Đề án Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp: Thực trạng và giải pháp huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Chương I : Nguồn vốn trong doanh nghiệp

I. Khái niệm,bản chất và vai trò của nguồn vốn.

1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn

2. Bản chất, vai trò của của nguồn vốn

2.1. Bản chất của nguồn vốn

2.2 .Vai trò của nguồn vốn

II – Nguồn vốn trong doanh nghiệp

1. Nguồn vốn chủ sở hữu

2. Nguồn vốn nợ

3. Điều kiện và động lực để thúc đẩy hiệu quả các nguồn vốn đầu tư:

Chương II. Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn của DNNN Việt Nam hiện nay

I. Doanh nghiệp nhà nước .

1. Khái niệm của doanh nghiệp nhà nước

2.Vai trò của doanh nghiệp nhà nước .

II. Vốn đầu tư phát triển trong DNNN

1. Khái niệm

2. Nội dung của vốn đầu tư phát triển trong DNNN

2.1. Theo mục đích sử dụng

2.2 Theo nguồn gốc sở hữu về vốn

III . Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN Việt Nam

1. Theo mục đích sử dụng

1.1 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản

1.2 Vốn lưu động bổ sung

1.3 Các loại vốn khác

2. Theo nguồn gốc sở hữu vốn

2.1 Thực trạng huy động vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.

a) Vốn ngân sách nhà nước

b) Vốn góp liên doanh, liên kết, vốn cổ phần hóa

2.2 Thực trạng huy động và sử dụng vốn nợ ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Chương III . Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong các DNNN hiện nay.

I. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.

1. Ở tầm vĩ mô.

2. Ở tầm vi mô.

II. Một số giải pháp nhằm nầng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN.

1. Ở tầm vĩ mô .

2. Ở tầm vi mô

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5388 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp: Thực trạng và giải pháp huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường. Công ty phát hành có thể mua lại những cổ phiếu của mình và giữ chúng nhằm mục đích nào đó, chúng được gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Việc mua bán những cổ phiếu này phụ thuộc vào một sổ yếu tố như: Tình hình biến động vốn và khả năng đầu tư. Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường. Chính sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính công ty. Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. ♦ Cổ phiếu ưu tiên. Được hiểu là loại cổ phiếu phát có kèm theo một số điều kiện ưu tiên cho nhà đầu tư sở hữu nó. Thường chỉ chiểm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc sủ dụng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đắc điểm là nó thường có cổ tức cổ định. Người chủ sở hữu cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu lại khi công ty cần thiết Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty,cổ tức được lây từ lợi nhuân sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. Ngoài ra vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định, chênh lệch tỷ giá. ♦Chứng khoán có thể chuyển đổi Ở một số nước, các công ty có thể phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (công ty,người đầu tư) có thể chuyển đổi, ở đây chỉ đề cập sơ lươc hai loại : - Giấy bảo đảm : người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường được quy định trước với giá cả thời gian xác định. 2. Nguồn vốn nợ: a) Phát hành trái phiếu công ty. · Khái niệm. Đối với các công ty nhà nước tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn thì không được phép phát hành cổ phiếu mà chỉ có thể phát hnàh trái phiếu. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. · Phân loại: Trái phiếu có lãi suất cố định: Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi xuất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau: Lãi suất của trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu. Uy tín của doanh nghiệp. Trái phiếu có lãi suất thay đổi: thực ra lãi suất của loại trái phiếu này phụ thuộc vào nguồn lãi suất quan trọng khác. Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên loại trái phiếu này có một vài nhược điểm là doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính; việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo điều chỉnh lãi suất. Trái phiếu có thể thu hồi: tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Loại trái phiếu này phải được quy định ngay từ đầu để khách hàng biết. Loại trái phiếu này có những ưu điểm như: có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng, khi không cần thiết doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu đó và thay bằng nguồn tài chính khác. Tuy nhiên nếu không có hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưa thích. Chứng khoán có thể chuyển đổi: cho phép doanh nghiệp, người đầu tư có thể lựa chọn cách đầu tư có lợi và thích hợp. Có một số hình thức chuyển đổi như: Giấy bảo đảm : người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định. Trái phiếu chuyển đổi : là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao. b) Nguồn vốn tín dụng ngân hàng ♦ Vai trò: Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các công ty, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngắn hạn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. ♦ Phân loại. Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân thành ba loại: Vay dài hạn: thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính 5 năm. Có lãi suất cao, vì mang nhiều rủi ro cho người cho vay. Vay trung hạn: Từ 1 đến 3 năm. Có lãi suất thấp hơn vay dài hạn. Vay ngắn hạn : dưới 1 năm. Có lãi suất thấp nhất. Theo tính chất và mục đích sử dụng, có thể phân thành các loại: Vay để đầu tư tài sản cố định. Vay đầu tư tài sản lưu động. Vay theo dự án. · Hạn chế. Điều kiện tín dụng: các doanh nghiệp muốn vay vốn tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Trước tiên ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn.Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Các điều kiện đảm bảo tiền vay: khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có bảo đảm tín dụng, phổ biến nhất là bằng tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm chô bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện đi vay, kể cả các thủ tục pháp lí về giấy tờ… Do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung thì sự kiểm soát này không gây ra vấn đề gì quá lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho DN có cảm giác bị kiểm soát. Lãi suất vốn vay: Phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Sử dụng vốn vay phải chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lí, đúng mục đích, quản lí sử dụng đúng quỹ tiền mặt, kì trả nợ và kì thu tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải được bám sát thực tế…. nếu không vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp. c. Nguồn vốn tín dụng thương mại (Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp) ● Khái niệm Tín do dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được biểu hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại xuất hiện là do sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng. Do đặc tính thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng hóa. Mua bán chịu được coi là một hình thức tín dụng và nó chứa đầy đủ nội dung cơ bản của khái niệm tín dụng là vì: + Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời hạn. + Đến thời hạn đã được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dười hình thức tiền tệ và cổ phần lãi suất. ●Vai trò Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác, sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời hoạt động sản xuất kinh doanh. ● Hạn chế - Hạn chế về quy mô tín dụng: Tín dụng thương mại là do các doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng đươc. - Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kì sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù hợp với nhau, vì vậy mà khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp nhau thì tín dụng này không thể xảy ra. - Hạn chế về phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, vì vậy mà doanh nghiệp chỉ có thể cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp nhất định, những doanh nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để bán ra 3. Điều kiện và động lực để thúc đẩy có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư: - Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế: Đặt trong bối cảnh chung và dài hạn ,năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động vốn đầu tư một cách hiệu quả .Tăng trưởng được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài . Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. - Môi trường kinh tế vĩ mô được đảm bảo ổn định : Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định ,không gặp những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môi trường kinh doanh gây ra. Ổn định giá trị tiền tệ : Ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao hàm cả viếc kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả tình trạng giảm phát nếu xảy ra đối với nền kinh tế. Đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động các nguồn vốn cho đầu tư. - Các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả được xây dựng đồng bộ: Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện các nhiệm vụ của các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. Đảm bảo mối tương quan hợp lí giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài . Chương II. Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn của DNNN Việt Nam hiện nay. I . Doanh nghiệp nhà nước . 1. Khái niệm của doanh nghiệp nhà nước - Khái niệm : Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích , do Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp để nhà nước có thể chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra. - Điều kiện thành lập : Nhà nước là cổ đông chính trong doanh nghiệp hoặc Nhà nước có thể thực hiện việc kiểm soát những chính sách chung mà Nhà nước theo đuổi .Nhà nước bổ sung hoặc cách chức ban quản lí doanh nghiệp. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là sản xuất hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho thị trường . Doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh . 2. Vai trò của DNNN - Doanh nghiệp nhà nước phải là công cụ kinh tế quan trọng để nhà nước trực tiếp tác động đến các quá trình kinh tế xã hội , điều tiết vĩ mô , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. - Kinh tế nhà nước nói chung , DNNN nói riêng đóng vai trò mở đường và tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. DNNN phải thể hiện được sự phân công và phối hợp một cách hợp lí về chức năng giữa khu vực DNNN với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác . - Kinh tế nhà nước trong đó DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường , tạo điều kiện cho việc xây dựng chế độ xã hội mới . - DNNN đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng , đặc biệt đối với địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh , với các vùng kinh tế khó khăn , vùng sâu , vùng xa. Bên cạnh những ưu điểm trên , DNNN cũng còn những mặt hạn chế nhất định làm ảnh hưởng tới vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước và là nhân tố gây cản trở , làm giảm hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả đầu tư phát triển nói riêng của khối donh nghiệp này : - Thứ nhất : Số lượng nhiều ,dàn trải ,trong khi quy mô vốn không lớn ,công nghệ lạc hậu . - Thứ hai : Chưa giải quyết tốt vấn đề sở hữu , đại diện sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp , cơ chế quản lí của cơ quan nhà nước đối với hoạt động trong doanh nghiệp chậm đổi mới . - Bên cạnh đó , tình trạng kém năng động , trông chờ ỷ lại Nhà nước là nguyên nhân chính gây ra tình trạng kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN. Bảng 1 : Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp Biểu đồ 1: Số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi: Nguồn Vụ tài chính ngân hàng – Bộ tài chính 2004 Đến hết tháng 7/2004 đã thực hiện sắp xếp lại 2.224 DN, trong đó: - Cổ phần hoá: 1.412 - Giao, bán, khoán kinh doanh: 199 - Sáp nhập, hợp nhất: 362 - Giải thể, phá sản: 102 - Các hình thức khác: 149 Hiệu quả sau khi sắp xếp lại: - Số vốn huy động thêm: 3.300 tỷ đồng - Mức trả cổ tức bình quân từ 10 -15%/năm - Tăng cung hàng hóa cho TTCK II . Vốn đầu tư phát triển trong DNNN 1 . Khái niệm Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư , là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị …) và tài sản trí tuệ ( tri thức , kỹ năng …) , gia tăng năng lực sản xuất , tạo việc làm và vì mục tiêu phát triển. Trên cơ sở khái niệm về đầu tư phát triển như trên , có thể nêu ra khái niệm về đầu tư phát triển của DNNN như sau : Đầu tư phát triển của DNNN là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản ( tài sản vật chất hữu hình và tài sản vô hình ) của DNNN , tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của mỗi thành viên trong đơn vị . 2 . Phân loai các vốn đầu tư phát triển Tùy vào các cách thức đánh giá khác nhau mà ta có thể phân loại vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước thành các dạng sau: 2.1 Theo mục đích sử dụng a. Vốn  đầu tư cơ bản của là số vốn  đầu tư để tạo ra tài sản cố định. Nó bao gồm vốn  đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ. Vốn  đầu tư xây dựng cơ bản là một thuật ngữ đã được sử dụng khá quen thuộc ở nước ta với nội dung bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế. Về thực chất vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí làm tăng thêm giá trị tài sản cố định. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm 2 bộ phận hợp thành: vốn  đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới TSCĐ mà ta quen gọi là vốn  đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ. Về nội dung chỉ tiêu: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ bao gồm: - Chi phí cho việc thăm dò, khảo sát và quy hoạch xây dựng chuẩn bị cho việc đầu tư; - Chi phí thiết kế công trình; - Chi phí xây dựng; - Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí khác thuộc nguồn vốn  đầu tư XDCB; - Chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy móc thiết bị, sửa chữa lớn các TSCĐ khác. Vốn  đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của vốn  đầu tư cơ bản được sử dụng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như đã nêu trên. b. Vốn lưu động bổ sung bao gồm những khoản đầu tư làm tăng thêm tài sản lưu động trong kỳ nghiên cứu, đó là những khoản đầu tư mua công cụ, dụng cụ không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định; mua nguyên liệu, vật liệu nhiều hơn năm trước (Không kể số tiền mặt còn tồn quỹ, tiền đang gửi ngân hàng và vàng bạc, đá quý chưa sử dụng vào mua sắm tài sản). c. Vốn  đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư của doanh nghiệp nhằm tăng năng lực phát triển của doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài yếu tố làm tăng TSCĐ, TSLĐ còn phải làm tăng nguồn lực khác như: nâng cao dân trí; hoàn thiện môi trường xã hội; cải thiện môi trường sinh thái; hỗ trợ cho các chương trình phòng chống tệ nạn xã hội và các chương trình phát triển khác. Như vậy, nội dung của "vốn đầu tư phát triển khác" rất phong phú. Nó bao gồm tất cả các khoản đầu tư tăng thêm cho: - Chi phí cho công việc thăm dò; khảo sát, thiết kế quy hoạch - Chi phí cho việc triển khai thực hiện các chương trình, mục tiêu xã hội - Chi phí cho việc thực hiện chương trình bảo vệ môi trường - Chi phí cho việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực; 2.2 Theo nguồn gốc sở hữu về vốn a. Vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước hình thành cơ bản hình thành từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên đó không phải là nguồn vốn chủ sở hữu duy nhất trong doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao gồm vốn góp liên doanh, liên kết đóng góp cổ phần của nhiều thành phần kinh tế khác. b. Vốn nợ Vốn nợ của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và từ vay tín dụng thương mại. (để tìm hiểu kỹ hơn xem mục II chương I) Về cơ bản nguồn gốc huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước không có nhiều khác biệt với doanh nghiệp không thuộc nhà nước, nhưng doanh nghiệp nhà nước có những lợi thế nhất định về khả năng huy động cũng như những lợi thế về thủ tục trong huy động vốn nợ. Tuy nhiên về vấn đề sử dụng vốn nợ lại là một vần đề về thực trạng cần nghiên cứu kỹ hơn trong phần sau. III . Thực trạng vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN Việt Nam 1. Theo mục đích sử dụng. 1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản Đầu tư xây dựng cơ bản là một phần rất quan trọng trong chiến lược kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp vì vậy 1 phần lớn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ bản. Cụ thể từ năm 2001đến năm 2005 tổng lượng vốn sử dụng trên 85600 tỷ đồng, bình quân hàng năm bằng 125%, riêng năm 2006 đạt trên 30000 tỷ đồng bằng 137,8% so với năm 2005. 1.2 Vốn lưu động bổ sung Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 lượng hàng tồn trữ tại các doanh nghiệp nhà nước là tương đối lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp khoảng từ 20% đến 25% và đang có su hướng giảm đần qua các năm . Đây là một tín hiệu tốt, nó thể hiện tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đang trên đà phát triển, việc sản xuất và tiêu thụ ngày một thuận lợi 1.3 Vốn đầu tư phát triển khác. a) Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ Đây là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhưng thực tế vẫn chưa được chú trọng đầu tư, các hoạt động này chỉ chiến khoảng từ 1% đến 3% tổng lượng đầu tư của doanh nghiệp. Và nhà nước vẫn đang khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đầu tư vào lĩnh vực này để phần nào tăng cường cho nền công nghệ vốn đang còn lạc hậu của nước ta b) Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là động lực quan trọng nhất, là nhân tố chủ yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy đầu tư phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các doanh nghiệp. Hàng loạt các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn đã và đang mở những lớp đào tạo ngay tại chính doanh nghiệp mình tạo ra 1 lực lượng lao động có đầy đủ chuyên môn phù hợp nhất với nhu cầu của doanh nghiệp và ngoài ra còn cung cấp cho những doanh nghiệp khác cùng địa bàn. Đây là một hướng đầu tư tích cực đang được nhà nước khuyến khích bằng nhiều chính sách cụ thể như nghị định 143 CP của chính phủ ban hành ngày 15/6/2005 về việc tổ chức đào tạo nhân lực tại các doanh nghiệp… c) Đầu tư phát triển tài sản vô hình Trong thời đại kinh tế thị trường đang phát triển ngày một hoàn thiện nhưngày nay tài sản vô hình của doanh nghiệp là 1 yêu tố quan trọng nó quyết định khả năng tiêu thụ của sản phẩm và giá cả của chúng trên thị trường. Vì lẽ đó hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước đang đầu tư rất mạnh tay để nâng cao giá trị tài sản vô hình trong doanh nghiệp bao gổm: thương hiệu, hoạt động marketing, quảng cáo phân phối… chiếmkhoảng từ 18% đến 22% tổng lượng đầu tư của doanh nghiệp d) Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp Việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác đang dần trở thành 1 su hướng mới trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay 1 bộ phận lớn các doanh nghiệp thực hiện liên doanh liên kết tạo thành những tập đoàn lớn mạnh như tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn pertronimex V.V… Ngoài ra 1 xu hướng khác đang hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ đó là đầu tư ra nước ngoài. Đây là một hướng đi mới là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế Việt Nam, nó khẳng định các doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng lớn mạnh đủ tiềm lực kinh tế để kinh doanh ở những thị trường mới, không chỉ quẩn quanh ở “ao làng” nữa. 2. Theo nguồn gốc sở hữu vốn 2.1 Thực trạng huy động vốn chủ sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. a)Vốn ngân sách nhà nước Đây là nguồn vốn lớn và chiếm tỷ trọng thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước. Có nguồn vốn ngân sách vừa là một thế mạnh nhưng cũng tạo không ít hạn chế trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) vì là người cấp vốn đầu tư ban đầu và đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp. Như vậy, cho dù theo quy định của pháp luật, DNNN có quyền sử dụng, định đoạt vốn và tài sản trong kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, nhưng vai trò chủ sở hữu đối với các tài sản trong doanh nghiệp vẫn thuộc về Nhà nước. Việc xác định chủ sở hữu đối với tài sản trong DNNN liên quan trực tiếp đến nguyên tắc phân chia, sử dụng lợi nhuận thu được từ nguồn vốn do Nhà nước cấp và từ vốn của bản thân doanh nghiệp tự đầu tư, nhất là xác định tỷ lệ lợi nhuận mà doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp vào ngân sách Nhà nước (NSNN). Do đó, khi chưa có quy định cụ thể, rõ ràng làm căn cứ để phân định tài sản thuộc về sở hữu Nhà nước và tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động trong doanh nghiệp để xác định phạm vi trách nhiệm đối với từng tài sản đó, thì các nguyên tắc để bảo đảm quyền tự chủ về tài chính trong kinh doanh, bảo toàn vốn, ổn định nguồn thu cho NSNN sẽ khó thực hiện. Mặt khác, nếu vẫn quan niệm tài sản trong DNNN thuộc sở hữu Nhà nước và lợi nhuận làm ra đều phải nộp cho Nhà nước, thì sẽ không tạo ra động lực gắn bó người lao động với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khi họ đưa lợi nhuận thu được, tức tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động để tái đầu tư sản xu t kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiện nay, chế định về sở hữu tài sản trong DNNN vẫn chưa quy định rõ các căn cứ để xác định chế độ sở hữu khác nhau đối với các nguồn vốn, tài sản trong DNNN và các nguyên tắc, chế độ phân phối lại lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.   Đứng trước cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước có khi làm giảm khả năng cạnh tranh trong phần đông các DNNN. Một thực tế là, DNNN làm ăn thua lỗ, đến cuối năm 2004 chỉ còn 25% DNNN đang hoạt động có hiệu quả, “cơ chế tái bao cấp” trở thành phổ biến, việc khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đã gây thiệt hại không nhỏ cho ngân sách Nhà nước, song không xác định được trách nhiệm thuộc về hoạt động kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp hay thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nước. Thực hiện chế độ phân cấp, uỷ quyền, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính là người thực hiện quyền và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản trong DNNN (theo NĐ 34/CP). Song trên thực tế, UBND cấp tỉnh, các Bộ quản lý ngành cũng có một số quyền của đại diện chủ sở hữu như quyết định bổ sung vốn lưu động, quyết định phương án đầu tư vốn vào các dự án liên doanh, quyền phê duyệt các phương án thế chấp, cầm cố các tài sản có giá trị lớn... Như vậy, rõ ràng có sự chồng chéo trong việc thực hiện quyền của chủ sở hữu là Nhà nước với tư cách là người góp vốn đối với việc quản lý vốn, tài sản trong doanh nghiệp. Hiện nay, chúng ta đang có quá nhiều đại diện sở hữu, có quá nhiều cơ quan Nhà nước và thực hiện quyền quản lý Nhà nước, việc chỉ đạo, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như việc tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh khó có thể bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, có hiệu quả, gây khó khăn, lúng túng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều đáng chú ý là do có nhiều cơ quan quản lý, đại diện chủ sở hữu nên khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật thì việc xác định trách nhiệm cũng rất khó khăn. b) Vốn góp liên doanh, liên kết, vốn cổ phần hóa Sau hơn 15 năm (1998-2008) thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu các DNNN cho thấy: CPH đã tạo ra cho DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao động trong DN, cổ đông ngoài DN; trong đó, người lao động trong DN trở thành người chủ thực sự trong phần góp vốn của mình. Trong báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện cổ phần hóa DNNN tại phiên họp thứ 43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 21/9/2006 đã chỉ rõ: Những năm gần đây,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp Thực trạng và giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan