quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là các yếu tố chủ quan do ngân hàng gây ra. • Trước hết phải kể đến việc thu thập thông tin trong quá trình trước khi ra quyết định cho vay không đủ dẫn đến thiếu thông tin nên không phân tích toàn diện. • Ngân hàng không tôn trọng đầy đủ quy trình cho vay, làm thiếu hoặc bớt một số khâu dẫn đến tạo kẽ hở để khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân hàng. • Việc điều tra kiểm soát đối tượng vay vốn về phương án kinh doanh lúc đầu không đảm bảo, thiếu cân nhắc dẫn đến sơ hở, thiếu đảm bảo cho đầu tư vốn có hiệu quả. • Do đội ngũ nhân viên ngân hàng còn yếu kém. • Do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng có thể đơn giản hoá phân tích đánh giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng. • Ngân hàng không kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kiểm tra, đôn đốc quá trình sử dụng vốn vay và thu hồi vốn dẫn đến nhiều khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. • Do tình trạng gian lận, tham nhũng, cố tình vi phạm quy định hoặc có hành vi lừa đảo gây thất thoát vốn nghiêm trọng của một số cán bộ ngân hàng. * Nguyên nhân từ phía khách hàng. + Nguyên nhân chủ quan: • Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. • Do trình độ kinh doanh và khả năng điều hành doanh nghiệp quá kém dẫn đến làm ăn không hiệu quả. • Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thiếu sự linh hoạt, không cải tiến quy trình công nghệ, không trang bị máy móc hiện đại… dẫn đến sản phẩm không cạnh tranh được, bị ứ đọng không có khả năng tiêu thụ, doanh nghiệp không có tiền trả nợ cho ngân hàng. • Do chính bản thân doanh nghiệp chủ ý muốn lừa đảo nhằm chiếm dụng vốn của ngân hàng. + Nguyên nhân khách quan: Có thể thấy nhũng nguyên nhân khách quan sau gây ra những hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh của khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. • Do sự thay đổi bất thường của những chính sách kinh tế của nhà nước như thuế, XNK… • Do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn… * Những nguyên nhân khác: Bên cạnh những nguyên nhân từ hai phía ngân hàng và khách hàng cũng có nhiều nguyên nhân gây rủi ro khác. • Do môi trường pháp lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ. • Do sự biến động của tình hình chính trị xã hội trong và ngoài nước gây khó khăn cho doanh nghiệp dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. • Ngân hàng không theo kịp sự phát triển của xã hội, nhất là sự bất cập trong trình độ chuyên môn cũng như công nghệ ngân hàng. • Do sự biến động của nền kinh tế. • Sự điều tiết của bàn tay vô hình của cơ chế thị trường. • Sự bất bình đẳng trong việc đối xử của nhà nước giành cho các ngân hàng thương mại khác nhau. • Chính sách của nhà nước chậm thay đổi hoặc chưa phù hợp với tình hình phát triển đất nước. 1.2.3. rủi ro thanh khoản : Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về tiền, rủi ro thanh khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền một cách nhanh chóng mà không chịu thất thoát về giá cả. Hay nói một cách khác rủi ro thanh khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng rút tiền ào ạt. 1.2.4. rủi ro hoạt động : rủi ro do chính con người hoặc sự cố về kỹ thuật mang lại một cách vô tình hay cố ý. Đây cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng. 1.2.5. rủi ro pháp lý : phát sinh do thực hiện các giao dịch không đúng luật gây nên tổn thất, kiện cáo của khách hàng hoặc của các cổ đông. 1.3. Một số sự kiện trên thị trường tài chính đáng chú ý: - Năm 1971, hệ thống tỷ giá cố định được dỡ bỏ và thay vào đó là hệ thống tỷ giá thả nổi, vừa tạo ra những biến động thường xuyên của tỷ giá ngoại tệ. - Năm 1973, cú sốc về dầu lửa gây nên một tỷ lệ lạm phát rất cao và lãi suất dao động mạnh tại nhiều nước trên thế giới. - Năm 1975, lần đầu tiên tại thị trường chứng khoán Chicago, các hợp đồng Future được đưa vào giao dịch. - Ngày thứ 2 đen tối, 19/10/1987, tại thị trường LonDon chỉ số FTSE đột ngột giảm 30% chỉ sau 3 ngày. Thị trường chứng khoán Mỹ đổ bể, chỉ số chứng khoán Down Jone giảm 500 điểm (23%), thiệt hại ước tính trên 1000 tỷ USD tiền vốn. Chỉ trong ngày này, chỉ số Hansen tại thị trường HongKong đã giảm 10% khiến nhà chức trách buộc phải đóng cửa thị trường (ngày 26/10 thị trường mở cửa trở lại và chỉ số Hansen tiếp tục giảm 33%). Riêng thị trường Tokyo tuy có bị ảnh hưởng nhưng mức độ không trầm trọng. Cho đến nay, nhiều tổ chức, cá nhân vẫn cố gắng lý giải, tìm hiểu các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. - Năm 1989, hiện tượng bong bóng đầu tư trên thị trường chứng khoán Nhật bắt đầu vỡ,chỉ số chứng khoán Nikkei bắt đầu giảm từ 39000 điểm xuống 17000 điểm trong vòng 3 năm dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Nhật, thiệt hại trên 2.7 ngàn tỷ USD tiền vốn. - Năm 1992, xu hướng tiến tới một đồng tiền chung Châu Âu tạm thời bị gián đoạn do những biến cố làm cho một số nước phải tạm thời rút cam kết ra khỏi hệ thống tiền tệ Châu Âu. - Năm 1994, sau hơn 3 năm duy trì mức lãi suất thấp, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã 6 lần liên tiếp điều chỉnh lãi suất làm thiệt hại 1.5 ngàn tỷ USD tiền vốn trên thị trường thế giới. - Ngày 26/2/1995, ngân hàng Baring, một trong những ngân hàng lâu đời nhất của Anh tuyên bố phá sản do sự sụp đổ của chi nhánh Singapo, thiệt hại xấp xỉ khoảng 13 tỷ USD. - Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á (1996 - 1999). Từ cuối năm 1996, khủng hoảng tiền tệ bắt đầu từ Thái Lan, Malayxia sau đó lan sang Nga, Ba Lan, rồi sang các nước Đông Âu, Nam Mỹ. - Năm 1997, khủng hoảng tiền tệ Châu Á xảy ra tại các nước Thái Lan, Mlaysia, Indonesia, Hàn Quốc. - Năm 1998, khủng hoảng mất khả năng thanh toán của nhiều ngân hàng Nga. - Năm 1998, sự đổ vỡ của công ty “Quản lý quỹ đầu tư vốn dài hạn” (Long Term Capital Management). Quỹ do một số tài phiệt phố Wall kết hợp với một số chuyên gia tài chính lỗi lạc (đã từng đoạt giải Nobel kinh tế) điều hành. Năm 1998 quỹ mất khả năng thanh toán món nợ khổng lồ 100 tỷ USD buộc FEB phải hỗ trợ 3,5 tỷ USD tuy nhiên sự kiện này vẫn gây thiệt hại hàng tỷ USD đối với các cổ đông và nhà đầu tư của quỹ. Bảng dưới đây tóm tắt một số ảnh hưởng tiêu cực của những biến động trong hệ thống ngân hàng, tài chính các nền kinh tế của một số quốc gia: Nước/năm Phạm vi Tổn thất (%GDP) Tổn thất (tỷ USD) Nhật,1990 Nợ xấu, bất động sản 14 550 Trung Quốc,1990 4 ngân hàng quốc doanh lớn nhất 47 498 Mỹ,1984-1991 1400 tổ chức tiết kiệm tín dụng,1300 ngân hàng đổ bể tài chính 2.7 150 Hàn Quốc,1998 Cơ cấu lại ngân hàng 28 90 Mehico,1995 20 ngân hàng tái cơ cấu vốn 17 72 Archentina,1980-92 Đóng cửa 70 tổ chức TC 55 46 Thái Lan,1997 Hệ thống ngân hàng 32 36 Malaysia,1997 Hệ thống ngân hàng 35 25 Thuỵ Điển,1991-94 Cứu cánh 5 ngân hàng 4 15 Pháp,1994-95 Ngân hàng Credit Lyonnaire 0.7 10 Isarel,1977-83 Toàn bộ hệ thống ngân hàng 30 8 Phần lan,1991-93 Ngân hàng tiết kiệm 8 7 Úc,1989-92 Cơ cấu vốn 2 Ngân hàng lớn 2 6 Nguồn: số liệu trích từ "Philippe Jorion (2001), Value at Risk" 1.4. Nhu cầu về quản lý định lượng rủi ro: Các nhân tố của thị trường như lãi suất, tỷ giá luôn luôn biến động, do đó các NHTM luôn phải gánh chịu rủi ro thị trường. Lịch sử đã chứng kiến rất nhiều ngân hàng bị sụp đổ do tác động của rủi ro thị trường, như Nothern Rock tại Anh vào năm 2007 ( do sự thay đổi của lãi suất thị trường, khi lãi suất Libor lên tới đỉnh điểm ~7% vào tháng 7/2007 ) hay nhu sự thua lỗ của một loạt các NHTM tại Mỹ vào những năm 1990s. Tại Việt Nam hiện nay, chúng ta đang giám sát rủi ro với các NHTM dựa trên quyết định 457/2005 của NHNN, trong đó chủ yếu tuân theo Basel 1 năm 1998 với các qui định về tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu ( CAR ), các tỉ lệ về đảm bảo khả năng thanh toán, về giới hạn cho vay...và chưa đề cập tới bất kỳ một chỉ tiêu hay công cụ gợi ý nào cho các NHTM để đo lường và giám sát rủi ro thị trường. Trong năm 2008, khi lãi suất thị trường và tỷ giá biến động mạnh, rất ít các NHTM có một hệ thống dự báo về tổn thất có thể xảy ra để có thể có mức vốn dự trữ hợp lý, hoặc điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình sao cho phù hợp. Qua thời gian, Basel 1 đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu. Việc áp dụng Basel 1 chưa thể giúp các nước ngăn chặn khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà cụ thể là nước Mỹ đã trải qua hàng loạt thất bại trong lĩnh vực quản lý ngân hàng vào những năm 1990s. Hiệp ước Basel 2 được ra đời vào năm 2001 nhằm thay thế Basel 1, đã đưa ra 1 loạt các chuẩn mực và lựa chọn, đưa ra quyền tự quyết rất lớn trong hoạt động giám sát ngân hàng. Hiện tại, các NHTM trên thế giới đang triển khai các hệ thống giám sát ngân hàng dựa trên 3 trụ cột của hiệp ước Basel 2: * Trụ cột (i) - Yêu cầu vốn tối thiểu: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Lượng vốn duy trì được tính toán theo ba yếu tố rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt ( rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành và rủi ro thị trường ). Những loại rủi ro khác không được coi là có thể lượng hoá hoàn toàn ở bước này. * Trụ cột (ii) - Giám sát: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những " công cụ " tốt hơn so với Basel 1. Trụ cột này cũng cung cấp 1 khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên " rủi ro còn lại ( residual risk ) ". * Trụ cột (iii) - Tuân thủ kỷ luật thị trường để nâng cao tính ổn định của hệ thống tài chính: làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải công bố để thị trường có một bức tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý. Trong trụ cột (ii), Basel đã đưa ra một số khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, đặc biệt là rủi ro thị trường, đó là việc áp dụng mô hình Varlue at Risk ( giá trị khi rủi ro ) để giám sát những rủi ro do sự thay đổi các tác nhân thị trường gây ra. 2. Định giá rủi ro bằng phương pháp VaR 2.1. Khái niệm về giá trị rủi ro (VaR): Trong lĩnh vực toán tài chính và quản trị rủi ro tài chính, VaR được sử dụng rộng rãi trong đo lường rủi ro bị tổn thất của một danh mục cụ thể. Với một danh mục cho trước xác suất và khoảng thời gian, VaR được xem như một ngưỡng giá trị mà khả năng bị tổn thất trên giá trị điều chỉnh theo thị trường của danh mục đó trong khoảng thời gian định trước vượt qua giá trị này ( với giả điịnh diễn biến thị trường như bình thường và không có giao dịch mua bán danh mục ) chính là mức xác suất đã được cho trước => VaR của danh mục hoặc tài sản thể hiện mức độ tổn thất có thể xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định với mức dộ tin cậy nhất định. Ví dụ, nếu ngân hàng tính được VaR hàng ngày của một danh mục đầu tư là khoảng 500 triệu VND với mức tín cậy 95 % thì điều đó có nghĩa là xác suất mà Ngân hàng bị thiệt hại 500 triệu VND là 5%. Khoản tổn thất vượt quá ngưỡng VaR được gọi là "VaR break". Để khái quát hoá, tôi đưa ra một số đặc điểm cơ bản về VaR như sau: - VaR là tổn thất tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện xác suất xảy ra tổn thất thực sự lớn hơn là rất thấp. Nói cách khác, VaR là số tiền lớn nhất có khả năng bị mất của danh mục trong một khoảng thời gian cho trước, với một độ tin cậy nhất định. - VaR thông thường được tính cho từng ngày trong khoảng thời gian nắm giữ tài sản, và thường được tính với độ tin cậy 95% hoặc 99%. Độ tin cậy 95%: Với sác xuất khoảng 95% tổn thất của danh mục sẽ thấp hơn so với VaR đã được tính toán. Thông thường, VaR được xem như là số thiệt hại lớn nhất của danh mục trong vòng 24h, với độ tin cậy 95%. - VaR có thể áp dụng được với mọi danh mục có tính lỏng ( danh mục mà giá trị được điều chỉnh theo thị trường ). VaR không thể áp dụng được với các tài sản không có tính lỏng ( như bất động sản, tác phẩm nghệ thuật...). Tất cả mọi tài sản lỏng đều có giá trị không cố định, được điều chỉnh theo thị trường với một quy luật phân bố xác suất nhất định - mọi nguyên nhân rủi ro của thị trường hình thành nên quy luật phân bố xác suất này. Hữu dụng với tất cả tài sản lỏng, chứa đựng mọi nguồn rủi ro thị trường, do đó VaR là phương pháp đo lường toàn diện đối với rủi ro thị trường. - VaR được xác định dựa trên quy luật phân bố xác suất cho giá trị thị trường của danh mục. Thông thường, sự biến động giá trị của các tài sản lỏng tuân theo quy luật phân phối chuẩn, với 2 giá trị đặc trưng là mức ý nghĩa ( kỳ vọng ) và phương sai. 2.2. Các công cụ quản lý rủi ro: Sự dao động với tần suất và biên độ ngày càng lớn trên thị trường hối đoái, thị trường hàng hóa, thị trường lãi suất…làm nảy sinh nhu cầu đối với những công cụ tài chính mới có khả năng vô hiệu hóa những biến động bất thường. Như vậy, quản lý rủi ro tài chính có thể được định nghĩa là sự thiết kế và phát triển các công cụ kiểm soát rủi ro tài chính. Quản lý rủi ro là phản ứng nhằm đối phó với những biến động ngày càng tăng trên thị trường tài chính toàn cầu, và được hỗ trợ bởi những phát kiến kỹ thuật. Sự phát triển của công nghệ cao đã tạo ra những đột phá mới ở cả hai phương diện: về trang bị kỹ thuật và về lý thuyết tài chính. Ứng với mỗi công cụ tài chính người ta đưa ra những phương tiện kiểm soát rủi ro khác nhau: Công cụ Công cụ định lượng rủi ro Trái phiếu Thời gian đáo hạn bình quân (duration), độ lồi (convexity), các mô hình về cấu trúc thời hạn (term-stucture models) Tín dụng Định mức tín nhiệm (rating), các mô hình vỡ nợ (default models) Cổ phiếu Độ biến động giá (volatility), hệ số tương quan (correlations), chỉ số beta Chứng khoán phái sinh Delta, gamma, vega… Forex Spreads, target zones 2.3. VaR – công cụ quản lý rủi ro hiện đại: Value at Risk được phát triển dựa trên những kế thừa từ những phương pháp đo lường rủi ro trước đó. Rủi ro được hiểu như là độ bất định của giá. Để quản lý tốt hơn rủi ro ( và qua đó là lợi nhuận ), các công cụ đo lường định lượng rủi ro được phát triển mạnh mẽ từ những năm 1990. Thay vì ước lượng độ bất định của giá một cách định tính, ví dụ cần dự phòng 8% giá trị thị trường cho một danh mục cổ phiếu, người ta muốn tính ra một con số cụ thể đặc trung cho rủi ro có thể xảy ra của danh mục đó, cập nhật liên tục nhằm tối ưu hoá dòng tiền. Tương tự như vậy cho tất cả các danh mục chứng khoán khác như trái phiếu, ngoại tệ, giấy tờ có giá...Có rất nhiều mô hình đo lường rủi ro, nhưng được sử dụng phổ biến vượt xa những mô hình khác là VaR - viết tắt của Value at Risk - được xây dựng trên những cơ sở lý thuyết xác suất và thống kê từ nhiều thế kỷ, phát triển và phổ biến đầu những năm 1990. Và từ năm 1994, với sự ra đời của Risk Metric, một gói sản phẩm ứng dụng VaR mang thương hiệu của một công ty tách ra từ JP MOrgan Chase, VaR đã được áp dụng rộng rãi và trở thành một tiêu chuẩn trong việc đo lường và giám sát rủi ro tài chính, đặc biệt là rủi ro thị trường, trên toàn thế giới. .Điểm mới và khác biệt giữa mô hình VaR với các mô hình quản lý rủi ro trước đó chính là khả năng tổng hợp và tích hợp nhiều loại rủi ro của hệ thống này. Tuy VaR là chuẩn mực mới trong đo lường và giám sát rủi ro thị trường nhưng nó vẫn bao hàm những hạn chế nhất định : - Hạn chế đầu tiên cũng là hạn chế lớn nhất của VaR, đó là giả định các yếu tố của thị trường không thay đổi nhiều trong khoảng thời gian xác định VaR. Đây là một hạn chế rất lớn, và trong năm 2007-2008 đã dẫn đến sự phá sản của một loạt ngân hàng đầu tư trên thế giới, do điều kiện thị trường có những biến động đột ngột vượt xa so với quá khứ. - Hạn chế thứ hai, đó là hiệu ứng " đuôi chuông ". Như chúng ta đã biết, do tuân theo quy luật phân phối chuẩn, hàm mật độ phân phối của danh mục có hình dạng quả chuông, và những mức tổn thất lớn nhất, ngoài dự đoán, thường nằm ở phần đuôi bên trái của đồ thị hình chuông này. Ví dụ, khi đo lường VaR cho một danh mục trading với tổng quy mô 640 triệu USD cho 252 ngày, với độ tin cậy 99%, ngân hàng xác định được ngưỡng tổn thất lớn nhất là 50 triệu USD. Tuy nhiên, chỉ cần trong 2 ngày nằm ngoài mức tin cậy ( 1% " đuôi " còn lại trong 252 ngày làm việc ), có 1 ngày mức tổn thất của ngân hàng lên tới 1 giá trị quá ngưỡng, chẳng hạn 300 triệu USD, ngay lập tức sẽ đầy danh mục đó phá sản. Đó chính là hạn chế của VaR, với những tổn thất nằm ngoài dự đoán ( ngoài khoảng tin cậy ), khiến cho hàng loạt ngân hàng đầu tư phá sản khi quá tin tưởng vào VaR có được. 3. VaR trong phân tích tài chính 3.1. VaR là công cụ, thước đo rủi ro: VaR không chỉ là một công cụ để thông báo về các mức độ rủi ro thị trường, mà chúng còn được sử dụng như các công cụ nhằm kiểm soát mức độ rủi ro. Ở quy mô một lĩnh vực kinh doanh hoặc một cơ sở, VaR có thể được sử dụng để xác lập các giới hạn vị thế cho các nhà kinh doanh quyết định sẽ bỏ vốn đầu tư vào đâu. Ưu điểm lớn nhất của VaR là chúng tạo thành một mẫu số chung để có thể so sánh mức độ rủi ro của các hoạt động kinh doanh và đầu tư khác nhau. -Các tham số định lượng trong mô hình VaR bao gồm: mức tin cậy và độ dài kỳ đánh giá. Nhìn chung VaR sẽ tăng khi độ tin cậy yêu cầu cao hơn hoặc kỳ hạn đánh giá dài hơn. Việc lựa chọn các tham số định lượng này hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người sử dụng VaR -VaR là chỉ tiêu đo mức độ tổn thất: Xác định VaR sẽ giúp cho các nhà đầu tư (Ngân hàng) ước tính được nguy cơ tổn thất tài chính của họ. Căn cứ vào VaR, Ngân hàng có thể ước tính được mức độ rủi ro (nguy cơ tổn thất tài chính) của một dự án đầu tư trong một giai đoạn nhất định, từ đó có kế hoạch để lập quỹ dự phòng rủi ro hợp lý. Ví dụ, nếu ngân hàng tính được VaR hàng ngày của một danh mục đầu tư là khoảng 500 triệu VND với mức tín cậy 95 % thì điều đó có nghĩa là xác suất mà Ngân hàng bị thiệt hại 500 triệu VND là 5%. 3.2. VaR – công cụ quản lý rủi ro chủ động: Quản lý tài chính thực chất là vấn đề cân đối giữa lợi nhuận và rủi ro. Những chỉ số điều chỉnh theo rủi ro dựa trên VaR đã trở thành những chỉ số mang tính quyết định trong hoạt động quản lý rủi ro tài chính. 3.3. VaR được sử dụng để xác lập vốn an toàn, rủi ro: VaR có thể được định nghĩa là giá trị vốn rủi ro, còn gọi là vốn kinh doanh cần thiết cho một hoạt động tài chính. Khi đó, người ta có thể giải quyết được vấn đề, làm thế nào xác định được tỷ lệ lợi suất của các khoản đầu tư mà không có giá trị cơ sở 3.4. Hệ số điều chỉnh k trong hiệp định Basel : Hiệp định Basel quy định về vốn an toàn rủi ro trong các ngân hàng thương mại, theo đó các ngân hàng được phép sử dụng mô hình đánh giá rủi ro nội bộ để ước lượng VaR và giá trị VaR được xem là vốn an toàn rủi ro bắt buộc của ngân hàng. Hiệp định Basel quy định : + Mức độ tin cậy cho phép là 99% + Kỳ hạn đánh giá là 10 ngày kinh doanh + Kết quả đánh giá VaR sẽ được nhân với hệ số điều chỉnh k=3 để có được mức vốn an toàn rủi ro tối thiểu. 3.5. VaR – giá trị rủi ro của danh mục đầu tư: Một danh mục đầu tư bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau và tỷ trọng của mỗi tài sản trong danh mục được thể hiện qua giá trị của tài sản đó so với giá trị của toàn bộ tài sản trong danh mục đầu tư. Ký hiệu Rp,t+1 là lợi suất của danh mục đầu tư p, trong kỳ đánh giá (t,t+1) (1.22) N: số tài sản trong danh mục Ri,t+1: lợi suất của tài sản i wi : tỷ trọng (quyền số) tài sản trong danh mục đầu tư, . Định nghĩa V chính là tổng giá trị các tài sản trong danh mục đầu tư, theo cách định nghĩa quyền số wi ta có: Vi=wi.V Tương tự ta có: Rp=w1R1+ w2R2+... + wNRN = w'R (1.23) W: vectơ các quyền số ; w= [w1, w2,..., wN ] (1.24) R là vectơ cột gồm lợi suất đầu tư các tài sản thành phần. (i=1,2,3,...,N) (1.25) (1.26) Phương trình (1.26) chỉ ra rằng rủi ro- lợi suất của danh mục đầu tư bao hàm không chỉ có rủi ro của các tài sản thành phần mà còn cả hiệp phương sai giữa các tài sản thành phần trong danh mục đầu tư. Tổng cộng có N phương sai và N(N-1)/2 hiệp phương sai. Để đơn giản ta viết (1.26) dưới dạng ma trận: Với = [ w1 ,w2, …,wn] , Để có thể xác định VaR chúng ta cũng phải giả định về hàm phân phối của giá trị mark-to-market của danh mục đầu tư. Trong trường hợp đơn giản nhất, khi mà các giá trị mark-to-market của tất cả các chứng khoán cấu thành đều có phân phối chuẩn, thì khi đó, lợi suất của danh mục đầu tư, cũng sẽ có phân phối chuẩn. Hoàn toàn tương tự như trong trường hợp xác định VaR của một công cụ , chúng ta sẽ quy đổi độ tin cậy c về một độ lệch α có phân phối chuẩn N(0,1) sao cho xác suất thiệt hại lớn hơn α (tức nhỏ hơn –α) là c. Ký hiệu Vp là giá trị tại thời điểm hiện tại của danh mục đó, thì VaR của danh mục này được xác định bởi: (1.27) Từ các phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, VaR của một danh mục đầu tư phụ thuộc vào phương sai, hiệp phương sai và số lượng chứng khoán cấu phần. Ở đây, hiệp phương sai là thước đo đánh giá quy mô mà hai biến ngấu nhiên thay đổi cùng nhau một cách tuyến tính. Nếu như hai biến ngẫu nhiên này là hoàn toàn độc lập với nhau, hiệp phương sai giữa chúng là 0. Nếu như hai biến ngẫu nhiên biến đổi cùng chiều, hiệp phương sai có giá trị dương. Hiệp phương sai nhận giá trị âm, nếu như hai biến ngẫu nhiên biến đổi ngược chiều. Tuy nhiên, độ lớn của hiệp phương sai rất khó đánh giá và chúng phụ thuộc vào giá trị phương sai của từng biến ngẫu nhiên. Dưới dạng tiền tệ có thể viết: (1.28) Với x là véctơ cột của giá trị các tài sản đầu tư trong danh mục, V là tổng giá trị các tài sản trong danh mục đầu tư. Ký hiệu α là mức ý nghĩa cho phép, V là giá trị ban đầu của danh mục đầu tư, x là véctơ cột của giá trị các tài sản đầu tư trong danh mục. Ta có VaR(danh mục đầu tư) = (1.29) Tương tự, VaR của từng tài sản trong danh mục đầu tư được xác định: = (1.30) Sở dĩ lấy giá trị tuyệt đối vì trọng số wi có thể âm (trong trường hợp thực hiện chiến lược bán phòng hộ) nhưng giá trị rủi ro luôn mang dấu dương. Trong lý thuyết và thực tế, người ta hay sử dụng một đại lượng tương đối biểu thị tương quan giữa hai tài sản bất kỳ trong danh mục đầu tư, đó là hệ số tương quan , được định nghĩa như sau: (1.31) Khi ρ12 = 1 ta nói hai tài sản tương quan với nhau tuyệt đối. Khi ρ12 = 0 ta nói hai tài sản không có tương quan với nhau. Rủi ro của một danh mục đầu tư có thể giảm nếu ta tăng số lượng các tài sản cấu thành trong danh mục đầu tư hoặc lựa chọn các tài sản trong danh mục có mức độ tương quan thấp. Để minh họa, có thể giả thiết rằng tất cả các tài sản trong danh mục đầu tư có cùng độ rủi ro và có cùng tỷ trọng wi = 1/N. Dễ thấy : (1.32) Khi N thì (1.33) Xét danh mục đầu tư gồm hai tài sản, ký hiệu là hệ số tương quan giữa chúng. Ta có: (1.34) = (1.35) Nhận thấy nếu =1 thì : VaRp = (1.36) Rủi ro của danh mục này bằng tổng rủi ro của các tài sản thành phần nếu các tài sản thành phần này tương quan tuyệt đối với nhau. Trong thực tế hiếm khi các tài sản tương quan với nhau ở mức tuyệt đối, tức ρ = 1. Trong trường hợp như thế, rủi ro giảm đi luôn đạt được thông qua danh mục đầu tư gồm nhiều tài sản thành phần. 3.6. Quy trình xây dựng và áp dụng VaR trong quản lý rủi ro thị trường của Ngân hàng: * Quy trình xây dựng : Quy trình xây dựng VaR gồm những bước cơ bản sau: • Xác định giá trị mark-to-market của danh mục đầu tư. Giả thiết t=0 là tại thời điểm hiện tại, giá trị mark-to-market của danh mục đầu tư này tại thời điểm hiện tại là P0, giá trị mark-to-market của danh mục đầu tư của thời kỳ kế tiếp là P1 (chưa biết). • Dự kiến mức độ thay đổi của những tác nhân gây rủi ro. Giả thiết mức độ thay đổi này là %, • Xác lập bước thời gian (hay thời hạn nắm giữ danh mục). Lưu ý đơn vị là năm. Giả thiết bước thời gian là t ngày làm việc (giả thiết là 1 ngày) hay (t/250) năm. • Xác lập khoảng tin cậy/ độ phân tán Theo đó giá trị VaR được xác định theo công thức sau: VaR = P*%** fc * Áp dụng VaR trong quản lý rủi ro thị trường của Ngân hàng: Tại những nước có hệ thống tài chính phát triển, các cơ quan có thẩm quyền thường bắt buộc các ngân hàng tính toán VaR với một độ tin cậy nhất định, ví dụ tại Đức, ngân hàng trung ương (NHTW) yêu cầu các NHTM tính toán VaR trong 10 ngày với độ tin cậy 99%, đồng thời định kỳ NHTW sẽ kiểm tra sự chính xác trong hệ thống VaR của ngân hàng thông qua phép thử Backtest, nếu phép thử có số tổn thất lớn hơn VaR nhiều hơn mức dự kiến, sẽ cho thấy hệ thống VaR nội bộ của ngân hàng đó chưa chính xác, và sẽ phải điều chỉnh sao cho những kết quả thực tế sau này phù hợp với giá trị VaR mà hệ thống đưa ra. Trong hoạt động ngân hàng tồn tại 2 dạng sổ là banking book và trading book. Với banking book, đó là các hoạt động nội bảng của ngân hàng: Các hoạt động quản lý tài sản nợ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docỨng dụng phương pháp xác định giá trị rủi ro VaR trong phân tích và quản trị rủi ro các dự án đầu tư ngành thép tại Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh .doc
Tài liệu liên quan