Đề án Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam

MỤC LỤC

A - PHẦN MỞ ĐẦU

B – PHẦN NỘI DUNG

I – Khái quát chung về thành phần kinh tế nhà nước

1 – Thành phần kinh tế nhà nước

1.1 Khái niệm thành phần KTNN

1.2 Cơ sở hình thành của KTNN

1.3 Đặc điểm của thành phần KTNN

2 – Sự khác nhau giữa KTNN và KTTB độc quyền

II – Sự hình thành và phát triển thành phần KTNN ở Việt Nam

1 Giai đoạn1945 – 1960

2 Giai đoạn1960 – 1975

3 Giai đoạn1975 – đầu những năm 1980

4 Giai đoạn1980 – 1985

5 Giai đoạn1985 – 1990

6 Giai đoạn1990 đến nay

III – Vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

1 – Tính tất yếu vai trò chủ đạo của thành phần KTNN

2 – Vai trò chủ đạo của KTNN

IV – Thực trạng của KTNN hiện nay

1 – Quy mô và tổ chức của các DNNN

2 – Kỹ thuật và công nghệ trong các DNNN

3 – Tổ chức quản lý của các DNNN

4 – Hiệu quả của các DNNN

5 – Những cơ hội và thác thức đối với DNNN trong thời gian tới

V - Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước.

1 – Về định hướng tổ chức phát triển DNNN hoạt động kinh doanh hoạt động công ích

1.1 - Đối với DNNN hoạt động kinh doanh

1.2 - Đối với DNNN hoạt động công ích

2 – Về việc sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách

2.1 - Đối với DN hoạt động kinh doanh

2.2 - Đối với DN hoạt động công ích

2.3 – Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được

3 - Đổi mới và nâng cao hoạt của các tổng công ty nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh

4 - Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN

5 – Thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN

C - PHẦN KẾT LUẬN

 

 

 

 

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó đòi hỏi cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò điều tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của KTNN đã được chứng minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay: Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997 – 1998 tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết quả trên có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn. Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự án liên doanh với nước ngoài. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình độ công nghệ quả lý có nhiều tiến bộ. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN được nâng lên, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phòng. Có thể khẳng định KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lượng vv…Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật chất chủ lực để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh hưởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho nền kinh tế. Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ có DNNN là những đơn vị tổ chức kinh tế lớn của quốc gia là có đủ khả năng hợp tác liên doanh với các công ty lớn quốc tế đồng thời làm đối trọng với họ trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất nước. Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là nước chủ trương xây dựng CNXH thông qua phát triển nền kinh tế thị trường mà KTNN giữ vai trò chủ đạo, với tỉ trọng trên70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế song Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dưới 10% liên tục trong nhiều năm và đang có dự báo cho rằng trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số một thế giới, lớn hơn cả Mỹ về giá trị tuyệt đối. Ngay chính ở các nước tư bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ. Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước tư bản phát triển vẫn còn chiếm khoảng 10%. Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò chủ đạo và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo ra khối lượng hàng hoá dịch vụ công cộng lớn chi phối giá cả thị trường, dẫn đát giá cả thị trường bằng chính chất lượng, giá cả của sản phẩn dịch vụ do mình cung cấp. Thông qua đó Nhà nước có thể kiểm soát được thị trường, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành một nền kinh tế vững mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. 1.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò: - Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. - Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. - Là lực lượng vật chất để thực hiện chức năng quản lý điều tiết vĩ mô. - Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nước. Tính chất chủ đạo của KTNN thể hiện qua các nội dung chính sau đây: Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất của KTNN đó là KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ thống kinh tế xã hội thông qua các công cụ xã hội khác nhau trong đó DNNN là công cụ thiết yếu. ở nước ta các DNNN được hình thành ở các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó không cố định, luôn được nhà nước thực hiện theo phương châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế kinh quốc dân dang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ sức kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt của DNNN. Đến một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh, quá trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế hình thành vai trò điều tiết của DNNN. Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh tế trong phạm vi từng vùng. ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận nên dẫn đến những mất cân đối trong sản xuất kinh doanh của từng vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn. Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế nên tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp đồng thời tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúcđẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển. Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô. Như vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ: chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội. Do đó xác định nội dung chủ đạo của khu vực KTNN theo các tính chất nêu trên sẽ giúp chúng ta trong việc định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của Ngân Hàng Nhà Nước và thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung IV. Thực trạng của kinh tế nhà nước hiện nay 1. Quy mô và tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước Chỉ tính trong 10 năm từ 1990 – 2000. Chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm từ 1990 – 1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Lần thứ hai từ năm 1994 – 1997, chúng ta đã thành lập 18 Tổng công ty 91 và 77 Tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho thuê các DNNN. Sau 3 lần cải cách đổi mới DNNN thì năm 2000 so với năm 1990 quy mô của các doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%. Tuy có sự giảm sút về quy mô nhưng các DNNN vẫn đạt được mức tăng trưởng mạnh. Trong 5 năm từ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN đạt 11,7%. tỉ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 40,3%. Đồng thời quá trình tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã mở rộng quy mô vốn của các doanh nghiệp, giảm được sự tài trợ đáng kể của ngân sách nhà nước, một số ngành mới đã và đang áp dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả đáng kể như: dầu khí, năng lượng, bưu chính viễn thông vv… Trong đó quyền chủ động của các sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được phát huy. Tuy vậy cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chông chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phân bố rất phân tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Ví dụ như ở địa bàn Hà Nội các ngành sản xuất thiết bị có 35 đơn vị, trong đó có 27 doanh nghiệp do Trung ương quản lý nhưng lại được tập trung vào 7 đầu mối quản lý khác nhau. Bộ Công nghiệp có 8 doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 8 doanh nghiệp và Bộ Xây dựng có 7 doanh nghiệp. 2. Kỹ thuật và công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước Kể từ khi chúng ta chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (mô hình kinh tế chỉ huy hướng nội) sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về công nghiệp hoá - hiện đại hoá của các nước trên thế giới để chuyển sang mô hình kinh tế hướng ngoại. Điều này đã tạo cho KTNN nói riêng và tổng thể nền kinh tế nước ta có nhiều thuận lợi trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Song nhìn chung hiện nay trình độ khoa học công nghệ nước ta còn lạc hậu, thấp kém. So với các nước láng giềng chúng ta còn kém xa, chúng ta chậm 10 năm so với Trung Quốc, chậm từ 20-30 năm so với Đài Loan ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá. Đồng thời với quá trình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ KTNN ở nước ta còn đang xây dựng cho mình chiến lược phát triển mang tính tổng thể, lâu dài bao gồm cả nghiên cứu, ứng dụng và thử nghiệm.v.v. Điều này đã và đang đem lại những hiệu quả to lớn và thiết thực. Hiện nay đã có nhiều ngành thuộc thành phần KTNN tạo ra những loại sản phẩm không chỉ có sức cạnh tranh mạnh ở thị trường nội địa mà còn có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế như : dệt may, chế biến thuỷ hải sản…Ngoài ra KTNN cũng đang hướng sự phát triển vào những nghành, lĩnh vực có trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại như: tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá. Điều này đòi hỏi nhà nước phải có những sách lược đúng đắn khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Đó là yếu tố vật chất quan trọng tạo đà cho các doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt đi đầu về ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Mặc dù vậy việc phát triển khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay còn tồn tại rất nhiều hạn chế, do đó khi thực hiện hợp tác, chuyển giao công nghệ với nước ngoài cần tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ mới nhất, tiên tiến nhất tránh không để cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghê “ của các nước phát triển. Để thực hiện được điều đó thì các DNNN phải đầu tư cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tránh việc chảy máu chất xám bởi trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất hiện xu thế bỏ doanh nghiệp nhà nước để ra làm ngoài với đồng lương cao hơn trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước rất cần những người có khả năng trình độ để nghiên cứu, thử nghiêm, ứng dụng…các loại công nghệ mới. 3. Tổ chức quản lý của các doanh nghiệp nhà nước. Những cải tổ cơ chế quản lý nhà nước từ năm 1981 đến này có thể coi là một bước cách mạng trong mô hình tổ chức kinh tế xã hội của nền kinh tế. Chúng ta đã cơ bản chuyển được các DNNN từ chỗ là một phân xưởng trong xí nghiệp kinh tế quốc doanh sang vai trò một phát nhân có quyền tổ chức và kinh doanh hàng hoá độc lập. Tuy nhiên cơ chế quản lý mới còn vướng ở một số điểm như cơ chế thực khi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do vẫn tồn tại các mảnh của chế độ chủ quản hành chính trước kia ( như duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra chức năng của cơ quan chủ quản…) đồng thời lại buộc phải thừa nhận quyền tự chủ quá rộng rãi của doanh nghiệp, do đó dẫn đến doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp trực tiếp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm Điển hình cho tình trạng này là vụ việc của công ty Dệt Nam Định. Một phần hoạt động sai nguyên tắc tài chính của Dệt Nam Định là đầu tư vào 26 dự án không hiệu quả song cả 26 dự án này đều được Bộ Công Nghiệp ký duyệt, các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra thanh tra vừa phân tán vừa chồng chéo ( do các văn bản pháp quy cũ mâu thuẫn với nhau song không được sàng lọc ) Nhưng đồng thời lại không có một cơ quan nhà nước nào chịu trách nhiệm cho sự mất mát tài sản của nhà nước. Cuối cùng phó mặc cho doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn. Song chúng ta quên rằng trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp, dù là DNNN đi chăng nữa đều đại diện cho một lợi ích độc lập, đó là lợi ích doanh nghiệp. Nếu nhà nước không quản lý tốt ( mà điều này khó làm được nếu không có những tiêu chuẩn tốt về kế toán, thống kê, kiểm toán ) thì doanh nghiệp sẵn sàng biến lợi nhuận thành chi phí hợp pháp dưới dạng lương thưởng cho cán bộ và công nhân. Ngoài ra còn có những khó khăn trong việc phân định thua lỗ do rủi ro hay do sự thiếu trách nhiệm của những người có liên quan chính vì thế có thể thấy tình trạng tài chính không rõ ràng và cực kỳ bê bối của DNNN hiện nay thể hiện qua nợ khó đòi trở thành phổ biến, doanh nghiệp không thể phá sản vì chủ nợ không đệ đơn… Là hậu quả của chính tình trạng thể chế hoá sở hữu nhà nước chưa tìm được hình thức hợp lý. 4. Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt quan trọng vì đã là doanh nghiệp kinh doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại phát triển. Thực tế các DNNN của chúng ta bên cạnh những thành tựu to lớn đã và đang bộc lộ những yếu kém khá nghiêm trọng: Quy mô các DNNN còn nhỏ (vốn bình quân chỉ là 12 tỉ đồng) Cơ cấu có nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Kết quả khảo sát 10 ngành cho thấy ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực, số còn lại lạc hậu so với thế giới từ 10 đền 20 năm, thậm chí 30 năm. Đến tháng 5-2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước: trong 4 năm (1997 - 2000) ngân sách nhà nước đã đầu tư thêm cho DNNN gần 8200 tỉ đồng, giãn nợ 540 tỉ đồng, giảm tính khấu hao 200 tỉ đồng và cho vay ưu đãi đầu tư 9000 tỉ đồng. Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả mới chỉ là 40% bị lỗ liên tục chiếm tới 29%. Tình hình đúng như vậy nhưng từ đó để đi đến khẳng định chỉ có các doanh nghiệp tư nhân mới có lãi và DNNN chỉ có thua lỗ, kém hiệu quả là hoàn toàn không đúng. Nhận định này thiếu cả cơ sở lý luận và thực tiễn, coi một số hiện tượng trùng với bản chất, bởi nếu đi sâu nghiên cứu chúng ta cũng dễ thấy không chỉ DNNN mới thua lỗ mà cũng có nhiều doanh nghiệp tư nhân cũng thua lỗ. Khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực với những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội có thể coi là khủng hoảng của kinh tế tư nhân. Thực tế ở thành phố Hải Phòng ( cũng như ở nhiều địa phương khác ) cho thấy, tỉ lệ nợ quá hạn của các khoản vay tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp tư nhân vào khoảng 36% tính đến tháng 6-2001 cao gấp đôi so với DNNN trong đó phần lớn là nợ khó có khả năng thanh toán. Trong tổng số các DNNN có đến 70% là hoạt động có lãi và khi lãi khi lỗ. Số DNNN thua lỗ tuy còn nhiều nhưng chỉ là thiểu số. ở Trung Quốc có 500 doanh nghiệp hàng đầu là các DNNN lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả làm đầu tầu thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển. ở nhiều nước khác cũng đều có DNNN hoạt động có hiệu quả và doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ phải phá sản. Như vậy thua lỗ, hiệu quả thấp là đồng hành của cả DNNN và doanh nghiệp tư nhân. Có nhiều nguyên nhân không liên quan đến sở hữu doanh nghiệp trong đó có nguyên nhân rất cơ bản là điều kiện sản xuất kinh doanh của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, biến động rủi ro lớn các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế yếu kém, nhất là trình độ quản lý, kinh nghiệm thương trường. 5. Những cơ hội và thách thức mới đối với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. Trong tương lai không xa DNNN phải đối mặt với hai sức ép cạnh tranh lớn, sức ép cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế siêu quốc gia sau khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập vào AFTA hay sau khi hiệp định tự do thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thi hành. Về các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác: ở nước ta sau khi có luật doanh nghiệp ra đời chỉ trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phát triển một cách rầm rộ người ta ví như hình ảnh “ nấm mọc sau cơn mưa” cả nước có khoảng 23000 doanh nghiệp loại này đầu tư một khoản vốn khoảng 25000 tỉ đồng vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngoài một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, còn lại các ngành sản xuất không đòi hỏi vốn đầu tư lớn thì tư nhân đang lấn dần thị phần của DNNN. Một khu vực khác cũng là một đối thủ cạnh tranh đáng kể với DNNN là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài, các doanh nghiệp này có ưu thế hơn các DNNN về vốn, công nghệ hiện đang được nhà nước ta khuyến khích và ưu đãi, đang len lỏi vào một số các lĩnh vực kinh tế lớn của nước ta như: dầu khí, chế biến thuỷ hải sản, xây dựng công nghiệp, sản xuất hoá chất, xi măng…đáng chú ý hơn cả là năm 2000 tốc độ tăng trưởng của DNNN chỉ có 11% thì doanh nghiệp tư bản tư nhân tăng 14% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trên 20%, do đó trong thời gian tới nếu nước ta không có biện pháp để củng cố sức mạnh của DNNN thì DNNN sẽ bị lấn át ngay trên thị trường sân nhà. Khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập AFTA và thực hiện hiệp định thương mại Việt-Mỹ thì sức cạnh tranh sẽ cụ thể hoá bằng cạnh tranh hàng hoá, hay yếu tố quan trọng nhất là chất lượng hàng hoá và giá cả hảng hoá. Hiện tại ngoài một số mặt hàng như hoá mỹ phẩm, đồ nhựa, than, một số hoá chất cơ bản…Giá của ta rẻ hơn của nước ngoài, còn lại một số mặt hàng như giấy, phân bón, xi măng, hàng điện tử, hàng cơ khí…Thì hàng của ta đều cao hơn hàng nước ngoài từ 20-40% Hai cuộc cạnh tranh trên đây chính là vấn đề cấp bách và nghiêm trọng đối với các DNNN. Trong thời gian tới nước ta cần phải đẩy mạn việc cải tổ, xây dựng, sắp xếp…để KTNN giữ được vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. V. Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước. Việc cải cách đổi mới thành phần KTNN nói chung và các DNNN nói riêng trong giai đoạn hiện nay là cực kỳ cần thiết và cấp bách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. Để tổ quốc vững bước trên con đường CNH - HĐH, tại hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã thông qua nghị quyết về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN. Trên cơ sở đó, nhằn tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân, việc định hướng sắp xếp phát triển DNNN trong thời gian tới bao gồm những giải pháp lớn sau: 1. Về định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. 1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phống xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia, sản xuất thuốc lá điếu. Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoán sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hoá chất cơ bản, phân hoá học, thuốc bản vệ thực vật, sản xuất xi măng công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghệ thực phầm quan trọng, sản xuất hoá dược thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, khinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản; chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết: Chuyển các doanh nghiệp mà nhà nước giữ 100% sang hình thức công ty TNHH một chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các DNNN. Căn cứ trên đây, chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể các DNNN hiện có để chiển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của Đảng thực hiện sắp xếp như đối với DNNN. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Việc thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia. 1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích. Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá, điều hành bay, đảm bảo h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC103.doc
Tài liệu liên quan