Đề án Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam

MỤC LỤC

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1

1. Khái quát về tỷ giá hối đoái 1

1.1. Khái niệm 1

1.2. phân loại tỷ giá hối đoái. 1

2. Hệ thống chế độ tỷ giá hối đoái 2

2.1. Chế độ tỷ giá cố định (đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo) 2

2.2. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do (còn gọi là chế độ tỷ giá thị trường, chế độ tỷ giá linh họat) 2

2.3. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết 3

3. Vai trò của tỷ giá hối đoái 3

4. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái 4

4.1. Phá giá tiền tệ 4

4.2. Nâng giá tiền tệ 5

4.3. Chính sách chiết khấu 5

4.4. Chính sách hối đoái 5

5. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái 6

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM 8

1. Tình hình quản lý tỷ giá Việt Nam trong những năm qua. 8

1.1. giai đoạn năm 1955-1989 8

1.2. Giai đoạn sau năm 1990 10

1.2.1. giai đoạn thả nổi tỷ giá 1989-1993 10

1.2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá : 1993-1996 11

1.2.3. Giai đoạn thả nổi có điều tiết từ năm 1997-1999 12

2. Những diễn biến quan trọng của tỷ giá hối đoái từ 2/1999 đến nay: 13

3.Thực trạng diễn ra trong thời gian gần đây của tỷ giá trên thị trường 15

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ 26

1. Mục tiêu và định hướng của chính sách tỷ giá nước ta trong

thời gian tới 26

1.1. mục tiêu của chính sách tỷ giá nước ta trong thời gian tới 26

1.2. Định hướng hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái 26

2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tỷ gía hối đoái tại Việt Nam. 27

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3200 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông ngoại tệ. → Vì vậy đến năm 1993, Nhà nước đã "cố định" tỷ giá mà chúng ta sẽ xem xét trong giai đoạn 1993-1996 . 1.2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá : 1993-1996 Bảng 2: Tỷ giá và Lạm phát của Việt Nam qua các năm 1993 – 1996 Năm Tỷ giá USD/VND So sánh % năm trước Tốc độ lạm phát 1 2 3 4 1993 10.835 100% 5,2% 1994 11.050 +1,98% 14,4% 1995 11.040 0% 12,7% 1996 11.606 +0,18% 4,5% (Số liệu lấy từ Tập san Khoa Học Ngân Hàng tháng 7.1995 đến tháng 12.1995, và từ số 1.1996 đến tháng 12.1996 và từ tháng 1.1997 đến tháng 12.1997). Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh lệch nhiều, nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua bảng số liệu trên (bảng 2) chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian khá dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua đối nội của VND, kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn nội tệ vào ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc cố định tỷ giá trong một thời gian dài(1993-1996) đã không khuyến khích được xuất khẩu, đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây: Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (Đơn vị tính: triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh 1 2 3 4=3-2 1993 2.985 3.924 -939 1994 4.054 8.825 -1.771 1995 5.448,9 8.155,4 -2.706,5 1996 7.255 11.143 -3.888 (Số liệu lấy từ nguồn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn của UBND Thành Phố HCM qua các năm 1996-1997-1998). Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài đã làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia. Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993-1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn, cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995, 3,8 tỷ USD 1996. 1.2.3. Giai đoạn thả nổi có điều tiết từ năm 1997-1999 Năm 1997, đặc biệt là vào nửa cuối năm, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam Á bùng nổ, buộc các nước này phải tiến hàng phá giá mạnh đồng nội tệ. So với giai đoạn trước đây, tỷ giá VND/USD trong thời kì khủng hoảng biến động khá phức tạp, có xu hướng tăng nhanh, đồng thời đột biến theo những cơn sốt giá ngọai tệ. tỷ giá VND/USD đã được điều chỉnh tăng đều liên tcụ, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch. Sau khi thị trường đã đi vào ổn định, ngày 25 tháng 2 năm 1999, NHNN đã công bố tỷ giá giao dịch bình quân lien ngan hàng thay cho việc công bố tỷ giá chính thức. tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh từ 12976 VND/USD lên 13885 VND/USD (tăng 7%), trên cơ sở đó giảm biên độ giao động xuống còn +0,1%. Trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân lien ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN thông báo, các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch không vượt quá 0,1% so với mức tỷ giá này. Điều này thực sự đã thay đổi về cơ chế quản lý điều hành tỷ giá, tạo quyền chủ động cho các NHTM tự quy định mức tỷ giá giữa VND với các ngoại tệ khác ngoài USD. Liên tục đến năm 2000, cùng với các biện pháp phát triển của ngoại tệ, với cơ chế điều hành tỷ giá tỷ giá mới, sức mua của VND được phản ánh tương đối khách quan so với ngoại tệ, tạo điều kiện chủ động hơn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảovai trò kiểm soát của nhà nước. Nhìn chung, tỷ giá thời kỳ 1997-1999 diễn biến phức tạp với xu hướng USD lên giá mạnh, nguyên nhân khiến USD lên giá gồm: - Xu thế lên giá chung của USD so với các ngoại tệ khác trên trường quốc tế. - Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ, đồng tiền của hầu hết các nước Đông Nam Á đều giảm mạnh so với đồng USD. - Tình hình cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng. - Cầu ngoại tệ tăng do xuất hiện nhu cầu ngoại tệ để thanh toán các L/C nhập hàng trả chậm. - Giá vàng trong nước trên thị trường thế giới có sự chênh lệch ngày càng lớn, dẫn đến tình trangh mua vét ngoại tệ để nhập vàng về bán trong nước. - Do tâm lý mất giá VND, nên xu hướng dịch chuyển từ VND sang USD để bảo toàn giá trị. 2. Những diễn biến quan trọng của tỷ giá hối đoái từ 2/1999 đến nay: Tháng 2 năm 1999, với sự ra đời của quyết định 64/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của VN có bước cải cách triệt để hơn. Từ tháng 2/1999 về trước, cơ chế điều tỷ giá ở VN là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch có lúc đến ( +,-)10%. Nhưng bắt đầu từ 25/2/1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay vào đó là việc “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân lien ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ giá bình quân lien ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó,từ ngày 1/7/2002 biên độ này được mở rộng lên (+,-_ 0,25%. Đây là buớc cải cách có ý nghĩa rất lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang cơ chế tỷ giá xác định khách quan hơn trên cơ sở cung cầu của thị trường, đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Dưới cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết NHNN đã không chủ quan trực tiếp ấn định, không công bố tỷ giá chính thức, mà thay vào đó là chỉ “ thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Mà tỷ giá liên ngân hàng lại có do nhu cầu trên thị trường liên ngân hàng quyết định. Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh theo nguyên tắc: Tỷ giá kinh doanh = TGBQLNH(1+/- 0,0025) Suy ra: tỷ giá bán ra (max) =TGBQLNH(1+0,0025) Tỷ giá mua vào (min) = TGBQLNH (1- 0,0025) Ở đây, yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng TGBQLNH . Bên cạnh đó tỷ giá không được tự do biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng, mà thay vào đó sự biến động chỉ trong giới hạn (+/- 0,25%) so với tỷ giá giao dịch trước đó. Tỷ giá cố định trong suốt một ngày giao dịch , bất chấp những thay đổi đột biến trong quan hệ cung cầu ngoại tệ vượt ra ngoài biên độ dao động cho phép. Ngòai ra ngân hàng còn sử dụng một hệ thống các công cụ để tác động lên tỷ giá, như: trực tiếp mua vào bán ra trên thị trường ngoại hối, sử dụng biện pháp kết nối, tăng giảm lãi suất… Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết của Việt Nam hiện nay vẫn chưa có tính linh hoạt cao do các yếu tố sau: - Trước hết, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam còn rất sơ khai. Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng quá nhỏ bé, ước gần khoảng gần 300 triệu USD/ tháng, chiếm khoảng 22% tổng doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối. Với tỷ trọng thấp như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam khác xa so với thị trường quốc tế, nơi mà thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng tới 85%. Do đó, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ cung cầu trên thị trường, thậm chí có ngày không phát sinh giao dịch nào. - Thực tế cho thấy, do tình trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên, nên các NHTM phải áp dụng tỷ giá giao dịch kịch trần cho phép,(tức bằng TGBQLNH +0,25%) - Tỷ giá được công bố có giá trị trong suốt một nhgày làm việc. Như vậy, nếu có trong ngày có sự thay đổi lớn về cung cầu thì các NHTM không có đieùe kiện thay đổi tỷ giá cho phù hợp. - Trong thời gian đầu, NHNN chỉ quy định biên độ giao động một chiều( tối đa là +0,1%). Điều này tạo tâm lí cho các thành viên tham gia thị trường là tỷ giá VND chỉ có thể tăng, nên NHNN phải khống chế tăng, còn khả năng tỷ giá giảm là rất khó xảy ra, nên NHNN không cân quy định chiều giảm. Điêu này tạo tâm lý đầu cơ, ưa chuộng ngoại tệ vì nó chỉ có thể tăng. Một thực tế là, các NHTM luôn kinh doanh với tỷ giá kịch trần, do đó, nếu NHNN có quy định sàn tỷ giá thì cũng không có ý nghĩa thực tế. Tuy nhiên, để hạn chế tâm lí và để tỷ giá được linh hoạt hơn. NHNN đã quy định biên độ hai chiều, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch lên +/-0,25%. 3.Thực trạng diễn ra trong thời gian gần đây của tỷ giá trên thị trường Lạm phát đang là một vấn đề nóng bỏng hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Và như chúng ta thấy: Lạm phát - Tỷ giá hối đoái – Lãi suất: là một cái vòng luẩn quẩn đang bao lấy kinh tế Việt Nam. Việc Quốc hội Mỹ thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính nước này trị giá 700 tỷ USD, đồng thời với việc ngân hàng trung ương nhiều nước bơm hàng trăm tỷ USD để bình ổn thị trường tài chính khiến không ít người lo ngại thị trường ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Đã có những ý kiến cho rằng, trong bối cảnh thị trường ngoại tệ bấp bênh trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, Việt Nam nên phá giá VND để giảm thâm hụt cán cân thương mại, giảm áp lực phụ thuộc vào vốn nước ngoài. Nhưng ngược lại, cũng có ý kiến bảo vệ quan điểm nên để VND biến động theo cung cầu thị trường. Vậy Ngân hàng Nhà nước áp dụng những cơ chế điều hành, quản lý tỷ giá ra sao để bình ổn và phát triển kinh tế Việt Nam? * Theo các chuyên gia tài chính ngân hàng, mặc dù tỷ giá hối đoái về mặt nguyên tắc không dựa vào riêng một đồng tiền nào, mà dựa vào rổ tiền tệ, nhưng thực tế 80 - 90% cán cân thanh toán của VN bằng USD. Tình trạng USD hóa nền kinh tế đã và đang diễn ra, tuy mức độ USD hóa đã giảm xuống (từ 31% xuống 23% trong năm 2003). Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng nhà nước, thanh toán thương mại quốc tế và vấn đề quản lý nợ nước ngoài, cũng như huy động đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam đều được xác định trên cơ sở USD. Hệ thống tiền tệ "cột chặt" vào đồng USD nên khó có thể giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của đồng USD. →Theo bối cảnh đó của nền kinh tế Việt Nam chúng ta sẽ đề cập nhiều hơn đến những vấn đề phát sinh từ tỷ giá và chính sách tỷ giá hối đoái giữa VND và USD. Điểm qua những giai đoạn tỷ giá không ổn định, tăng mạnh hoặc giảm mạnh, lãi suất VND và USD ngược chiều thì thị trường tiền tệ đối mặt với sự bất ổn. Đơn cử, năm 1997 - năm mà nền kinh tế bị tác động bởi khủng hoảng tiền tệ Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lãi suất VND có xu hướng giảm, cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng nên xảy ra hiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ lệ tiền gửi USD/tổng tiền gửi tăng từ 33% năm 1997 lên 41% năm 2001; ngược lại, khoản vay bằng ngoại tệ/tổng dư nợ lại có xu hướng giảm từ 31% xuống 21%. Xu hướng ngược lại diễn ra trong năm 2007 và quý I/2008, VND lên giá do vốn nước ngoài vào nhiều, lãi suất VND tăng cao, lãi suất USD giảm nên có hiện tượng chuyển dịch từ ngoại tệ sang VND, tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi giảm từ 25,9% năm 2006 xuống 21,5% vào tháng 4/2008, trong khi đó vay bằng ngoại tệ lại tăng từ 21% lên 23%. Nhưng từ tháng 5/2008 đến nay, thị trường ngoại tệ có diễn biến ngược lại, huy động ngoại tệ tăng nhanh, tín dụng ngoại tệ có xu hướng giảm mạnh, nguyên nhân chính là do vào thời điểm giữa tháng 5, tỷ giá VND/USD đảo chiều (VND mất giá mạnh). Những diễn biến bất thường trên thị trường ngoại tệ có thể gây mất cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, gây mất an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, từ đó nền kinh tế Việt Nam bị chao đảo nghiêm trọng. * Hiện nay, theo các chuyên gia, VND đang được định giá cao hơn giá trị thực của nó do lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của 17 đối tác thương mại chính. Nhiều chuyên gia cho rằng, việc neo VND so với USD khiến nhập khẩu tăng mạnh, xuất khẩu chịu thiệt, trong khi Việt Nam đang cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tại Việt Nam lại cho thấy, xuất nhập khẩu đều tăng mạnh. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 được biểu hiện trên Hình 1 dưới đây: Hình 1: (Tỷ giá đồng nội tệ/USD tại mỗi thời điểm)/(tỷ giá đồng nội tệ/USD tháng 1-2005. (Nguồn: Dragon Capital) Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc,  Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4-2008 so với tháng 1-2005) như có thể thấy trên hình 3. Ngược lại đồng Việt Nam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD). Theo các chuyên gia của Dragon Capital, chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuếch đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó (Hình 2). Hình2 : Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia Theo cách nghĩ của lý thuyết kinh tế truyền thống đồng nội tệ (VND) yếu sẽ kích thích xuất khẩu, VND mạnh (lên giá) sẽ kích thích nhập khẩu và gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên cách suy nghĩ này không hoàn toàn đúng. Với đồng VND yếu (xem Hình 1) xuất khẩu của Việt Nam đúng là đã tăng trưởng rất ngoạn mục (năm 2007 tăng  22,5%, 4 tháng đầu năm 2008 tăng 27,6% (tất cả đều được tính bằng USD nếu trừ đi phần USD mất giá thì thành tích tăng trưởng xuất khẩu chưa hẳn đã tốt). Thế nhưng nhập khẩu còn tăng nhanh hơn nhiều, 44% năm 2007 và 71% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, làm cho nhập siêu ở mức báo động. Có thể thấy cách nghĩ truyền thống đã quá đơn giản hóa vấn đề và không thể đứng vững. * Với khái niệm phản thân của mình, George Soros [Giả kim thuật Tài chính, The Alchemy of Finance, tr.27-45 và 69-80] gợi ý cách suy nghĩ thực tiễn hơn nhiều: Tỷ giá hối đoái mạnh (trong trường hợp của chúng ta tức là để VND lên giá) sẽ kiềm chế lạm phát: lương ổn định và giá các mặt hàng nhập khẩu rớt (đáng tiếc tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng ở ta quá nhỏ phản ánh chính sách “thay thế nhập khẩu” vẫn rất thịnh hành). Theo ông, (tr.69-70) nếu các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu lớn (mà ở nước ta là như vậy) thì một nước vẫn có khả năng cạnh tranh bất chấp sự lên giá liên tục của đồng nội tệ như Tây Đức của các năm 1970 là một ví dụ. Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Ông gọi một quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một vòng ác luẩn quẩn (vicious circle) khi đồng nội tệ mất giá và lạm phát gia tăng và là vòng thiện (benign circle) khi điều ngược lại xảy ra. Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo (thậm chí cả so với USD, xem Hình 1), lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này. Việc nới lỏng biên độ tỷ giá vừa qua chỉ có tác động nhất thời. Theo các chuyên gia của Dragon Capital Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt tiền tệ (thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất vừa qua mang tính hành chính và đã không có hiệu quả và không thể trì hoãn việc cải tổ chính sách tỷ giá. Do thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần lãi suất nên ngân hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu tư và giữ vàng và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở cửa là một dấu hiệu không mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ càng cao. Vì vậy nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này lại khuyến khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát. Qua những phân tích trên ta dễ dàng nhận thấy: Không thể dùng các biện pháp hành chính, không thể áp trần lãi suất vì làm như vậy chỉ khiến cho tình hình khó khăn thêm và là lợi bất cập hại. Nên để cho lãi suất phát huy tác dụng sàng lọc, lựa chọn của nó. Và cũng rất nên xem xét lại tình trạng USD hóa và chế độ tỷ giá hối đoái. Những tháng đầu năm 2008 , cung ngoại tệ trên thị trường tăng mạnh, tỷ giá xuống quá thấp. Đến ngày 21/3/2008, tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng do Ngân Hàng Nhà Nước công bố chỉ còn 15.990 VND/USD, giảm tới 15 VND/USD so với ngày 20/3/2008 và giảm gần 100 VND/USD so với thời điểm đầu năm 2008; tỷ giá mua bán của Ngân Hàng Thương Mại với doanh nghiệp cũng chỉ còn 15.830 – 15.840 VND/USD, giảm 1,5% so với đầu năm 2008…  Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạn chế mua ngoại tệ của Ngân hàng thương mại và từ đó NHTM cũng hạn chế mua ngoại tệ của doanh nghiệp. Trước sức ép đó của thị trường, mới đây, NHNN đã cho phép NHTM cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) thực hiện thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ theo tỷ giá thoả thuận với doanh nghiệp. Hiện nay nhiều NHTM cũng có văn bản kiến nghị NHNN cho họ được phép thực hiện cơ chế thoả thuận nói trên. Trước tình hình đó, từ trung tuần tháng 3/2008, Vụ quản lý ngoại hối NHNN có văn bản yêu cầu các NHTM có nhu cầu mua bán ngoại tệ tiền mặt thì gửi hồ sơ về NHNN kèm dự thảo quy trình thực hiện. Như vậy dự kiến sẽ có nhiều NHTM được thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận và khả năng NHNN sẽ nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá từ +/-1% hiện nay lên +/-1,25% hoặc +/-2,0%, thậm chí +/-3% - 9% như một số ý kiến đã đưa ra. Nếu thực tế diễn ra như vậy thì tỷ giá sẽ linh hoạt hơn, phản ánh sát diễn biến của thị trường theo hướng tiến tới cớ chế thả nổi về tỷ giá. Một trong số 19 biện pháp kiềm chế lạm phát được Thủ tướng Chính phủ đưa ra mới đây có chỉ đạo NHNN thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trường. Điều đó có nghĩa là tỷ giá phải được diễn biến linh hoạt trên cơ sở cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. NHNN không neo giữ tỷ giá cứng nhắc cộng với biên độ giao dịch tỷ giá của NHTM với khách hàng quá chật hẹp là +/-0,75% như trong năm 2007 và trước đó. Vì vậy từ thực tế kinh nghiệm áp dụng thí điểm tại Eximbank, việc NHNN cho triển khai rộng rãi cơ chế tỷ giá thoả thuận cũng là việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về biện pháp kiềm chế làm phát. Khi đó tỷ giá giảm làm cho hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu chuyển vào Việt Nam rẻ hơn, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu thì khó khăn hơn. Không những vậy, cơ chế thoả thuận về tỷ giá giữa doanh nghiệp và NHTM còn khắc phục được những bất hợp lý trong thực tiễn hiện nay. Bởi vì từ ngày 10/3/2008, NHNN đã nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá của các NHTM với khách hàng được tăng từ +/-0,75% lên +/-1,0%, nhưng do diễn biến của thị trường, các NHTM và doanh nghiệp đã "lách luật" bằng việc thoả thuận với nhau một mức phí với nhiều tên gọi khác nhau, như: phí “quản lý ngoại tệ tiền mặt“, phí “kiểm đếm ngoại tệ tiền mặt”, phí thu đổi ngoại tệ,... phổ biến ở mức khoảng 2%. Do đó thực tế tỷ giá của doanh nghiệp bán cho NHTM còn thấp hơn rất nhiều tỷ giá danh nghĩa. Hoặc thực tế tỷ giá NHTM mua USD của doanh nghiệp thấp hơn 3% so với  tỷ giá do NHNN công bố, chứ không phải 1% như quy định. Kể từ ngày 10/3/2008 khi áp dụng biên độ giao dịch tỷ giá +-1,0%, NHTM cổ phần Đông Á cũng chính thức đưa ra mức biểu phí từ 1,7% - 2,4% trên số USD mà khách hàng bán cho ngân hàng. Mặc dù niêm yết như vậy nhưng thực tế biểu phí áp dụng phổ biến là 2,3% - 2,4%, tính ra tỷ giá NHTM CP Đông Á mua vào chỉ có 15.497 VND/USD, tương đương tỷ giá mua vào trên thị trường tự do. NHTM CP phát triển nhà TPHCM cũng công khai việc khấu trừ thêm 2% trên tỷ giá khi khách hàng bán USD cho ngân hàng. Một số NHTM còn thực hiện mức phí cao hơn các NHTM nói trên. Cụ thể như ngày 12/3/2008, tỷ giá mua vào thấp nhất theo đúng biên độ của NHNN là 15.860 VND/USD, nhưng sau khi trừ đi phí quản lý tiền mặt ngoại tệ thì tỷ giá thanh toán lại cho khách hàng của ACB chỉ còn 15.460 VND/USD, chỉ bằng 96,5% tỷ giá liên ngân hàng do NHNN công bố, tức tương ứng thấp hơn 3,5%, thay cho mức 1,0% theo quy định, như vậy phí ở đây là 2.5 %. Tỷ giá thực tế thanh toán cho khách hàng của NHTM CP Đông Nam Á là 15.241 VND, với mức phí tương ứng khoảng 3,9%. Không chỉ có các NHTM cổ phần, mà nhiều chi nhánh NHTM Nhà nước cũng vượt rào lách luật. Cụ thể như tỷ giá thực tế sau khi khấu trừ phí thanh toán cho khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT là 15.495 VND/USD, tương đương với mức phí 2,3%; của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là 15.310 VND/USD, mức phí tương đương 3.5 %; … Một phương thức khác là các NHTM lách luật bằng việc ký hợp đồng hoán đổi ngoại tệ, tức là doanh nghiệp chuyển đổi USD của mình cần bán sang euro, yên Nhật, hay bảng Anh,.. để bán cho NHTM, bởi vì NHNN không quy định biên độ đối với các loại ngoại tệ đó. Do đó, với diễn biến thực tế của thị trường nói trên thì việc NHNN cho phép NHTM và doanh nghiệp thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận là hợp thức hoá hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường hiện nay. Nhưng NHNN liệu có cho phép đồng loạt các NHTM thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận hay không thì còn chờ đợi.  Cơ chế mới này sẽ thay thế cho cơ chế hàng ngày NHNN công bố tỷ giá liên ngân hàng còn các NHTM thì thực hiện việc mua bán ngoại tệ cho khách hàng trong phạm vi biên độ không hợp lý. Đồng thời nếu tất cả các NHTM đều được thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận thì có thể sẽ gây sốc cho thị trường, tạo ra phản ứng xấu của lãi suất và tín dụng như đã từng xảy ra đối với biện pháp thắt chặt tiền tệ thời gian qua của NHNN. Nhưng nếu không cho tất cả các NHTM được phép thực hiện thì sẽ nảy sinh tình trạng so bì giữa các NHTM. Để phù hợp với thực tiễn có lẽ NHNN sẽ mở rộng thêm đối tượng NHTM được thực hiện cơ chế tỷ giá thoả thuận trên cơ sở các điều kiện được đưa ra như kinh nghiệm, trình độ cán bộ, quy mô vốn, rủi ro trong lịch sử, uy tín… của NHTM đó. Dự báo NHNN sẽ có lộ trình cho phép các NHTM thực hiện cơ chế tỷ giá thỏa thuận. Cơ chế tỷ giá thoả thuận cũng giúp giải toả được tình trạng các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ rất lớn nhưng không bán được cho NHTM hiện nay, nhưng có lẽ sẽ làm cho tỷ giá giảm thấp hơn, hay đồng Việt Nam sẽ lên giá mạnh. Mặc dù vậy có lẽ thị trường sẽ tự điều chỉnh, sau khi giảm. Tỷ giá sẽ dừng lại và lên xuống hàng ngày theo đúng quan hệ cung cầu và theo đúng nguyên tắc thị trường. Giữa NHTM và doanh nghiệp thực sự bình đẳng trong giao dịch mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc thuận mua, vừa bán, doanh nghiệp không bị ép buộc bởi tỷ giá khi mua ngoại tệ hay bán ngoại tệ. * Khác với diễn biến trong quá khứ, khi NHNN chủ động cho đồng VND mất giá khoảng 1% so với USD, diễn biến tỷ giá hiện nay ngày càng phức tạp hơn nhiều. Tỷ giá giao dịch thực tế thường chạm mức biên độ trong thời gian gần đây, điều này phản ánh cung cầu ngoại hối có nhiều biến động phức tạp và tỷ giá chính thức chưa theo kịp với thị trường. Diễn biến tỷ giá biến động mạnh kể từ cuối năm 2007. Khi đó đồng VND lên giá mạnh và tỷ giá giao dịch luôn chạm sát biên dưới của mức dao động tỷ giá cho phép. Nguyên nhân của việc tăng giá này là các nguồn vốn nước ngoài đặc biệt là vốn FII liên tục đổ vào Việt Nam, dẫn đến cung cầu ngoại tệ lệch về phía VND. Đồng VND lên giá càng hấp dẫn đầu tư nước ngoài đổ vốn vào Việt Nam. Ngay cả khi thị trường cổ phiếu không hấp dẫn, thị trường nợ với trái phiếu vẫn tỏ ra vô cùng hấp dẫn khi nhà đầu tư kỳ vọng đồng VND lên giá sẽ có lợi cả lãi suất và giá trị chênh lệch khi quy đổi ngược trở lại USD. Tuy nhiên VND lên giá đã làm cho thâm thụt thương mại bắt đầu tăng mạnh. Nhập siêu tăng tốc trong khi tốc độ nguồn vốn đổ vào đang giảm dần. Kết cục là đã dẫn tới một điểm gặp nhau mà tại đó nguồn vốn đổ vào không theo kịp thâm hụt thương mại và các nghĩa vụ trả nợ. Các dòng vốn đổ vào không theo kịp với đà tăng của thâm hụt thương mại, cùng với hiện tượng đầu cơ là nguyên nhân giải thích cho sự đảo chiều của xu hướng tỷ giá vào cuối tháng 03/2008. Khi xu hướng tỷ giá đảo ngược được hình thành thì giới đầu cơ ngay lập tức chuyển vốn sang hướng ngược lại và càng làm trầm trọng hóa vấn đề. NHNN buộc phải can thiệp và đã không ngừng bán USD ra để bình ổn thị trường. Tình hình tỷ giá được giữ ổn định trong vòng khoảng 1 tháng thì áp lực tăng tỷ giá lại tăng mạnh trở lại. Áp lực cầu USD và giá USD tăng từng ngày trên thị trường chợ đen đã dẫn tới những lo ngại thực sự về khả năng phá giá VND.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22159.doc