Đề án Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

 Chính sách xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, trợ cấp xã hội là một chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm: xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế – xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài. Chủ trương xoá đói giảm nghèo được cụ thể hoá bằng các chính sách, nghị định, thông tư của chính phủ, của các bộ, ngành có liên quan và được thực hiện trên phạm vi cả nước.

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “việc thực hiện đúng theo nguỷên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân…, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và kết quả kinh tế”. Phải thực hiện phân phối một cách công bằng ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Với quan điểm này, phân phối công bằng trước hết phải được thực hiện hợp lý tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội như tài nguyên, đất đai… thuộc quyền sở hữu của nhà nước phải phân phối sử dụng hợp lý trên cơ sở phân biệt rõ quyền sơ hữu và quyền sử dụng chúng. III. Những nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, từ ba hình thức sở hữu cở bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phân kinh tế nay tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu có nguyên tắc phân phối phù hợp. 1. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là sự vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó được thực hiện trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Kết quả lao động cụ thể của mỗi người, của một doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chỉ có thể được thừa nhận và làm căn cứ để phân phối khi sản phẩm của đơn vị đó (doanh nghiệp) được thị trường thừa nhận, bán được sản phẩm hàng hoá. Hiệu quả kinh tế là kết quả lao động của cá nhân và tập thể trong doanh nghiệp. Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là trong những điều kiện lao động như nhau, những lao động mang lại kết quả ngang nhau thì được trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác nhau thì phải được trả công khác nhau. Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được thực hiện thông qua hai khâu phân phối với các chủ thể tham gia là Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp. Khâu thứ nhất: tổng thu nhập của doanh nghiệp trước hết được phân chia giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước lấy lượng vốn đã giao cho doanh nghiệp sử dụng làm cơ sở để quy định phần thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước, phần cồn lại là thu nhập thực của doanh nghiệp. Nhà nước thông qua chính sách, các văn bản pháp quy về quản ký tiền lương đối với doanh nghiệp để tác động gián tiếp đến việc hình thành quỹ lương của doanh nghiệp. Khâu thứ hai: phân phối thu nhập trong nội bộ trong doanh nghiệp do doanh nghiệp với tư cách một chủ thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi người. Kết quả đó có thể xác định bằng thời gian hoặc bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra theo nhưng quy định cụ thể về chất lượng và do doanh nghiệp đánh giá. Hai khâu phân phối trên không thể tách rời nhau, sự tác động giữa chúng tạo thành cơ chế phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế còn được thực hiện dưới hình thức tiền lương,tiền thưởng và phúc lợi xã tập thể. 2. Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản là một đòi hỏi tất yếu và cũng là một nguyên tắc phân phối cơ bản. Vì thế, người sử dụng vốn và tư liệu sản xuất có đóng góp vào quá trình sản xuất phải nhận được thu nhập dưới hình thức tương ứng. Chỉ có như vậy người có vốn, tài sản mới đầu tư vốn và tài sản của mình vào sản xuất kinh doanh, mới huy động được mọi nguồn vốn trong xã hội để phát triển sản xuất. Các hình thức phân phối cơ bản: Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân, bộ phận giá trị mới được phân thành khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại là lợi nhuận của nhà tư bản. Lợi nhuận là một hình thức thu nhập dựa vào sự đóng góp vốn và lao động quản lý của nhà tư bản. Trong thành phần kinh tế tư bản nhà nước, nếu là công ty cổ phần, thì bộ phận giá trị mới được phân thành khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại được được chia theo số lược cổ phần dưới hình thức lợi tức cổ phần. Các đơn vị kinh tế, các tổ chức và các tầng lớp dân cư có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng, họ đem gửi vào ngân hàng hoặc cho vay để nhận được lợi tức. Trong thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, người lao động dựa vào tư liệu sản xuất và lao động của bản thân cũng như của gia đình họ để tiến hành sản xuất kinh doanh. Ngoài các hình thức thu nhập nói trên, còn có các hình thức thu nhập khác như tiền cho thuê tài sản (nhà xưởng, thiết bị , nhà ở…). 3. phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Phân phối thông qua phúc lợi xã hội cũng là một nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có có nguyên tắc này, vì trong xã hội ngoài những nguời có sức lao động và có vốn góp vào quá trình sản xuất, nhờ có được thu nhập dưới hình thức tiền lương hay tiền công, lợi nhuận hay lợi tức, còn có những người không có khả năng lao động hoặc hết khả năng lao động, mà xã hội vẫn phải đảm bảo đời sống cho họ. Thêm vào đó, không phải mọi tiêu dùng cá nhân chỉ dựa vào thu nhập theo hai nguyên tắc phân phối trên, mà vẫn cần nhận được khoản thu nhập và dịch vụ công cộng về y tế, giáo dục, văn hoá… Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên phân phối theo phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư; nâng cao mức sống của nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, giáo dục ý thức cộng đồng. Quỹ phúc lợi phân thành hai bộ phận, một bộ phận biến thành thu nhập cá nhân như lương hưu, tiền trợ cấp; một bộ phận khác được tiêu dùng chung như các công trình văn hoá, giáo dục, y tế,… Đảng ta chủ trương: “… tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Vì thế cần phải xây dựng và sử dụng hợp lý các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể. phần II Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua I. Thực trạng các chính sách phân phối 1. Thực trạng chính sách tiền lương Tiền lương là là hình thức thực hiện của nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên tắc phân phối chủ yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tiền lương là cơ sở để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân người lao động và gia đình họ. Tiền lương là tụ điểm của mọi vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… vì thế tiền lương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các chính sách khác. Trong giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến việc cải cách hoặc điều chỉnh tiền lương cho phù hợp nhằm từng bước nâng cao mức sống của người lao động, thúc đẩy phát triẻn kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Từ năm 1957 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần cải cách tiền lương: Năm 1985, Nhà nước đã thự hiện cải cách giá - lương – tiền; Năm 1993, Nhà nước thực hiện cải cách tiền “luơng tối thiểu”, theo đó mức lương tối thiểu được áp dụng từ ngày 1-4-1993 là 120.000 đồng/tháng. đây là mức lương tối thiêu nhất, không có tiền lương tối thiểu vùng và tiền lương tối thiểu ngành. Vào tháng 1-1997, giá cả sinh hoạt đã tăng 33% so với tháng 12-1993. trước tình hình đó chính phủ đã điều chỉnh mức lương từ 120.000 đồng/tháng lên 144.000 đồng/ tháng (tăng 20%). Tháng 1-2000, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 50%so với tháng 12-1993, Chính phủ đã điều chỉnh mức lương tối thiểu áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách là 180.000 đồng/tháng… Tháng 1-2001 mức lương tối thiểu là: 210.000 đồng/tháng. Tháng 1- 2003, mức lương tối thiểu được điều chỉnh lên 290.000 đồng/tháng. Tổng quỹ lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với năm 2002. lần đầu tiên việc chi trả lương được bố trí từ bốn nguồn là: khoản chi tiết kiệm 10% chi thường xuyên; một phần nguồn thu phí, lệ phí để lại đơn vị; 50% số tăng thu ngân sách địa phương và nguồn ngân sách cấp trên. 2. Thực trạng chính sách thuế đối với phân phối thu nhập Một trong những chức năng cơ bản của thuế là chức năng phân phối tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân. Chức năng này được nhà nước vận dụng nhằm huy động một phần thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào quỹ của mình, để thực hiện các chức năng của nhà nước. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế còn có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng điều tiết kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. 2.1. Đối với thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng là thuế nhằm điều tiết thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, nên về nguyên tắc, đối tượng đánh thuế là mọi hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam và đối tượng tiêu dùng, đối tượng nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Thuế giá trị gia tăng áp dụng hai phương thức tính thuế: Phương pháp tính thuế trực tiếp được áp dụng cho các hộ kinh doanh nhỏ, chưa thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán; Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho các đơn vị, tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán kế toán và chế độ sử dụng hoá đơn… 2.2. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 quy định: mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàn hoá, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp; thu nhập chịu thuế là toàn bộ thu nhập của cơ sở kinh doanh nhận được sau khi trừ đi các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập chịu thuế và các rthu nhập chịu thuế khác. Thuế được áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong nước là 28%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 25%, đồng thời nếu chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. 2.3. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao Ngày 19-5-2001, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Pháp lệnh quy định: Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài và cá nhân khác định cư tại Việt Nam có thu nhập; người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập. Mức thuế thu nhập được áp dụng theo hai bảng biểu sau: Bảng số 1: Biểu thuế đối với người có thu nhập cao Đơn vị: 1.000 đồng Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất (%) Đối với công dân là người Việt Nam 1 Đến 5.000 0 2 Trên 5.000 đến 15.000 10 3 Trên 15.000 đến 25.000 20 4 Trên 25.000 đến 40.000 30 5 Trên 40.000 40 Đối với công dân là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam 1 Đến 8.000 0 2 Trên 8.000 đến 20.000 10 3 Trên 20.000 đến 50.000 20 4 Trên 80.000 đến 80.000 30 5 Trên 80.000 40 Nguồn: Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (23-4-2004). Ngoài ra còn có một số loại thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế đánh vào một số loại hàng hoá đặc biệt như những hàng hoá cần hạn chế tiêu dùng như rượu, bia…hoặc những hàng hoá cao cấp như máy điều hoà, ôtô con… 3. Thực trạng chính sách xã hội 3.1. Chính sách giải quyết việc làm Việt Nam là nước có dân số đông và trẻ, nền kinh tế còn kém phát triển, vì vậy, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn hết sức trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Chính phủ thông qua Chương trình quốc gia về việc làm với ba hướng cơ bản: Phát triển kinh tế tạo nhiều chỗ việc làm; Cố gắng giữ chỗ việc làm đã có (chống sa thải hàng loạt); Hỗ trợ cho người tìm kiếm việc làm. Chương trình quốc gia về việc làm được thực hiện trên phạm vi cả nước trên cơ sở thành lập quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm bằng cách huy động các nguồn vốn của Nhà nước, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và dân cư cho vay với lãi suất thấp đối với các đối tượng có dự án tạo việc làm, hỗ trợ phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm. 3.2. Chính sách xoá đói giảm nghèo Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, chính sách này được Nhà nước thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 1992 đến nay. Từ khi thực hiện Chương trình xoá đói, giảm nghèo (năm 1992) đến nay, Nhà nước thông qua các Chương trình quốc gia có liên quan đến mục tiêu xoá đói, giảm nghèo khoản trên 21.000 tỷ đồng, trong đó riêng hai năm 1999 và 2000 là khoảng 9.600 tỷ đồng. Nguồn lực đầu tư trực tiếp cho Chương trình xoá đói, giảm nghèo được tăng cường, trong đó riêng ngân sách nhà nước khoảng 2.000 tỷ đồng; hỗ trợ đồng bào dân tộc…Năm 2003, tổng số vốn Nhà nước đầu tư cho chương trình xoá đói giảm nghèo là 660 tỷ đồng với mục tiêu giảm 330.000 hộ nghèo, giải quyết đất cho trên 4.300 hộ nghèo, khoảng 2,7 triệu lượt hộ nghèo đượcvay ưu đãi… Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong thời gian qua chúng ta đã giảm được 2 triệu hộ nghèo; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ trên 30% năm 1992 xuống còn 10% năm 2000, mỗi năm bình quân giảm 250.000 hộ. Tỷ lệ nghèo đói giảm đi ở thành thị và nông thôn, mức sống của người dân được cải thiện, điều đó thể hiện ở sự gia tăng thu nhập ở người nghèo và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế... Những hạn chế về xoá đói giảm nghèo Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta còn cao. Theo chuẩn của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội công bố, tỷ lệ đói nghèo năm 1992-1993 là khoảng 30%, đến năm 2000 khoảng 10%, năm 2001 là 17,2%. Sự phân hoá giàu, nghèo trong xã hội cũng ngày càng tăng. Theo kết quả của Tổng cục Thống kê, nếu so sánh thu nhập của 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất, thì chênh lệch nhau là 7,3 lần (năm 1996) đã tăng lên 8,9 lần (năm 1999). Còn hệ số chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn hiện nay còn khoảng 5-7 lần. Các chỉ tiêu còn rất thấp so với mục tiêu đề ra. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao, khoảng 35% (năm 2000); tỷ lệ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn cao, bình quân hàng năm 7%. 3.3. Chính sách bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Thành tựu về chính sách bảo hiểm xã hội. Các chính sách bảo hiểm xã hội trong thời gian qua đã được đổi mới theo hướng mở rộng đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho việc thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách kinh tế – xã hội; Thực hiện nguyên tắc cùng chia sẻ trách nhiệm về bảo hiẻm xã hội và bảo hiểm y tế: người lao động và người sử dụng lao động đều có trách nhiệm đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm y tế; việc bồi thường tai nạn lao động hoàn toàn thuộc về trách nhiệm người sử dụng lao động… Những hạn chế về chính sách bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn rất hạn chế; Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội còn bị thất thu lớn. Theo báo cáo của bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 1999 dự kiến thu 4.500 tỷ, thì chỉ thu dược 4.188,4 tỷ đồng…; Nguồn thu bảo hiểm xã hội còn hạn chế, trongkhi nguồn chi cho bảo hiểm xã hội lại lớn, do đó nguồn chi phai lấy từ ngân sách (chiếm trên 80%). 3.4. Chính sách trợ cấp nhà nước Trợ cấp Nhà nước là một trong những bộ phận hợp thành của chính sách xã hội, để cho những người yếu thế trong xã hội có thể vượt qua được những khó khăn, đảm bảo cuộc sống bình thường nhằm mục tiêu “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và cồng bằng xã hội”. Chính sách trợ cấp nhà nước bao gồm hai mảng chính, đó là: Chính sách trợ cấp đột xuất: theo quyết định số 185/1999/QĐ-TTg ngày 13-9-1999 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đối với vùng phân lũ, chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng quy định mức trợ cấp cho từng loại đối tượng: hỗ trợ cứu đói do thiên tai, người bị thương… Chính sách trợ cấp thường xuyên, Nhà nước đã có chính sách như: trợ cấp vật chất sinh hoạt, trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên, y tế… II. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra đối với sự điều tiết của nhà nước về phân phối thu nhập 1. Thu nhập và mức sống Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế – xã hội đã có những chuyển biến sâu sắc và toàn diện, nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục với tốc độ cao. GDP tăng bình quân hàng năm của thời kỳ 1986 – 1990 là 3,9%; 1991 – 1995 là 8,2%; 1996 – 2000 là 7,0%/năm; năm 2001, 2002, 2003 khoảng 7,1%, đây là tốc độ tăng cao thứ hai ở khu vực châu á - Thái Bình Dương (chỉ sau Trung Quốc là 8%). Năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt gần 400 đôla/năm, tăng gấp đôi so với năm 1999. Quy mô kinh tế năm 2000 đã gấp gần 2,4 lần năm 1990. Thu nhập bình quân đầu người một tháng năm sau đều cao hơn năm trước. Vì vậy, đời sống của dân cư được cải thiện rõ rệt, trừ những vùng thiên tai nặng, gia đình thiếu vốn… Bảng số 3: thu nhập bình quân đầu người một tháng qua các năm Đơn vị: 1000 đồng Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1999 Toàn quốc (chia theo khu vực) 92,09 119,01 168,11 206,12 260,70 295,0 Thành thị 151,25 220,34 359,67 452,83 509,82 832,5 Nông thôn 77,39 94,49 141,14 172,50 187,89 225,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê: số liệu về sự biến đổi xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb.Thống kê, Hà Nội, 2000. Qua số liệu ta thấy, thời kỳ 1996 –1999 tốc độ tăng bình quân 8,78%: Thu nhập ở khu vực thành thị năm 1995 tăng 25,9% so với năm 1994, năm 1996 tăng 12,55% so với năm 1995, thu nhập 4 năm (1996 – 1999) tăng bình quân hàng năm 16,37%; ở khu vực nông thôn tốc độ tăng thu nhập có thấp hơn mức bình quân chung nhưng năm 1995 tăng 22,2% so với năm 1994, năm 1996 tăng 8,9% so với năm 1995, thu nhập 4năm (1996 – 1999) tăng bình quân hàng năm 6,01%. Tuy nhiên, vẫn còn có sự chênh lệch nhất định về mức lương bình quân của người lao dộng làm công ăn lương giữa các thành phần kinh tế, nhưng nói chung không nhiều. 2. Đánh giá về sự đổi mới các chính sách phân phối và điều tiết thu nhập của nhà nước 2.1.Về chính sách chi tiêu của ngân sách nhà nước Trong thời gian qua, thu – của ngân sách Nhà nước đã có sự biến đổi tích cực. Thu của nhà nước so với GDP trong thời kỳ 1991 – 1999 trung bình đạt 20,2%/năm; ta có bảng số liệu thời kỳ 2000 – 2003: bảng số 4: Thu chi ngân sách nhà nước năm 2000 – 2003 Chi tiêu 2000 2001 2002 2003 Tổng thu ngân sách 20,21 21,59 20,97 21,70 Viện trợ không hoàn lại 0,46 0,42 0,37 - Tổng thu không kể viện trợ 19,96 21,17 20,59 - Thuế, phí, lệ phí 17,59 18,91 18,79 20,70 Tổng chi ngân sách 23,77 26,96 26,33 27,3 Chi đầu tư phát triển 6,67 8,63 7,52 7,76 Chi trả nợ và chi viện trợ 2,99 3,10 3,79 4,47 Chi thường xuyên 13,92 15,50 15,02 15,50 Cân đối ngân sách (dự đoán) -3,36 -5,38 -5,36 -5,70 Cân đối ngân sách thực tế -4,95 -4,67 -4,96 -5,0 Nguồn: CIEM: kinh tế Việt Nam 2003, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.45. Cơ cấu thu ngân sách Nhà nước có sự chuển dịch theo hướng tích cực: thu nội địa so với tổng thu ngân sách Nhà nước đã tăng 50,7% năm 2001 lên 52,6% năm 2003; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, dầu thô giảm 47,4%/năm 2001 xuống 45,9/năm 2003. Chi ngân sách nhà nước được cơ cấu lại theo hướg xoá bỏ bao cấp trong chi ngân sách nhà nước, tăng cho đầu tư phát triển, giáo dục và đào tạo, y tế… Cụ thể , năm 2003 tổng chi ngân sách nhà nước ước tính vượt 6,1% so với dự toán và bằng 27,3% GDP, trong đó chi cho dầu tư phát triển bằng 7,8% GDP, chi thường xuyên bằng 15,5% GDP. Bội thu ngân sách năm 2003 ước tính bằng 5,0% GDP. Chính phủ đã đặc biệt ưu tiên chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực…tốc độ chi ngân sách tăng bình quân hàng năm của thời kỳ 1991 – 2000: giáo dục 31,5%/năm; y tế 17,7%/năm; văn hoá, thể thao 19,7%/năm… Như vậy, chính sách chi tiêu của ngân sách nhà nước đã có sự biến đổi cơ bản, chi cho đảm bảo xã hội tăng, đó là nhân tố cơ bản đảm bảo sự phân phối thu nhập công bằng và tiến bộ xã hội ở nước ta trong thời gian qua. 2.2. Về chính sách tiền lương Chính sách tiền lương là một chính sách có vai trò quan trọng trong phân phối thu nhập. Vì thế, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc cải cách và điều chỉnh tiền lương cho phù hợp nhằm nâng cao mức sống của người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Tiền lương được quan niệm là giá cả sức lao động và được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người chủ lao động. Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động được xác định là mục tiêu cải cách tiền lương. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt dựa vào nhu cầu tối thiểu của người lao động chúng ta đã xây dựng được mức tiền lương tối thiểu chung, tiền lương tối thiểu ngành… 2.3. Về chính sách thuế Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế như là một công cụ chủ yếu để phân phối thu nhập quốc dân, điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và đảm bảo công bằng xã hội. Qua hai đợt cải cách thuế, về cơ bản đã xây dựng được một hệ thống thuế thống nhất, được luật hoá và áp dụng bình đẳng đối với các thành phần kinh tế. Cải cách thuế đã làm cho hệ thống thuế trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nhà nước đã sử dụng thuế để kích thích xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, nhờ đó tạo nguồn lực trong nước, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách cho nhà nước. Cải cách thuế đã tính đến yếu tố hội nhập khi xây dựng các chính sách bảo hộ qua thuế, có bước tiến trong hoà nhập với môi trường quốc tế. 2.4. Về chính sách xã hội Chính sách giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Chính phủ đã xây dựng và thực hiện chương trình quốc gia về việc làm nhằm phát triển kinh tế, tạo nhiều chỗ làm việc mới. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở rộng ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động; thành lập quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm để cho vay với lãi suất ưu đãi đối với nhiều đối tượng có dự án tạo việc làm… Chính sách xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, trợ cấp xã hội là một chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm: xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế – xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài. Chủ trương xoá đói giảm nghèo được cụ thể hoá bằng các chính sách, nghị định, thông tư của chính phủ, của các bộ, ngành có liên quan và được thực hiện trên phạm vi cả nước. Về chính sách bảo hiểm xã hội, trong quá trình đổi mới, hệ thống bảo hiểm từng bước được phát triển và tập trung vào bốn lĩnh vực chủ yếu là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường tai nạn lao động và trợ cấp thôi việc. 3. Những vấn đề đặt ra đối với sự điều tiết của nhà nước về phân phối thu nhập 3.1. Sự phân hoá giàu nghèo Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng diễn ra sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng. Kết quả số liệu điều tra qua các năm cho thấy các năm 1994 – 1996, Tổng cục thống kê đã tiến hành điều tra hộ gia đình đa mục tiêu với cỡ mẫu 4,5 vạn hộ và năm 1999 điều tra 2,5 vạn hộ đại diện cho cả nước, 7 vùng sinh thái, khu vực thành thị, nông thôn: bảng số 5: so sánh nhóm thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất, mỗi nhóm 20% số hộ điều tra Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1999 Toàn quốc 6,5 7,0 7,3 8,9 1. Chia theo khu vực: - Thành thị 7,0 7,7 8,0 9,8 - Nông thôn 5,4 5,8 6,1 6,3 2. Chia theo vùng: - Tây Bắc và Đông Bắc 5,2 5,7 6,1 6,8 - Đồng bằng sông Hồng 5,6 6,1 6,6 7,0 - Bắc Trung Bộ 5,2 5,7 5,9 6,9 - Duyên hải Nam Trung Bộ 4,9 5,5 5,7 6,3 - Tây Nguyên 10,1 12,7 12,8 12,9 - Đông Nam Bộ 7,4 7,6 7,9 10,3 - Đồng bằng sông Cửu Long 6,1 6,4 6,4 7,9 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Số lượng về sự chuyển biến xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2000. Như vậy, hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nghèo đều tăng qua các năm ở khu vực thành thị, nông thôn và các vùng . Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng dãn rộng sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ… Điều đó đưa đến hệ quả không mong muốn, làm xuất hiện những nhóm xã hội b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35655.doc
Tài liệu liên quan