Đề án Lý luận hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 2

 

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3

1.Quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội 3

2.Các yếu tố cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội. 6

3. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. 12

 

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM 16

1. Tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 16

2.Vấn đề “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. 18

3.Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội và vấn đề xây dựng hình thái kinh tế – xã hội mới ở việt nam 19

 

KẾT LUẬN 24

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2633 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý luận hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xương cốt, bắp thịt của sản xuất và là tiêu chí quan trọng nhất, trong quan hệ xã hội và tự nhiên. Cùng với sự cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất của loài người cũng được phát triển và phong phú them, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân công lao động phát triển. Trình độ phát triển tư liệu sản xuất mà chủ yếu là công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế . Theo C.MÁC:“ Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào”. Đối với mỗ thế hệ, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại, trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương lai. Nhưng những tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với lao động sống. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Con người không chỉ đơn thuần chị sự quy định khách quan của điều kiện lịch sử mà nó còn là chủ thể tích cực tác dụng cải tạo điều kiện sống. Họ không chỉ sử dụng những công cụ lao động hiện tại có mà còn sáng chế ra những công cụ lao động mới. Năng xuất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng lao động sản xuất, đồng thời xét đến cùng, nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Mặt thứ hai của quá trình sản xuất là mối quan hệ giữa người với người gọi là quan hệ sản xuất.Quan hệ sản xuát là mối quan hệ cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây. - Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. - Quan hệ quản lý và phân công lao động. - Quan hệ phân phối sản xuất lao động. Ba mặt nói trên có quan hệ hữ cơ với nhau, không tách rời nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào. Mỗi quan hệ sản xuất có một chế độ quản lý sản xuất riêng. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất như thế nào thì chế độ quản lý sản xuất cũng như vậy. Trong chế độ chiếm hữu tư nhân thì người chiếm hữu tư liệu sản xuất trở thành người quản lý sản xuất, còn người lao động không có tư liệu sản xuất trở thành người bị quản lý. Còn trong chế độ quản lý xã hội thì người lao động được đặt vào trong các mối quan hệ sở hữu và quản lý một cách trực tiếp đồng thời có cơ chế bảo đảm hiệu quả quyền lực của nhân dân. Trên cơ sở nghiên cứu, hai mặt của quá trình sản xuất, C.MÁC- ĂNG-GHEN đưa ra khái niệm mới là “Phương thức sản xuất”. Theo hai ông thì đó là “ một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định “. C.MÁC đã nêu phát hiện mới về mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình đi lên CNXH, lực lượng sản xuất quyết định “hình thức giao tiếp tới một giai đoạn nhất định, trong sự phát triển của chúng, các lực lượng sản xuất giữa mâu thuận với “hình thức giao tiếp” hiện tại. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội. Về sau, “ hình thức giao tiếp” mới đến lượt nó lại không phù hợp với các lực lượng sản xuất đang phát triển, lại biến thành “xiềng xích” trói buộc lực lượng sản xuất và bằng con đường cách mạng xã hội,thay thế “hình thức giao tiếp” đã lỗi thời, lạc hậu. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành những quan hệ vật chất của xã hội. Ngoài những quan hệ vật chất trong đời sống xã hội còn tồn tại các quan hệ tinh thần, tư tưởng. Do vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu mỗi quan hệ vật chất trong đời sống xã hội còn tồn tại trong quan hệ tinh thần, tư tưởng, dẫn đến việc cần phải nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tồn dư của xã hội trước và quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau. Những đặc trưng do tính chất của cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồng từ ngay trong cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng bao gồm : - Những tư tưởng chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. - Những tổ chức và thể chế khác (nhà nước, chính đảng, giáo hội, các đoàn thể,…) Như vậy, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thể chế tương từng và những quan hệ nội tại của chúng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Các yếu tố kiến trúc thượng tầng tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng. Trong đó các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác chỉ có quan hệ gián tiếp với nó. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng. Phản ánh tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng biểu hiện ở sự xung độ và cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng biểu hiện vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, thể hiện trước hết ở chỗ quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng; giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về tinh thần thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống xã hội. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong vấn đề tư tưởng. Cuộc sống đấu tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế, và gây ra những biến đổi ở cơ sở hạ tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong hình thái cũng như di chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra theo cuộc đấu tranh giai cấp gay go phức tạp giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi cách mạng xã hội xảy ra thì cơ sở hạ tầng cũ được thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới, giai cấp thống trị cũng được xóa bỏ và cũng được thay thế bằng giai cấp thống trị mới, bộ máy nhà nước được hình thành thay thế bộ máy nhà nước cũ. Cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó với tư cách là một chỉnh thể thống trị cũng mất theo. Song cũng có những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng ấy còn tồn tại rất dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế sinh ra nó bị tiêu diệt. Cũng có những yếu tố nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới duy trì lại, xây dựng kiến trúc thượng tầng mới. Như vậy, sự hình thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết định, đồng thời nó còn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố của kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ. Tính quyết định cảu cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác. Mặt khác, kiến trúc thượng tầng luôn là lực lượng tác động mạnh mẽ trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, và tác động tích cực lại cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Điều đó thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo về và duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Kiến trúc thượng tầng có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng khi nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng, trái lại khi nó tác động ngược lại với quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Những tác dụng kìm hãm sự phát triển của tiến bộ xã hội của nó chỉ là tạm thời, sớm muộn sẽ bị cách mạng khuất phục. Quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trcs thượng tầng hoặc phủ nhận tất yếu của kinh tế xã hội, sẽ không tránh khỏi rơi vào chủ nghĩa duy tâm khách quan, và không thể nhận thức đúng đắn sự phát triển của lịch sử. Tóm lại, khi xem xét xã hội với tư cách là một chỉnh thể toàn vẹn có, có cấu trúc phức tạp, C.MÁC và ĂNG-GHEN đề cập đến ba yếu tố cơ bản của nó là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến mặt khác tạo lên sự vận động của cơ thể xã hội. Mối quan hệ giữa các nhân tố trên đây được phản ánh vào khái niệm học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ kết cấu cơ bản và phổ biến của xã hội, bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, chỉ rõ cơ chế vận động xã hội chính là sự hoạt động của quy luật về sự phù hợp của các quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, và các quy luật khác. Chính do sự tác động qua lại của các quy luật khách quan đó mà nguồn gốc sâu xa của lịch sử là sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho hình thái kinh tế - xã hội được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội diễn ra như một quá trình tự nhiên. 3. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất.Những lực lượng sản xuất được tao ra bằng năng lực thực tiễn của con người, tuy nhiên không phải con người làm theo ý muốn chủ quan. Bản thân năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan nhất định. Từ lực lượng sản xuất đã có trong một hình thái kinh tế - xã hội trước đó, lực lượng sản xuất mới được hình thành. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất. Do đó, xét đến cùng, lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất có vai trò quyết định nhất. lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển đi lên của xã hội,quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất, biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xóa bỏ và được thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn ra đời. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội , sự chuyển biến từ hình thái thấp đến cao được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử được quy định bởi các quy luật chung của sự vận động của nền sản xuất vật chất, chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử thế giới. Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó không có nghĩa là giải thích được rõ rang sự phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá trình lịch sử. Lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể xem xét trong qú trình lịch sử như một đường thẳng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Nhưng nhân tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng. Nếu không tính đến sự tác động lẫn nhau của các nhân tố thì sẽ không thấy hàng loạt sự ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy, để hiểu lịch sử cụ thể thì cần thiết phải tính đến tất cả các nhân tố bản chất có tham gia trong quá trình tác động lẫn nhau đó. Có nhiều nguyên nhân làm cho quá trình chung của lịch sử thế giới có tính đa dạng: điều kiện của môi trường địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển xã hội. Đặc biệt ở buổi ban đầu của sự phát triển xã hội, thì điều kiện của môi trường địa lý là một trong những nguyên nhân quy định quá trình phát triển không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc trì trệ, lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu tố như : nhà nước, tính độc đáo của nền văn hóa, truyền thống của hệ tư tưởng và tâm lý xã hội.v.v..đối với tiến trình lịch sử. Điều quan trọng trong lịch sử là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra dưới những hình thức rất khác nhau, từ chiến tranh và cướp đoạt đến việc trao đổi hàng hóa và giao lưu văn hóa. Nó có thể được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế, khoa học – kỹ thuật đến hệ tư tưởng. Trong điều kiện của thời đại ngày nay, có những nước phát triển kỹ thuật rất nhanh chóng, nhờ nắm vững và sử dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật của các nước khác. Ảnh hưởng của ý thức hệ đã có một ý nghĩa lớn lao trong lịch sử. Không thể hiểu được tính độc đáo của các nước riêng biệt nếu không tính đến sự phát triển không đồng đều của sự phát triển lịch sử thế giới: một dân tộc này tiến lên phía trước, một số dân tộc khác lại ngừng trệ, một số nước do hàng loạt những nguyên nhân cụ thể lại bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Điều đó chứng tỏ là sự kế tục hay thay thế các hình thái kinh tế - xã hội không giống nhau ở tất cả các dân tộc. Tuy nhiên, trong toàn bộ tính đa dạng của lịch sử các dân tộc khác nhau thì trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể vẫn có khuynh hướng chủ đạo nhất định của sự phát triển xã hội. Để xác định đặc trưng của giai đoạn này hay giai đoạn khác của lịch sử thế giới phù hợp với khuynh hướng chủ đạo của nó, đó là khái niệm thời đại lịch sử. Khái niệm thời địa lịch sử có thể gắn liền với thời gian mà một hình thái kinh tế - xã hội nhất định thống gtrị. Thí dụ, khi chũng ta nói về thời đại xã hội chiếm hữu nô lệ hay thời đại phong kiến là gắn chúng vào thời gian mà những hình thái kinh tế - xã hội đó thống trị. Khái niệm thời đại cũng có thể gắn với những giai đoạn nhất định của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.Để vạch rõ được xu hướng của thời đại, theo Lê-nin, cần phải khẳng định xem giai cấp nào là trung tâm của thời đại, quy định nội dung chủ yếu của thời đại đó. Khác với khái niệm hình thái kinh tế - xã hội xác định đặc trưng của một bước phát triển nhất định của xã hội, khái niêm thời đại lịch sử thể hiện tính nhiều vẻ của các quá trình đang diễn ra trong một thời gian nhất định ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong cùng một thời đại, ở cùng một bộ phận khác nhau của nhân loại cùng tồn tại những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, có những bộ phận, phong trào hoặc tiến lên phía trước, hoặc thoái lui, hoặc đi lệch theo một hướng nào đó. Cuối cùng, khái niệm thời đại gắn liền với sự quá độ từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác. Thí dụ, quá độ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản được gọi là thời đại phục hưng, thời đại cách mạng tư sản. Tóm lại lịch sử là một thể thống nhất nhưng rất đa dạng và nhiều vẻ, chứa đựng trong các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. Nó vận động và phát triển từ thấp tới cao theo những nguyên nhân nội tại của nó, bởi tính lôgích khách quan tất yếu của lịch sử quy định. Mác nói: Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một qua trình lịch sử-tự nhiên. CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1. Tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc đề ra chiến lược cho cách mạng Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, đường lối cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu ra là sự vận dụng sang tạo hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện ở Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định rằng sau khi Việt Nam tiến hành cuộc cách mạng dân chủ, nhân dân sẽ tiến lên làm cuộc cách mạng XHCN. Đây là sự lựa chọn đúng hướng đi và xác định mục tiêu của sự phát triển. Chúng ta đều biết rằng, đối với Đảng ta, việc lựa chọn và xác định này đặt ra ngay từ năm 1930 và luôn đúng với mọi sự biến động trong thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc. Chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và luận văn chính trị của Đảng năm 1930 đã ghi rõ “ Cách mạng Việt Nam sẽ đi theo con đường là tư sản dân quyền cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự lựa chọn này là kết quả trực tiếp nảy sinh từ sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học ở lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau một thập niên đi tìm đường cứu nước và đã tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin, đã nhận thức rõ cách mạng Việt Nam sẽ đi theo con đường cách mạng Tháng Mười. “Đường kách mệnh” (1927) là tác phẩm lý luận maC.Mácit đầu tiên được xây dựng trên nền móng tư tưởng đó.Từ bước ngoặt năm 1920, khi Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản và cho đến những năm sau này, người đều nhất quán khẳng định , giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc chỉ có thể thực hiện được bằng con đường cách mạng vô sản, bằng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Vào giữa những năm 80, kinh tế xã hội nước ta lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đang chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng định của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn xác nhận là đúng đắn. Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiện sự năng động về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là khả năng định tính tất yếu của sự đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Đổi mới để phát triển, để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, để vượt qua những kìm hãm của mô hình cũ – mô hình hành chính quan lieu bao cấp, để giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đổi mới không phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà là khẳng định tính quy luật của con đường phát triển đó, làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng với quy luật khách quan, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của nước ta và xu thế, đặc điểm của thế giới hiện đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiệu quả hơn, làm cho chủ nghĩa xã hội bộc lộ và khẳng định bản chất ưu việt của nó, từng bước định hình và phát triển trong thực tế, làm cho “ đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ” như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh. Đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, và nó được thể hiện qua công cuộc đối mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự năng động hơn nữa, tích cực hơn nữa, và phù hợp với tình hình thế giới hiện đại. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng sẽ là chế độ tạo điều kiện tốt nhất những nguồn lực của chính mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là yếu tố con người. Đó là mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội. 2.Vấn đề “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Như đã trình bày ở trên, từ hình thái kinh tế – xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác có một giai đoạn lịch sử “chuyển tiếp” với độ dài – ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là “thời kỳ quá độ”. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa là phạm trù chỉ việc không trải qua một giai đoạn lịch sử, ứng với nó là hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa thống trị. Nhân loại đã chứng kiến nhiều nước, do điều kiện lịch sử của mình đã bỏ qua một, hai giai đoạn lịch sử nào đó với tính cách là hình thái kinh tế – xã hội tiến lên giai đoạn lịch sửcao hơn dưới hình thức này hay hình thức khác. Trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của sự phát triển lịch sử là khả năng khách quan. Song, không phải cứ có điều kiện, hả năng khách quan thì bất cứ nước nào cũng biến thành hiện thực việc bỏ qua đó. Việc bỏ qua được hay không một giai đoạn lịch sử của sự phát triển đối với một nước còn phụ thuộc vào năng lực giải quyết phép biện chứng của điều kiện khác quan và nhân tố chủ quan ở mỗi nước đó quy định. Các nước thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội dưới những hình thức khác nhau là do trình độ xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành ba loại nước ứng với ba kiểu quá độ: Một là: những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao. Hai là: những nước trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa ở mức trung bình. Ba là: những nước chưa trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa của sự phát triển. Việt Nam thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách quan và chủ quan quy định, Việt nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Để “nhận dạng” con đường đi lên đó, trước hết phải phân tích đầy đủ, chính xác điểm xuất phát từ đó Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có như vậy, mới định hướng đúng và định hình trúng, tìm ra những hình thức, bước đi thích hợp. Ở Việt Nam, trình độ lực lượng sản xuất thấp dẫn đến năng lực tổ chức, quản lý thấp lại quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên phải nhận thức đầy đủvận dụng sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất để khai thác mọi tiềm lực (nội và ngoại lực), đẩy nền kinh tế Việt nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hiệu quả cao nhất. Cũng cần nói thêm rằng: cần khắc phục quan niệm “bỏ qua” chủ nghĩa tư bản một cách giản đơn. Phải khai thác, sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản là “khâu trung gian” để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như LêNin đã chỉ ra. Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với việc sử dụng những hình thức kinh tế trung gian – quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã vạch ra là đúng đắn. Đại hội VII và VIII của Đảng đã phát triển và cụ thể hóa chủ trương đó. Từ chủ trương đúng đến việc đưa nó vào cuộc sống là một khoảng cách dài. Độ dài ngắn của khoảng cách phụ thuộc vào nhân tố chủ quan, trước hết là năng lực, trình độ tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Chính đây là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới 3.Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội và vấn đề xây dựng hình thái kinh tế – xã hội mới ở việt nam Ra đời đã hơn 150 năm, và ngày nay trước những biến đổi to lớn, sâu sắc của thời đại,các học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vẫn còn nguyên giá trị khoa học và thời đại của nó. Nhân loại bắt đầu từ đâu? Vận động theo những quy luật nào? Kết cục đến đâu? Không phải là vấn đề mới mẻ. Nhân loại đặt ra rất sớm vấn đề này. Tuy nhiên, do trình độ kinh tế, kỹ thuật khác nhau, do điều kiện xã hội, lịch sử khác nhau và do những hạn chế chính trịvà chính kiến khác nhau nên phương pháp tiếp cận và giải quyết các vấn đề trên cũng khác nhau. Bằng phương pháp lịch sử – lôgích, C. Mác đã phân tích thực tiễn những nước tư bản phát triển cao, điển hình và từ đó phân tích thực tiễn toàn nhân loại để rút ra những quy luật chung nhất, cơ bản nhất của xã hội loài người. Mác vạch rõ, lịch sử loài người bắt đầu từ sản xuất ra của cải vật chất, vận động theo những quy luật khách quan của xã hội. Như thế, “điểm chọn” đầu tiên, cơ bản, với tính cách là điểm xuất phát khoa học để nghiên cứu lịch sử toàn nhân loại là lực lượn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLý luận hình thái kinh tế - xã hội với sự nghiệp cách mạng VN hiện nay.DOC
Tài liệu liên quan