Đề án Phương pháp dãy số thời gian và vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích sự biến động của tốc độ tăng trưởng dân số giai đoạn 1995-2002 và dự báo năm 2004 tỉnh Bắc Ninh

 

Bắc Ninh quê hương của làn điệu dân ca “Quan họ” nằm trong khu vực tam giác

Kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, là vùng đất chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi. Bắc Ninh còn là cửa ngõ phía bắc của thủ đô Hà Nội, nơi có nhiều đườn quốc lộ và con sông lớn chảy qua. Với vị trí thuận lợi này, nó luôn luôn là tiềm năng phát triển kinh tế xã hội cho tỉnh Bắc Ninh.

Do đựơc thiên nhiên ưu đãi về nhiều yếu tố, nên diện tích tự nhiên nhỏ trong cả nước (804 Km2), nhưng dân cư tập trung lên tới gần một triệu người. Không chỉ có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tỉnh Bắc Ninh còn là vùng đất giàu văn hiến và cách mạng. Trong trang lịch sử vàng của dân tộc còn ghi: Công lao của vua Lý Thái Tổ người tên hiệu Thăng Long - Hà Nôi là “Thượng đô của kinh sư muôn đời”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Lý Thường Kiệt vang lên bên chiến tuyến Sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Những lãnh tụ đầu tiên của Đảng ta là Nguyễn Văn Cừ, Ngô Tự và Hoàng Quốc Việt.

 

doc47 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2625 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phương pháp dãy số thời gian và vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích sự biến động của tốc độ tăng trưởng dân số giai đoạn 1995-2002 và dự báo năm 2004 tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nào đó , một sự tiến triển kéo dài theo thời gian , xác định tính quy luật biến động của hiện tượng theo thời gian. Việc xác định xu hướng động cơ bản của hiện tượng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê Vì vậy ,cần sử dụng những phương pháp thích hợp, trong một chừng mực nhất định ,loại bỏ tác động của những nhân tố ngẫu nhiên để nêu lên xu hướng và tính quy luật về sự biến động của hiện tượng. Sau đây em sẽ trình bày một số phương pháp thường được sử dụng để biểu hiện xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng. 2.1Phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian Phương pháp này được sử dụng khi có một dãy số thời kỳ có khoảng cách thời gian tương đối ngắn và có nhiều mức độ mà qua đóchưa phản ánh được xu hướng biến động của hiện tượng. Ví dụ :Có tài liệu về sản lượng hàng thángcủa măm 1995 ở một xí nghiệp như sau: Tháng Sản lượng (1000 tấn) Tháng Sản lượng (1000 tấn) 1 40,4 7 40,8 2 35,8 8 44,8 3 40,6 9 48,4 4 38 10 48,9 5 42,2 11 46,2 6 48,5 12 42,2 Dãy số cho thấy sản lượng các tháng khi thì tăng khi thì giảm thất thường , không nói rõ xu hướng biến động. Người ta có thể mở rộng khoảng cách thời gian từ tháng sang quý. Quý Sản lượng (1000) I 177,8 II 128,7 III 135 IV 137,8 Do khoảng cách thời gian được mở rộng (từ tháng sang quý )nên mọi mức độ của dãy số mới thì sự tác động của các nhân tố ngẫu nhiên (với chiều hướng khác nhau ) phần nào đã được bù trừ (triệt tiêu) và do đó cho thấy rõ xu hướng biến động cơ bản là tình hình sản xuất của xí nghiệp tăng đầ tư quý I lên quý IV của năm 1995. 2.2 Phương pháp dãy số trung bình trượt (di động) Số trung bình trượt (còn gọi là số trung bình di động ) là số trung bình cộng của một nhóm nhất định các mức độ của dãy số được tính bằng cách lần lượt loại dần các mức độ đầu đồng thời thêm vào các mức độ thời gian ,sao cho tổng số lượng các mức độ tham tính số trung bình không thay đổi . Giả sử có dãy số thời gian:. Nếu tính trung bình cho nhóm ba mức độ ,ta sẽ có : = = = Từ đó ta có một dãy số mới gồm các số trung bình trượt: ,,…,. Trượt với bao nhiêu mức độ phụ thuộc vào đặc điểm biến động của hiện tượng và phụ thuộc vào sản lượng mức độ của dãy số thời gian. Sự biến động củahiện tượng qua thời gian ít thay đổi sản lượng mức độ của dãy số thường không nhiều 3,4 mức độ. Sự biến động của hiện tượng qua thời gian thay đổi lớn sản lượng mức độtương đối tương đối nhiều 5, 6 ,7 mức độ. Trung trượt càng được tính tưqf nhiều mức độ thì càng có tác dụng san bằng ảnh hưởng của các nhân tố. Nhưng mặt khác số lượng mức độ dãy trượt trung bình giảm xuống thì ảnh hưởng đến sự phân tích xu hướng phát triển cơ bản. 2.2 Phương pháp hồi quy Trên cơ sởdãy số thời gian,người tatìm ra một hàm(gọi là phương trình hồi quy) phản ánh sự biến động của hiện tượngqua thời gian có dạng tổng quát như sau: = Trong đó : : mức độ lý thuyết : các tham số t: thứ tự thời gian Để lựa chọn đúng đắn dạng của phương trình hồi quy đòi hỏi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm sự biến động của hiện tương qua thời gian ,đồng thời kết hợp với một số phương pháp đơn giản khác(nhưdựa vào đồ thị , dựa vào độ tăng giảm tuyệt đối ,dựa vào tốc độ phát triển …). Các tham số (i=1,n) thường được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Tức là: =min Sau đây là một số phương trình hồi quy đơn giản thường được sử dụng: Hàm tuyến tính : =: Hàm tuyến tính được sử dụng khi các lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (gọi là sai phân bậc 1) xấp xỉ nhau. áp dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất sẽ có hệ phương trình sau để xác định giá trị tham số : -Phương trình parabol bậc 2: Phương trình parabol bậc 2 được sử dụng khi các sai phân bậc hai (tức là sai phân của sai phân bậc 1) xấp xỉ nhau. Các tham số được xác định bởi hệ phương trình sau: -Phương trình hàm mũ : Phương trình này được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau. Các tham số được xác định bởi hệ phương trình sauđây: 2.4 Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ Sự biến động của một số hiện tượng kinh tế – xã hội thường có tính thời vụ nghĩa là hàng năm, trong từng thời gian nhất định ,sự biến động lặp đi lặp lại .Ví dụ :các sản phẩp của ngành nông nghiệp phụ thuộc vào từng mùa vụ .Nguyên nhân gây ra biến động thời vụ là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và phong tục, tập quán sinh hoạt của dân cư. Biến động thời vụ làm cho hoạt động của một số ngành khi thì tăng khẩn trương;lúc thì nhàn rỗi,bị thu hẹp lại. Nghiên cứu biến động thời vụ nhằm đề ra những chủ trương biện pháp phù hợp,kịp thời, hạn chế những ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Nhiệm vụ nghiên cứu thống kê là dựa vào số liệu của nhiều năm(ít nhất là 3 năm) để xác định tính chất và mức độ của biến động thời vụ. Phưong pháp thường được sử dụng là tính các chỉ số thời vụ. Để nghiên cứu biến động thời vụ có một số phương pháp sau: - Chỉ số thời vụ: Được sử dụngtrong trường hợp biến động thời vụ qua những thời gian nhất định của các năm tương đối ổn định. Chỉ số thời vụ được tính theo công thức sau. Trong đó : : Chỉ số thời vụ của thời gian t. : Số trung bình các mức độ của các thời gian cùng tên i. : Số trung bình của tất cả các mức độ trong dãy số. - Sự biến động thời vụ tăng, giảm rõ rệt qua thời gian thì chỉ số biến động được tính theo công thức sau: Trong đó : :Mức độ thực tế ở thời gian i của năm j . :Mức độ tính toán(có thể là số trung bình trượt hoăc dựa vào phương trình hồi quy ở thời gian i của năm thứ j ). 3 .Các phương pháp dự báo Dự đoán thống kê là dựa vào những thông tin về mức độ hoặc trạng thái của hiện tượng trong tương lai. 3.1 Dự đoán dựa vào phương trình hồi quy Ta có phương trình hồi quy theo thời gian: Có thể tiến hành dự đoán bằng cách ngoại suy phương trình hồi quy: Trong đó: (h=1,n) Mức độ dự đoán ở thời gian (t+h). 3.2 Dự đoán dựa vào lượng tăng(hoặc giảm)tuyệt đốibình quân Phương pháp này có thể được sử dụng khi các lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn xấp xỉ nhau. Ta có lượng tăng (hoặc giảm )tuyệt đối bình quân được tính theocôngthứcsau: Từ đó ta có mô hình dự đoán: Trong đó : mức độ cuối cùng của dãy số thời gian 3.3 Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển trung bình Phương pháp dự đoán này được áp dụng khi các tốc độ phát triểnliên hoàn xấp xỉ nhau. Tốc độ trung bình được tính theo công thức sau: Trong đó: :Mức độ cuối cùng của dãy số thời gian. :Mức độ đầu tiên của dãy sốthời gian. Từ công thức trên , có mô hình dự đoán như sau: 3.4 Dự đoán dựa vào hàm xu thế Tìm hàm xu thế tốt nhất tức có (SE= min) Trong đó : n: số lượmg mức độ của dãy số. p: số lượng tham số trong mô hình . SSE: phương sai của phần dư. 3.5 Dự đoán dựa vào san bằng mũ Trong mô hình dự đoán thống kê ngắn hạn: Khi xây dựng các mô hình dự đoán thì các mức độ của dãy số thời gian được xem như nhau, nghĩa là có quyền số trong tính toán. Do đó làm cho mô hình chở nên cứng nhắc, kém nhạy bén đối với sự biến động của hiện tượng. Do đó khi xây dựng mô hình dự đoán, các mức độ của dãy số thời gian phải được xem một cách không như nhau. Các mức độ càng mới càng cần phải chú ý nhiều hơn. * Mô hình giản đơn. Giả sử ở thời gian t, có mức độ thực tế là và mức độ dự đoán là dự đoán mức độ của hiện tượng ở thời gian tiếp sau đó có thể viết: (1) Đặt = ta có (2) được gọi là các tham số san bằng với và nằm trong khoảng (0;1] . Như vậy, mức độ dự đoán là trung bình cộng gia quyền của các mức độ thực tế và mức độ dự đoán . Tương tự , ta có : thay vào công thức (2)ta có: Tiếp tục thay các mức độ dự đoán vào công thức trên ta có: (3) Vì nên khi thì và Khi đó : (4) Như vậy là tổng tất cả các mức độ của dãy số thời gian tính theo quyền số, trong đó các quyền số giảm theo dạng mũ tuỳ thuộc vào mức độ cũ của dãy số. Công thức (1)có thể viết Nếu là sai số dự đoán ở thời gian t thì. (5) Từ các công thức (1),(2),(3),(4),(5) cho thấyviệc lựa chọn có ý nghĩa quan trọng. Nếucàng lớn thì các mức độ mới trong dãy số càng được chú ý và ngược lại .tốt nhất khi nó làm cho SSE min. * Mô hình xu thế tuyến tính. Mô hình: (6) Trong đó : với Để tính toán theo (6)thì trước tiên phải chọn giá trị ban đầu và các tham số . *Xu thế tuyến tính kết hợp với biến động thời vụ -kết hợp nhân: Mô hình : Trong đó: :dùng của mô hình của chương dãy số thời gian k: tháng,quý -Kết hợp cộng : Mô hình : 3.6 Dự đoán dựa vào mô hình tuyến tính ngẫu nhiên (phương pháp Box – Jenkins) Quá trình ngẫu nhiên là một tập hợp các giá trị của biến ngẫu nhiên xuất hiện qua thời gian và tuân theo một quy luật phân phối xác suất nào đó. Trong quá trình đó quan trọng là quá trình ngẫu nhiên dừng. Một quá trình ngẫu nhiên được gọi là dừng nếu quy luật phân phối của ,cũng là quy luật phân phối của . Giả sử có quá trình ngẫu nhiên dừng: Với kỳ vọng: E[]=M Phương sai: Var[]=E[( Hàm tự hiệp phương sai: =Cov[=E[( Với k= 0,1,2,3,… Hàm tự tương quan: Với k= 0,1,2,3,… Trong thực tế ta chỉ có dãy số thời gian Do đó ta phải ước lượng vàquavà: với *Các toán tử thường sử dụng: B : Toán tử dịch chuyể về phía trước ẹ:Toán tử sai phân ẹ ẹ== ẹ *Một số mô hình dừng: Quá trình tự hồi quy bậc p – Ký hiệu AR(p). Trong đó: : Các tham số hồi quy . :Là một quá trình dừng đặc biệt đơn giản và được gọi là quá trình thuần khiết hay tạp âm trắng với: E[=0 Var[ Cov[ Biểu diễn qua toán tử B: Hàm tự tương quan: Hay: Một số quá trình AR đơn giản: Quá trình bậc 1 :AR(1) hàm tự tương quan: k=1 Qúa trình bậc 2:AR(2) Hàm tự tương quan: Với Quá trình bình quân trượt bậc q – ký hiệu MA(q): Trong đó : là các tham số Biểu diễn qua toán tử B: Hay Hàm tự tương quan:= (k=1,q) Một số quá trình MA đơn giản: Qúa trình bậc 1:MA(1) Hàm tự tương quan: Quá trình bậc 2: MA(2) = Hàm tự tương quan: với k3 Quá trình tự hồi quybình quân trượt bậc p , q – ký hiệu ARMA(p,q). Đó là sự kết hợp giữa AR(p)và MA(q). Hay Trong thực tế phần lớn các quá trình ngẫu nhiên là không dừng ,do đó người ta sử dụng toán tử sai phân để chuyển về quá trình dừng .Khi đó ta có: ẹ= Hay: ẹ Một vài mô hình đơn giản : ARIMA(1,1,1): ẹẹ ARIMA(0,1,1): ẹ ARIMA(0.2,2): ẹ Mô hình biến động thời vụ. Có dãy số có biến động thời vụ chúng ta phải khử biến động thời vụ thông qua toán tử thông thường với s=4 theo tài liệu quýlà s =12 với tài liệu là tháng. Sau khi biến động thời vụvẫn còn xu thế thì phải khử tiễp xu thế tức có xu thế. Khử xu thế bằng toán tử ẹ thì là dừng. Nếu khử hết biến động thời vụ và xu thế thì xây dựng ARMA(p,q) theo . Tất cả biến động thời vụ và xu thế trở thành ARMA(p,q)theo gọi là ARMA(p,d,q) của dãy. * Phương pháp Box – Jenkins. Phương pháp Box – Jenkins dùng để lựa chọn mô hình tốt nhất để dự đoán được thực hiện qua các bước sau. Bước 1: Chọn mô hình tốt nhất (trong thực tế thì mô hình tốt nhất là mô hình có SE min) .Khử biến động thời vụ và xu thế nếu có để đưa về dãy để xây dựng ARMA(p,q) cho, cho bậc p , q. p=(0,1,2,3) q=(0,1,2,2) Ta chọn tổ hợp (p,q) Về mặt lý thuyết để chọn bậc thì Jenkinscos dựa vào tự tương quan riêng phần để từ đó chọn bậc (p,q) cho phù hợp trong thực tế việc này phức tạp tachỉ chọn một số tổ hợp (p,q) cho SE min thì ta chọn tổ hợp đó làm bài tốt nhất. Bước 2: Ước lượng các than số của mô hình đã chọn trước hết là ước lượng sơ bộ dựa vào các công thức để xác định hàm tự tương quan trong đó ta thay bằng . Ví dụ : Đối với AR gọi là ước lượng của Đối với AR(1): Đối với AR(2): Đối với MA gọi là ước lượng của Đối với MA(1): Đối với MA(2): Trên cơ sở các ước lượng sơ bộ các tham số t ngưòi ta sẽ dùng các phưong pháp để đi đến ước lượngtốt cho SE min. Bước3: Kiểm tra các giá trị của mô hình đã được xác định và dự đoán. +Kiểm tra mô hình:kiểm tra cáctham số Của mô hình phải khác không nếu nó bằng không phải loại bỏ mô hình +Dự đoán:sau khi kiểm tra mô hình đựoc xác định thì đựoc dự đoán . Nếu gọi là dự đoán của t=1,2,3,…,T l=1,2,3…tầm dự báo thì ta có Trong đó là dãy số thời gian +Các kỳ vọng được hình thành theo nguyên tắc: E E E E[ chương II: tổng quan tình hình dân số và nhà ở bắc ninh qua cuộc tổng điều tra dân số 1/4/1999 Bắc Ninh quê hương của làn điệu dân ca “Quan họ” nằm trong khu vực tam giác Kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, là vùng đất chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi. Bắc Ninh còn là cửa ngõ phía bắc của thủ đô Hà Nội, nơi có nhiều đườn quốc lộ và con sông lớn chảy qua. Với vị trí thuận lợi này, nó luôn luôn là tiềm năng phát triển kinh tế xã hội cho tỉnh Bắc Ninh. Do đựơc thiên nhiên ưu đãi về nhiều yếu tố, nên diện tích tự nhiên nhỏ trong cả nước (804 Km2), nhưng dân cư tập trung lên tới gần một triệu người. Không chỉ có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tỉnh Bắc Ninh còn là vùng đất giàu văn hiến và cách mạng. Trong trang lịch sử vàng của dân tộc còn ghi: Công lao của vua Lý Thái Tổ người tên hiệu Thăng Long - Hà Nôi là “Thượng đô của kinh sư muôn đời”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Lý Thường Kiệt vang lên bên chiến tuyến Sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Những lãnh tụ đầu tiên của Đảng ta là Nguyễn Văn Cừ, Ngô Tự và Hoàng Quốc Việt. Hơn thế nữa, dân trí nhân dân của tỉnh Bắc Ninh cao, người dân có đặc điểm năng động, thông minh và chăm chỉ. Đây chính là động lực để tỉnh Bắc Ninh cùng cả nước vững bước đi trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Nhìn lại một chặng đường đã qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã từng bước đi lên và tự khẳng định mình trên quê hương “Quan họ” trong việc phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân. Thắng lợi có ý nghĩa tổng quan nhất là kinh tế của tỉnh Bắc Ninh phát triển với tốc độ cao và khá bền vững. Tổng sản phẩm tạo ra hàng năm tăng liên tục, bình quân trong 4 năm qua mỗi năm tăng 12,4%. Đặc biệt là hai năm cuối của nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV có tốc độ tăng trưởng kinh tế đột biến, tương ứng là 15,5% và cơ cấu kinh tế đã đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hóa, từng bước nâng cao hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh. Tổng sản phẩm, nếu năm 1996 tỷ trọng nông nghiệp chiếm 46%, công nghiệp xây dựng là 24,1%, còn dịch vụ là 29,9%, thì đến năm 2000 nông nghiệp tỷ trọng giảm còn 37,2%. Đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và năng lên. Tổng sản phẩm bình quân đầu người năm 1996 là 256 USD, đến năm 2000 là 398 USD. Đạt được những thành tựu kinh tế -xã hội to lớn này có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân quan trọng là hiệu quả của việc tổ chức thực hiện chương trình Dân số-Kế hoạch hoá gia đình theo Nghị quyết của ban chấp hành Trung ương 4-khoá VII và Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV. Kết quả lớn nhất là mức sinh giảm nhanh, tốc độ tăng dân số chậm lại. Thời kỳ 1989-1999 có tốc độ tăng dân số bình quân mỗi năm là 1,6%.Tỷ lệ sinh đã giảm từ 23,9% năm 1992 xuống còn 17,2% năm 2000. Cũng tương tự với năm đó, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 25,2% xuống còn 15,5%. Thực trạng dân số và nhà ở tỉnh Bắc Ninh năm 1999 được khái quát thông qua hệ thống các chỉ tiêu dân số và nhà ở như sau: 1/Quy mô, cơ cấu và phân bố dân số: Tại thời điểm 0 giờ, ngày 1/4/1999 dân số của tỉnh Bắc Ninh là 942.106 người (chiếm 1,2% dân số cả nước). Tính từ cuộc tổng điều tra dân số lần trước 1/4/1989, số dân tăng thêm 137.902 người. Như vậy, mặc dù đã đạt được những thành tựu lớn trong chiến lược dân số KHHGĐ, song sau 10 năm, số dân tăng lên của tỉnh Bắc Ninh đã tương ứng với số dân của một huyện trung bình. Tỷ suất tăng dân số bình quân của thời kỳ 1989-1999 là 1,6%, giảm 5% với tốc độ tăng dân số của 10 năm trước đó. Tỷ suất sinh thô, tỷ suất chết thô và tỷ suất chết sơ sinh tính cho 12 tháng trước tổng điều tra tương ứng là 18,49% và 30,9%. Tỷ suất tăng tự nhiên là 13,1%. Tương tự như tỷ suất tăng dân số, các tỷ suất sinh, tỷ suất chết và tỷ suất tăng tự nhiên dân số đều giảm nhanh ở tất cả các huyện và trên phạm vi toàn tỉnh trong 10 năm qua. Bắc Ninh là tỉnh “đất chật người đông” nên vấn đề di dân tự do tất yếu xảy ra thường xuyên. Hiện tượng di dân theo mô hình nông thôn tỉnh Bắc Ninh - nông thôn các tỉnh miền núi phía Nam, nông thôn, thành thị. Mục đích của việc di dân tự do là nhằm cải thiện đời sống. Tỷ suất nhập cư từ tỉnh khác là 14,9%, tỷ suất xuất cư đi tỉnh khác là 34,5%. Hiện tượng số người ra đi khỏi tỉnh Bắc Ninh lớn hơn số người từ tỉnh khác đến tỉnh Bắc Ninh đang có xu hướng ngày càng tăng. Dân số biến động hình thành nên nhiều thị xã, thị trấn và thị tứ, đồng thời tạo ra sự phân bố lại dân số cũng tăng từ 1000 Người/Km2 năm 1989 lên 1172 Người/Km2 năm 1999. Mật độ dân số Bắc Ninh thuộc loại cao trong cả nước, đứng thứ 3 trong khu vực đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 4 trong cả nước. Dân số tập trung quá cao ở thị xã Bắc Ninh và các thị trấn, mật độ lên tới gần 3000 người/Km2, còn ở khu vực nông thôn là trên 1100 người/Km2. Về cơ cấu dân số Bắc Ninh, theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999 thì tỷ trọng dân số thành thị chiếm 9,23% trong tổng dân số (Năm 1989 mới chỉ là 4,56%). Tỷ trọng dân số ở khu vực nông thôn ngày càng giảm do quá trình đô thị hoá (Xây dựng thị xã tỉnh lỵ, phát triển thị trấn). Nếu năm 1989 tỷ trọng dân số ở khu vực nông thôn là 95,46% thì sau 10 năm chỉ còn 90,77%. Cơ cấu dân số theo giới tính cũng có biến động nhẹ, năm 1989 nữ chiếm 51,4%, thì năm 1999 tỷ lệ này tương ứng là 51,5%. Dân số, phân bổ dân số và cơ cấu dân số theo giới tính n ăm 1999 Đơn vị tính: Người Huyện thị xã Dân số Chia ra Chia ra Nam Nữ Thành thị Nông thôn Tổng số 942106 453992 485114 86961 855145 Thị xã Bắc Ninh 74186 36143 38043 37226 36960 Huyện Yên Phong 139252 67797 71455 12387 126865 Huyện Quế Võ 148429 72029 76400 5228 143201 Huyện Tiên Du 125982 61181 64801 9923 116059 Huỵên Từ Sơn 115630 57434 58196 3096 112534 Huyện Thuận Thành 137086 65880 71206 10642 126444 Huyện Lương Tài 101754 48969 52785 8459 93295 Huyên Gia Bình 99787 47559 52228 0 99787 Đối với nhóm tuổi sinh, tỷ lệ giới tính đạt 106 nam/100 nữ. Do mức tử vong của nam cao hơn nữ, nên tỷ số này giảm dần qua các độ tuổi và đạt giá trị thấp nhất ở nhóm tuổi từ 65 tuổi trở lên. Do mức sinh giảm nhanh, trong khi tuổi thọ ngày càng tăng, dân số Bắc Ninh cũng cùng quy luật chung của cả nước, có xu hướng lão hoá với tỷ trọng người già (từ 60 tuổi trở lên) ngày càng tăng (từ 7,3% năm 1989 lên 8,5% năm 1999) và tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi ngày càng giảm (từ 40,4% năm 1989 xuống còn 33,6% năm 1999) 2.Dân số chia theo dân tộc và tôn giáo: Dân tộc Kinh hiện đang cư trú trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là đông nhất, chiếm 99,8%. Cùng chung sống còn có một số dân tộc ít người đó là Tày, Nùng, Mùng … Bắc Ninh là một trong những cái nôi của phật giáo. Toàn tỉnh có 34335 người có tín ngưỡng tôn giáo, chiếm 3,60% dân số. Trong những người có tín ngưỡng thì nhiều nhất là phật giáo chiếm 72,9% và được phân bố đều ở klhắp nơi. Công giáo chiếm 27,1% tập trung chủ yếu ở Gia Bình, Lương Tài và Thị xã Bắc Ninh. 3.Trình độ học vấn của dân số: Nghiên cứu tỷ lệ biết đọc và biết viết đối với dân số từ 10 tuổi trở lên cho thấy, tỷ lệ này đã tăng từ 17,4% năm 1989 lên 94,6% năm 1999. Mặc dù trong 10 năm qua tỷ lệ biết đọc biết viết của nữ đã được cai thiện tăng lên đáng kể so với nam, song chênh lệch giữa nam và nữ về tình trạng biết đọc biết viết vẫn còn tương đối cao. Năm 1999 tỷ lệ biết đọc biết viết của nữ là 91,6%, thấp hơn 6,3 so với nam. Căn cứ phân tổ tỷ lệ biết đọc, biết viết theo nhóm tuổi cho thấy tình hình giáo dục của tỉnh Bắc Ninh đã được cải thiện và nâng lên rõ rệt qua từng giai đoạn : Chỉ có 76,1% ở số người từ 50 tuổi trở lên biết đọc, biết viết, tỷ lệ này tăng dần qua các thế hệ trẻ hơn và đạt mức cao nhất (99,04%) ở nhóm tuổi 10-14. Khi nghiên cứu tỷ lệ biết đọc, biết viết theo giới tính và độ tuổi còn phát hiện : Đối với những người trên 50 tuổi, tỷ lệ của nữ thấp hơn rất nhiều so với nam giới. Nhưng càng ở các nhóm tuổi trẻ thì tỷ lệ biết đọc biết viết của nữ tăng lên rõ rệt và đến các nhóm tuổi thanh niên (dưới 29 tuổi) thì tỷ lệ này của nam và nữ xấp xỉ nhau. Điều này chứng tỏ quyền bình đẳng giưa thành thị và nông thôn về tỷ lệ biết đọc, biết viết không lớn, thành thị 96,3% và nông thôn 94,5%. Số người từ 5 tuổi trở lên đã được hoặc đang đi học đạt 91%. So với kết quả tổng điều tra dân số 1/4/1989, số người đi học đã tăng nhanh ở tất cả các nhóm tuổi. Tương tự, số người từ 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đi học cũng giảm mạnh còn 6%. Năm 1999 còn 22464 cháu ở nhóm tuổi 5 đến 9 chưa đến trường. Bên cạnh những thành tựu giáo dục đạt được, nhất là tỷ lệ huy động học sinh đến trường trong 10 năm qua, nhưng vẫn còn 4,7%, số người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong đó 5,4% hoàn toàn chưa biết chữ Tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thành phổ cập tiểu học vào năm 1991 và đang tiến hành thực hiện phổ cập Trung học cơ sở. Tỷ trọng học sinh đang theo học phổ thông giảm dần theo cấp học : 51,4% tiểu học ; 35,0% trung học cơ sở và 13,6% phổ thông trung học. Dân số 5 tuổi trở lên có trình độ văn hóa phổ thông chia theo tình trạng đi học Cấp học đang đi học phổ thông đã thổi học phổ thông Số người (Người) Tỷ trọng (%) Số người (Người) Tỷ trọng (%) Tổng số 241567 100,0 534257 100,0 -Tiểu học 124121 51,4 118119 22,1 -Trung học 84504 35,0 334652 62,6 -Phổ thông trung học 32846 13,6 81410 15,2 Số năm học trung bình của mỗi người dân Bắc Ninh là 7,4 (Hà Nội là 8,98, Thành phố Hồ Chí Minh là 7,56). Như vậy sau 10 năm số năm học trung bình của người dân Bắc Ninh thêm được một năm. 4.Trình độ chuyên môn kỹ thuật của dân số. Bắc Ninh là tỉnh gần thủ đô Hà Nội, ngoài màng lưới đào tạo nghề của tỉnh ra, Bắc Ninh còn được hưởng lợi trong việc phát triển nguồn lực từ mạng lưới đào tạo nghề của thủ đô Hà Nội vào loại bậc nhất cả nước. Chất lượng nguồn lực lao động của tỉnh Bắc Ninh ngày một cải thiện và nâng lên. Nhận định này đã được thể hiện rõ nét qua số liệu tổng điều tra dân số 1/4/1999 là 7,4% số dân từ 13 tuổi trở lên đạt được một trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó (đã trừ một số công nhân kỹ thuật không có bằng cấp), trong đó 2,2% có trình độ trên đại học. Dân số chia theo trình độ chuyên mô kỹ thuật Công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ 2,2% Cao đẳng 0,85% Không có trình độ CMKT 92,85% Đại học 1,18% Trên đại học 0,02% Trong tổng số người từ 13 tuổi trở lên, số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 7,4%. Nhưng người có trình độ từ trung học chuyên nghiệp trở xuống ở khu vực thành thị cao hơn ở khu vực nông thôn. Nhưng từ trình độ cao đẳng trở lên thì thành thị cao hơn rất nhiều so với nông thôn. Cũng giống như học vấn cơ cấu giới tính và độ tuổi về chuyên môn kỹ thuật tương ứng nhau. Với tỷ lệ 7,4% dân số 13 tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật đã phản ánh chất lượng đội ngũ lao động xã hội của tỉnh Bắc Ninh thấp ( cả nước là 7,6%). Đây chính là một trở ngại lớn ảnh hưởng đến sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá tỉnh Bắc Ninh, mục tiêu đến năm 2015 đạt tiêu chuẩn là tỉnh công nghiệp. 5.Nguồn nhân lực: Đối với dân số 13 tuổi trở lên, căn cứ vào loại hoạt động trong 12 tháng trước thời điểm tổng điều tra phân ra 2 nhóm: Dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người làm việc và những người không làm việc nhưng có nhu cầu việc làm( gọi là thất nghiệp). Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người làm nội trợ, đang đi học, mất khả năng lao động, không làm việc nhưng không có nhu cầu làm việc. Kết quả điều tra cho thấy có 487167 người hoạt động kinh tế chiếm 72,6% số người từ 13 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế và không hoạt động kinh tế. Trong đó, nam là 228144 người (chiếm 46,8%, có 24189 người làm nội trợ chiếm 3,6% và có 14015 người mất khả năng lao động (chiếm 2,1%), còn lại là 52828 người (chiếm 8%) không có nhu cầu làm việc. Sau 10 năm, trong khi quy mô của nhóm mất khả năng lao động giảm đi nhiều thì ba nhóm còn lại đều tăng mạnh nhất là nhóm học sinh (tăng 6,1%). Có sự khác biệt đáng kể theo giới tính trong nhóm không lao động kinh tế . Trong số những người từ 13 tuổi trở lên, tỷ trọng nam học sinh là 17,2%, tỷ trọng nữ học sinh là 10,6%. Cũng giống như chung cả nước, công việc nội trợ truyền thống vân của nữ giới, tỷ trọng nữ giới làm công việc này gấp 3 lần nam giới. Trong cả hai nhóm mất khả năng lao động và không có nhu cầu việc làm, tỷ trọng nam giới điều cao hơn đáng kể so với nữ giới. Sau 15 năm nước ta chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường, phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần đã tạo ra sự thay đổi nhanh chóng về cơ cấu kinh tế. So với số liệu của các cuộc điều tra dân số 1979, 1989, lao động trong các khu vực nhà nước liên tục giảm xuống 7,1% năm 1989 và chỉ còn 6,4% năm 1999. Đồng thời lao động của thành phần kinh tế tập thể cũng giảm nhanh, từ 88,1% năm 1989 và 1999 chỉ còn 75,4%. Các thành phần kinh tế khác trong đó chủ yếu là kinh tế cá thể, phát triển nhanh chóng và trở thành khu vực có quy mô lao động lớn nhất (chiếm 17,5%), khu vực kinh tế tư nhân, hỗn hợp và 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc57.doc