Đề án Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU

Từ thực trạng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU chúng ta có thể nhận thấy nhiều điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu của ngành công nghiệp nhẹ này

Đầu tiên phải nói đến sự tăng trưởng vượt bậc về năng lực sản xuất của ngành trong những năm qua. Số lượng giày dép sản xuất ra năm sau tăng hơn năm trước, không những đáp ứng nhu cầu nội địa mà phần lớn dành cho xuất khẩu. Công suất hoạt động các dây chuyền sản xuất của ngành tăng lên, đơn đặt hàng nhiều hơn, sản phẩm ngày càng đạt chất lượng cao hơn đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng, giá bán giày dép và giá gia công đã được cải thiện trên thị trường thế giới.

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2416 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hập khẩu và xuất khẩu của EU giảm, kinh doanh kém đi trong giai đoạn cuối năm 1998 đầu năm 1999. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng tốt, nhu cầu lớn bên trong EU (đặc biệt là tiêu dùng cá nhân)và sự phục hồi từng bước của các nước Đông Nam á đã thúc đẩy tăng trưởng trở lại và đạt mức 2, 6% năm 1999 và lên 3, 32% vào năm 2000 EU là một khu vực có hoạt động ngoại thương rất phát triển. Năm 2000 kim ngạch xuất nhập khẩu của EU chiếm 44, 9% kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới (gồm cả thương mại trong EU), chỉ tính riêng kim ngạch xuất nhập khẩu bên ngoài EU chiếm tới hơn 20% kim ngạch thương mại toàn cầu. Nếu không tính đến giao dịch thương mại trong thị trường thống nhất thì EU đứng sau Mỹ về nhập khẩu. Năm 2000, EU nhập khẩu 779, 1 tỷ Euro, Mỹ nhập khẩu 983, 7 tỷ Euro, Nhật Bản nhập khẩu có 291, 5 tỷ Euro. EU là khu vực luôn có xu hướng nhập khẩu cao trên thế giới, ngay trong thập niên 90 trung bình kim ngạch nhập khẩu của EU đạt 1797 tỷ USD (60% trong khu vực và 40 % ngoài khu vực). Đặc biệt là trong những năm gần đây EU đã có những chiến lược kinh tế hướng về châu á, trong đó có sự phát triển không ngừng về thương mại. Cơ cấu kinh tế của các nước thành viên EU và các quốc gia đang phát triển ở châu á như Việt Nam hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Vịêt Nam là những mặt hàng EU có nhu cầu nhập khẩu lớn như giày dép. . . và ngược lại. Bên cạnh đó còn phải tính đến sự xuất hiện của đồng tiền chung Euro sẽ càng tăng thêm sức mạnh về kinh tế và chính trị cho Liên minh này. Đây là cơ hội tốt cho các nhà xuất khẩu Việt Nam _những người còn ngần ngại trong việc khai phá và phát triển các thị trường như Ailen, Hi Lạp, Bồ Đào Nha, Lucxămbua do những khó khăn về đồng tiền thanh toán. Từ nay với một đồng tiền Euro duy nhất họ có thể chào hàng đến tất cả các nước trong khu vực. Đồng tiền này sẽ tháo gỡ những vướng mắc trong vấn đề thanh toán. Hơn nữa thị trường EU được kiện toàn sẽ giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam mở rộng xuất khẩu sang các nước thành viên hiện còn ít giao lưu thương mại vì một sản phẩm Việt Nam được biết đến thì cũng dễ được những nước còn lại biết đến và chấp nhận mà không tốn thêm chi phí tiếp thị, quảng cáo. Phần II :Thực trạng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU 1. Khái quát chung về hàng giày dép Việt Nam Trước năm 1992, ngành giày dép Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh doanh gia công mũ giày cho Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Khi khối này tan rã, ngành giày dép đã phải trải qua thời kỳ khó khăn do thiếu thị trường, thiếu đơn đặt hàng. Tuy nhiên giai đoạn này kéo dài không lâu. Bắt đầu từ năm 1993, ngành giày dép đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động từ các nước phát triển và các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển. Ngành giày dép Việt Nam đã bắt đầu tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt từ các nước NIEs trong khu vực. Cùng với nó là các đơn đặt hàng chuyển dịch từ những nước có truyền thống về sản xuất giày dép như Đài Loan, Hàn Quốc sang Việt Nam. Hiện nay có 233 doanh nghiệp hoạt động trong ngành giày dép, tính đến cuối năm 1999 đã đầu tư hơn 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại giày dép, xây mới và sửa chữa nhiều nhà xưởng. Ngành đã thu hút gần 400 000 lao động tham gia sản xuất, năng lực sản xuất toàn ngành ngày càng được nâng cao và hiện nay đạt được hơn 360 triệu đôi / năm. Sau những khó khăn do mất thị trường truyền thống của những năm 88_90, xuất khẩu giày dép đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của ngành giày dép Việt Nam hiện nay là EU. Mỹ và Nhật Bản là hai thị trường đứng sau EU về mức nhập khẩu giày dép của Việt Nam. Xét về khả năng cạnh tranh với hàng ngoại, sản phẩm giày dép Việt Nam đạt loại trung bình, tương đương với sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Indonesia, Philipine nhưng thấp hơn hàng Trung Quốc với mức giá lại cao hơn Về cơ bản, có thể nói ngành giày dép Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng mạnh và trở thành nước xuất khẩu giày dép lớn của châu á cũng như trên thế giới. 2. Thực trạng xuất khẩu 2. 1. Kim ngạch xuất khẩu Chính từ sự đầu tư, đổi mới dây chuyền sản xuất, năng lực sản xuất ngành giày dép đã tăng lên nhanh chóng. Chỉ tính trong khoảng thời gian 1997 _2000 sản xuất chung tăng 206 triệu đôi lên đến 303 triệu đôi và chỉ số trung bình phát triển hàng năm trong giai đoạn này là 14%. Nếu từ năm 1991 trở về trước hầu như chỉ tiêu thụ nội địa, không có xuất khẩu, thì đến năm 1992 đã xuất khẩu được 5 triệu USD và tăng liên tục với tốc độ cao trong những năm sau đó cho đến nay. Năm 2001 so với năm 1992_ tức là sau 9 năm _kim ngạch xuất khẩu giày dép đã tăng 312 lần, bình quân 1 năm tăng trưởng tới 89, 3 % và hiện nay đứng thứ 4 trong các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam từ chỗ không có gì, sau 10 năm phát triển đã vươn lên hàng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hông Cong và Italia. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu giày dép thì tăng cao và tăng đều qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu thực thu lại thì không nhiều do chúng ta chủ yếu làm gia công cho các công ty giày dép nước ngoài, chiếm tới 80 % kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Hướng về những mục tiêu trong tương lai, năm 2003 mục tiêu kim ngạch xuất khẩu của ngành giày dép là hơn 2 tỷ USD ;dự kiến năm 2005 sản xuất 390 triệu đôi giày dép, xuất khẩu đạt trị giá 2, 5 tỷ USD, năm 2010 sản xuất 620 triệu đôi giày dép, xuất khẩu đạt trị giá khoảng 5_5, 2 tỷ USD. Hiện nay đồng Euro có xu hướng tăng giá so với đồng USD nên rất thuận lợi cho việc xuất khẩu giày dép sang EU. Tuy vậy sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các sản phẩm của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới số lượng giày dép xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU và tất yếu sẽ ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu dự kiến của ngành trong thời gian tới. Bên cạnh đó cũng không nên trông chờ vào sự vươn mình mạnh mẽ của kinh tế châu Âu nhằm tăng sức mua. Do đó, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam nói chung và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU nói riêng có thể tăng như dự kiến nhưng tốc độ tăng sẽ giảm so với những năm trước. 2. 2. Mặt hàng xuất khẩu Nhiều năm qua ngành giày dép đã cố gắng để bảo đảm sự ổn định sản xuất và tăng trưởng xuất khẩu. Từ chỗ chỉ làm gia công các chi tiết không tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh đã chuyển sang sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Ba mặt hàng chính là giày thể thao, giày nữ, giày vải chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu giày dép, trong đó chủ yếu là giày thể thao chiếm hơn 60%, giày nữ chiếm 14% giày vải chiếm 11%. Các dây chuyền sản xuất giày thể thao đã có đơn đặt hàng đều hơn và khai thác từ 70_75 % công suất, sản phẩm ngày càng có chất lượng cao. Số đơn đặt hàng ngày càng tăng ở các cơ sở sản xuất đế giày, bồi vải, sản xuất khuôn mẫu cũng như các nguyên vật liệu khác. Giá gia công và giá bán giày trên thế giới tăng khoảng 5% tuy vậy vẫn chưa được cải thiện nhiều. Các chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất giày dép còn cao, chênh lệch giá lao động của Việt Nam cũng không còn nhiều lợi thế so với khu vực đã đẩy chi phí sản xuất 1 đôi giày của Việt Nam là 5_6 USD / 1 đôi trong khi đó của Trung Quốc là 2_3 USD / 1 đôi. Thông thường giá bán hàng của Trung Quốc nhập khẩu thấp hơn 20_50% hàng của Việt Nam cùng loại (Theo thống kê năm 2000, giá nhân công Việt Nam là 0, 35 USD /giờ, còn Trung Quốc là 0, 48 USD /giờ). Bên cạnh đó cần phải nhìn nhận sản phẩm của ta còn kém về chất lượng, yếu về mẫu mã, chủng loại hơn nhiếu so với sản phẩm của Trung Quốc , do đó Trung Quốc là một đối thủ nặng kí của giày dép Việt Nam trên thị trường EU. 2. 3. Thị trường xuất khẩu Những năm đầu thập kỷ 90, Liên Xô và Đông Âu tan rã, hầu hết các hàng hoá của Việt Nam mất bạn hàng truyền thống trong đó có sản phẩm giày dép. Vượt qua thời kỳ khó khăn nhất do không có thị trường giày dép Việt Nam đã có những hướng đi mới đến với những thị trường mới. Năm 2000, giày dép của chúng ta đã đi đến 129 nước và lãnh thổ trong đó có 48 quốc gia và lãnh thổ đạt hơn 1, 2 triệu USD, 18 thị trường đạt trên 10 triệu USD trong đó đứng đầu là Anh 220 triệu USD, Đức 210, 6 triệu USD, Bỉ 155, 4 triệu USD, Pháp 139, 6 triệu USD, Hà Lan 133 triệu USD, Italia 86, 5 triệu USD, . . . Xét theo khu vực, EU là thị trường lớn nhất, năm 2001 đã chiếm tới 82 % kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam. Sang năm 2002 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này là gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành giày dép và tương ứng với 7, 2 % thị phần nhập khẩu giày dép của EU. EUlà thị trường chính cho giày dép xuất khẩu của Việt Nam nhưng trên thị trường EU sản phẩm giày dép Trung Quốc chiếm một vị trí hơn hẳn Việt Nam. Không chỉ hơn về thị phần Trung Quốc là 7, 8% so với Việt Nam là 7, 2% mà sản phẩm của Trung Quốc còn đáp ứng được những nhu cầu tiêu dùng người dân EU. EU là thị trường rộng lớn, thống nhất với 15 quốc gia, dân số là và sức mua lớn, mỗi năm có nhu cầu nhập khẩu hơn 800 triệu đôi giày dép, người dân EU có mức sống cao nên giá cả không là vấn đề cạnh tranh chính, chất lượng cũng không là mối quan tâm hàng đầu mà đó là mẫu mã, chủng loại, tính thời trang của sản phẩm. Sản phẩm của Trung Quốc đã đáp ứng đầy đủ những yếu tố cạnh tranh đó và giày dép của Việt Nam đứng trước nhiều thách thức không nhỏ để giữ được vị trí xuất khẩu sang thị trường EU. Nhất là sau 11/12/2001 sau khi Trung Quốc chính thức gia nhập WTO tạo cơ hội và thuận lợi cho hàng hoá Trung Quốc tràn ngập thị trường EU. Còn Việt Nam phải tính đến thời điểm sau 31/12/2004 không còn những ưu đãi về thuế đối với giày dép của ta. Khi đó giá cả giày dép đã cao hơn của Trung Quốc sẽ lại càng cao hơn, mà chất lượng, mẫu mã chưa cải tiến kịp thời, chắc chắn thị phần EU của Việt Nam sẽ bị thu hẹp dần nếu ngành giày dép không tìm cho mình những hướng đi mới. Chúng ta có thể hướng sang một số thị trường lớn khác như Mỹ, Nhật Bản. Mỹ là thị trường mới đầy tiềm năng nhất là sau khi Hiệp định thương mại Việt _Mỹ được kí kết, bước đầu tạo cho các doanh nghiệp của ta cơ hội khai thác tốt hơn thị trường này. Mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 2002 đạt gần 300 triệu USD. Đối với thị trường Nhật Bản, dù có nhu cầu rất lớn 300 triệu đôi mỗi năm nhưng trong đó hàng Trung Quốc đã chiếm tới 70 %. Năm2002 kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường khó tính này đạt một con số khá khiêm tốn là 73, 5 triệu USD Sản phẩm giày dép của Việt Nam vào hai thị trường này không được hưởng những ưu đãi như đối với thị trường EU mà mặt khác phải chịu nhiều áp lực từ những yếu tố nhạy cảm và những động thái bất ngờ của thị trường Mỹ hay "sự khắt khe "của thị trường Nhật Bản. Do vậy, có thể khẳng định rằng EU vẫn là thị trường lớn, ổn định và là thị trường chủ lực cho sản phẩm giày dép xuất khẩu của Việt Nam. Thách thức nhiều nhưng không phải là có ít cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép Việt Nam trên thị trường còn nhiều tiềm năng này. Điều quan trọng này là chúng ta phải biết khai thác và tận dụng tốt lợi thế cũng như những cơ hội có được khi thâm nhập sâu hơn vào thị trường này. 2. 4. Hình thức xuất khẩu Theo nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt Nam _Liên minh châu Âu cho thấy quan hệ xuất nhập khẩu giữa hai bên qua trung gian còn chiếm tỷ trọng lớn :40_50% khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam với châu á là đi châu Âu hoặc có xuất xứ từ châu Âu. Việc buôn bán qua trung gian đã gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp EU. Tồn tại một thực tế hiện nay là giày dép xuất khẩu của Việt Nam vào EU chủ yếu thông qua các công ty Đài Loan, Hàn Quốc, Hông Kong khiến cho doanh số giảm từ 10_15%. Trên thực tế, tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp vào thị trường EU là phương hướng phát triển quan trọng của ngành giày dép Việt Nam và cũng là mong muốn của EU. Nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào ngành giày dép của Việt Nam nhằm tận dụng ưu đãi mà EU dành cho hàng hoá xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam (C/O). Giày dép xuất ra khỏi Việt Nam và đến với người tiêu dùng tại thị trường EU dưới một thương hiệu có "made in. . . "là một nước nào đó mà không phải là Việt Nam. Sản phẩm giày dép của chúng ta chịu ảnh hưởng giày dép của Đài Loan, Hàn Quốc, chưa có hình ảnh riêng cho sản phẩm, chưa có những nhãn hiệu đáng tin cậy đối với người tiêu dùng EU nên muốn tiêu thụ được trên thị trường này giày dép của Việt Nam buộc phải đi theo đường vòng. Phương thức sản xuất gia công lại thêm vào hình thức xuất khẩu qua trung gian đã không nói lên được lợi ích thực sự của Việt Nam khi xuất khẩu giày dép sang thị trường EU. 3. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam thời gian qua 3. 1. Ưu điểm Từ thực trạng xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU chúng ta có thể nhận thấy nhiều điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu của ngành công nghiệp nhẹ này Đầu tiên phải nói đến sự tăng trưởng vượt bậc về năng lực sản xuất của ngành trong những năm qua. Số lượng giày dép sản xuất ra năm sau tăng hơn năm trước, không những đáp ứng nhu cầu nội địa mà phần lớn dành cho xuất khẩu. Công suất hoạt động các dây chuyền sản xuất của ngành tăng lên, đơn đặt hàng nhiều hơn, sản phẩm ngày càng đạt chất lượng cao hơn đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng, giá bán giày dép và giá gia công đã được cải thiện trên thị trường thế giới. Cùng với sự phát triển về năng lực sản xuất, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU tăng qua các năm, mức tăng trưởng bình quân cao. Có một số thời kỳ con số này có chững lại do một số nguyên nhân nhưng Việt Nam vẫn là quốc gia xuất khẩu lớn thứ hai vào thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu giày dép vào thị trường EU là một nguồn thu ngoại tệ góp phần điều chỉnh cán cân thương mại của Việt Nam. Đây cũng là nguồn vốn ngoại tệ lớn để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam về trang thiết bị, máy móc, công nghệ. . . trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Một điểm sáng nổi bật trong toàn cảnh xuất khẩu giày dép sang EU là đã thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nhiều lao động, nhất là những lao động nữ nông thôn tay nghề thấp. Thất nghiệp giảm đáng kể đã giảm bớt sức ép lên xã hội, đồng thời nhiều vấn đề xã hội khác cũng được giải quyết. Vấn đề nóng bỏng nhất trong xuất khẩu của Việt Nam luôn là vấn đề thị trường đã có những bước tiến mới. Bên cạnh thị trường giày dép lớn nhất là EU, giày dép Việt Nam đã có mặt trên nhiều quốc gia và lãnh thổ. Sản phẩm của chúng ta đang nỗ lực củng cố vị trí trên thị trường EU, phấn đấu mở rộng thị phần trên những thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, tìm cách nối lại quan hệ bạn hàng với cá thị trường truyền thống đồng thời tiếp cận những thị trường mới nhất là một số quốc gia sắp gia nhập Liên minh châu Âu. Với những nỗ lực sản xuất và xuất khẩu của toàn ngành trong những năm qua, Uỷ ban châu Âu đã thông qua chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập mới áp dụng từ ngày 1/1/2002 đến ngày 31/12/2004, theo đó hàng giày dép xuất xứ từ Việt Nam xuất khẩu sang EU được hưởng mức thuế thấp chỉ bằng 70 % mức thuế thông thường. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU. 3. 2. Tồn tại Bên cạnh những bước tiến đã đạt được trong thời gian qua, ngành giày dép vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc còn tồn tại Không thể không nhìn nhận năng lực sản xuất của toàn ngành giày dép đã tăng lên đáng kể cùng với sự đổi mới và đầu tư nhiều dây chuyền sản xuất, công nghệ, nhà xưởng nhưng công suất hoạt động của các dây chuyền sản xuất này chưa được khai thác tối đa. Nhiều đơn đặt hàng giày thể thao doanh nghiệp của ta không thực hiên hết được, bên cạnh đó nhiều đơn đặt hàng giày dép cao cấp hơn chúng ta lại phải chịu bỏ qua. Điều này cho thấy rằng sản phẩm của Việt Nam hàm lượng kỹ thuật thấp, hàm lượng giá trị gia tăng mới chỉ ở mức 30_35% dẫn đến giá trị xuất khẩu chưa cao. Một bất lợi cho sản phẩm giày dép Việt Nam là giá cả còn cao thậm chí cao hơn nhiều lần so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc nhưng chất lượng, mẫu mã, chủng loại thì lại kém hơn rất nhiều. Đây thực sự là một điểm yếu của sản phẩm của ta có thể dẫn tới nguy cơ không cạnh tranh được với hàng hóa Trung Quốc trên thị trường EU trong thời gian tới, nhất là sau năm 2004 và Việt Nam chưa gia nhập WTO Gia công là phương thức sản xuất chủ yếu của ngành giày dép. Chúng ta chưa thực hiện được phương thức mua đứt bán đoạn đối với hàng hoá giày dép nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Thêm vào đó sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang EU hầu như phải qua trung gian nên kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành tăng khá đều và cao, đạt được con số nhiều triệu đôla nhưng lợi nhuận thực tế thu về cho đất nước và cho chính doanh nghiệp còn thấp Cho đến nay, EU vẫn là thị trường chính chủ yếu, nhập khẩu nhiều nhất giày dép của Việt Nam (chiếm trên dưới 80%). Dù đã có quan hệ thương mại về mặt hàng này trong cùng một thời gian tương đối dài nhưng hiện nay vẫn còn hiện tượng làm ăn manh mún, giao hàng không đúng thời hạn, chất lượng không đúng qui định như trong hợp đồng của các doanh nghiệp Việt Nam, ngay cả việc khai thác GSP mà EU dành cho Việt Nam cũng chưa biết tận dụng và chưa hiệu quả. Giày dép là sản phẩm mang tính thời trang theo mùa vì vậy việc giao hàng theo đúng thời gian của hợp đồng là rất quan trọng nếu không sẽ bị khách hàng từ chối (trả về). EU là thị trường luôn bảo vệ người tiêu dùng với hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực như yêu cầu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), hệ thống tiêu chuẩn quản lý môi trường, ISO 14000, tiêu chuẩn SA 8000, tiêu chuẩn về lao động. . . buộc các nước xuất khẩu phải thực hiện. Nếu các sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, cũng như các tiêu chuẩn này thì khó mà trụ vững trên thị trường EU. Mặt khác, EU là một thị trường có tính thống nhất cao, thông tin xuyên suốt toàn khu vực, nếu như sản phẩm giày dép của chúng ta mất uy tín trên một thị trường thì bất lợi cho hàng hoá của ta bị nhân lên gấp 15 lần và hậu quả không thể lường hết được do vậy vấn đề bảo đảm chữ tín trong hoạt động xuất khẩu trên thị trường EU là rất có ý nghĩa. 3. 3. Nguyên nhân của những tồn tại Những tồn tại trong việc xuất khẩu giày dép sang EU là kết quả của rất nhiều nguyên nhân, cả nguyên chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan Cho đến nay, hầu hết các thiết bị sản xuất giày dép được nhập khẩu từ Đài Loan và Hàn Quốc theo phương thức trả chậm, các dây chuyền máy móc chủ yếu là công nghệ của thập kỉ 70, 80 tuổi thọ ngắn. Việc nhập khẩu không mang tính chọn lọc, công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ đã dẫn đến việc vẫn đầu tư công nghệ nhưng công suất khai thác được chưa đáp ứng đựơc yêu cầu của sản xuất và xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam qui mô sản xuất còn nhỏ, khả năng tài chính còn hạn chế nên còn yếu trong việc thực hiện các đơn đặt hàng lớn. Đồng thời cũng phải kể đến vấn đề nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Nguyên vật liệu chủ yếu cho ngành giày dép là da. Nhưng đến nay chúng ta gặp khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu và chất lượng nguyên liệu không bảo đảm. Có một nghịch lý là nguyên liệu da thuộc rất thiếu trong khi năng lực sản xuất da thuộc trong nước đã phát triển, nhiều nhà máy đã đầu tư thay đổi máy móc công nghệ nhưng công suất chỉ là 25%, đáp ứng không quá 10% nhu cầu và kết quả là hàng năm cả nứơc phải nhập khẩu 6 triệu feet vuông da thuộc. Song vấn đề đáng quan tâm hơn là chất lượng da chưa đạt yêu cầu làm giày xuất khẩu sang các nứơc xứ lạnh (trọng lượng da chỉ ở mức 50% so với tiêu chuẩn thế giới). Đó là kết quả tất yếu của quá trình chăn nuôi không khoa học, kĩ thuật lột da kém, xử lý trước khi lột chưa hợp lý, giết mổ phân tán nên không có điều kiện bảo quản da. Tuy ngành có tốc độ phát triển cao về sản lượng song về kỹ thuật công nghệ quản lý và thiết kế mẫu mốt vẫn bị lệ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài Chính vì những khó khăn và hạn chế về tài chính, cung ứng nguyên phụ liệu, công nghệ và trình độ quản lý. . . hiện nay của ngành giày dép Việt Nam (đặc biệt là các doanh nghiệp trong nước) nên hình thức hợp tác gia công xuất khẩu với các đối tác trong khu vực là phương thức chính của đa số các doanh nghiệp. Phương thức hợp tác này mặc dù còn nhiều hạn chế cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung song phù hợp với giai đoạn vừa qua và hiện nay. Một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới những nhược điểm còn tồn tại trong quan hệ thương mại xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU đó chính là quan điểm và sự hiểu biết về thị trường này còn hạn chế. Giày dép là sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt kim ngạch lớn nhất, tuy nhiên ngành giày dép chưa có chiến lựơc phát triển xuất khẩu sản phẩm của ngành sang EU trong dài hạn. Ngành và các doanh nghiệp trong ngành còn thiếu hiểu biết về thị trường thống nhất, rộng lớn và đa dạng như EU. Các doanh nghiệp Việt Nam còn non nớt trong kinh nghiệm thương trường, thậm chí còn bỡ ngỡ với thị trường EU, không biết nắm bắt thời cơ, kém hiểu biết luật lệ của thị trường EU, thiếu thông tin, chưa biết tiếp cận thị trường, chưa quan tâm tới hệ thống chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn của EU. Thêm vào đó là thói quen làm ăn kiểu cũ, tuỳ tiện đã dẫn tới những việc làm không đáng có, không phù hợp với truyền thống và tập quán kinh doanh của EU. Cũng chính sự thiếu hiểu biết này dẫn đến sự thiếu tự tin của các doanh nghiệp Việt Nam khi ra thương trường quốc tế. Thiếu thông tin, không dám mạo hiểm nên các doanh nghiệp giày dép của Việt Nam không lựa chọn được những phương thức thích hợp để tiếp cận với hệ thống phân phối khá phức tạp của EU và do đó buộc phải xuất khẩu qua trung gian mới mong tiêu thụ được sản phẩm của mình trên thị trường này. Nguyên nhân này gây ra những tác động rất tiêu cực và ảnh hưởng sâu sắc trong hoạt động xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU Phần III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU Mục tiêu của ngành giày dép trong những năm tới là:hướng ra xuất khẩu với phương hướng chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm, bảo đảm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, đáp ứng các yêu cầu về mẫu mã, kiểu dáng, số lượng, chất lượng theo yêu cầu của thị trường, nâng cấp nhà xưởng, đổi mới trang thiết bị và công nghệ theo hướng đưa công nghiệp tự động vào sản xuất, tiến tới xuất khẩu trực tiếp sản phẩm hoàn chỉnh và xuất khẩu những sản phẩm trung và cao cấp. Đến năm 2005 sản xuất 390 triệu đôi, kim ngạch xuất khẩu đạt 2, 5 tỷ USD, tạo việc làm cho khoảng hơn 500 ngàn lao động ;Năm 2010, sản xuất 620 triệu đôi, kim ngạch xuất khẩu đạt 5_5, 2 tỷ USD, với hơn 700 ngàn chỗ làm. Từ những mục tiêu này trong qui hoạch phát triển tổng thể của ngành giày dép đến năm 2010, chúng ta cần phải có những định hướng đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU I. Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU 1. Đa dạng hoá sản phẩm Để tìm được chỗ đứng lâu dài tại thị trường EU các sản phẩm giày dép của Việt Nam cần phải nâng cao sức cạnh tranh cho mình. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hàm lượng công nghệ và chất xám trong sản phẩm thì các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU còn phải cải tiến mẫu mã hợp thị hiếu tiêu dùng. Người dân EU rất coi trọng mẫu mã và thời trang của giày dép chứ không chỉ chất lượng của sản phẩm. Do đó cần đa dạng hoá các sản phẩm giày dép từ hàng bình dân đến hàng trung và cao cấp. Cần thiết đẩy mạnh năng lực sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng cao cấp sang thị trường EU để hạn chế sự cạnh tranh đối với hàng cấp thấp của Trung Quốc. 2. Phân cấp sản phẩm EU sử dụng "rào cản kỹ thuật "là biện pháp chủ yếu để bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn của EU chính là yếu tố có tính quyết định cho hàng hóa của các nước đang phát triển _những hàng hóa được EU cho hưởng thuế quan ưu đãi GSP trong đó có giày dép của Việt Nam có vượt qua được rào cản kĩ thuật của EU hay không. Phấn đấu nâng cấp các sản phẩm của Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng của EU là chìa khóa đưa sản phẩm của ta vào được thị trường EU. Với các chứng chỉ về tiêu chuẩn chất lượng của EU, sản phẩm của chúng ta sẽ có được lòng tin của khách hàng khó tính trên thị trường này. Bên cạnh đó người dân châu Âu ưa chuộng hàng hóa có nhãn hiệu nổi tiếng, giá cả không phải là giải pháp cạnh tranh tối ưu đối với giày dép Việt Nam. Do đó cần nâng cấp sản phẩm, từng bước xây dựng thương hiệu giày dép của Việt Nam sánh ngang tầm khu vực. Đây là những hướng đi đúng đắn và cực kì cần thiết cho các sản phẩm giày dép của Việt Nam khi bước vào những thị trường đã đạt tới trình độ phát triển cao, văn minh công nghiệp đã được xây dựng như EU. 3. Chuyển đổi phương thức sản xuất hàng xuất khẩu Để đạt được các mục tiêu xuất khẩu giày dép sang thị trường EU đặc biệt là mục tiêu về kim ngạch xuất khẩu mà thực chất là củng cố chỗ đứng vững chắc cho sản phẩm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100166.doc
Tài liệu liên quan