Đề tài Án lệ với pháp luật Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG MỘT 3

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ 3

1.1 Nguồn pháp luật 3

1.1.1 Khái niệm 3

1.1.2 Các loại nguồn pháp luật 4

1.2 Án lệ 8

1.2.1 Hai hệ thống luật: thông luật (common law) và dân luật (civil law) 8

1.2.2 Khái niệm án lệ 12

1.2.3 Tính chất, đặc điểm của án lệ 14

1.2.4 Quy trình hình thành án lệ 15

1.2.5 Quy trình sửa đổi án lệ 16

1.2.6 Ưu điểm, nhược điểm của án lệ 17

1.3 Tình hình áp dụng án lệ trên thế giới 18

1.3.1 Án lệ tại các nước theo hệ thống thông luật 19

1.3.2 Án lệ tại các nước theo hệ thống dân luật 23

1.3.3 Thực tiễn tại một số tòa án quốc tế 28

CHƯƠNG HAI 30

ÁN LỆ VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM 30

2.1 Nhu cầu và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam 30

2.1.1 Tình hình hệ thống pháp luật 30

2.1.2 Công tác xét xử của tòa án 41

2.2 Trình độ pháp luật của người dân 47

2.3 Các dấu hiệu của án lệ tại Việt Nam 51

2.4 Các đề xuất, kiến nghị về việc áp dụng án lệ tại Việt Nam. 52

2.4.1 Những ý kiến của các chuyên gia thực thi luật về việc áp dụng án lệ tại Việt Nam. 52

2.4.2 Ý kiến, đề xuất cá nhân của nhóm nghiên cứu. 58

KẾT LUẬN 60

 

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9805 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Án lệ với pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính thuyết phục của các phán quyết của tòa án cấp trên thường là lớn hơn so với phán quyết của tòa án cấp dưới ; 2.trình độ nghiệp vụ, lí lẽ của các Thẩm phán của tòa án cấp trên đương nhiên cao hơn, sâu sắc và thuyết phục hơn trình độ nghiệp vụ, lí lẽ của các Thẩm phán thuộc tòa án cấp dưới ; 3. Các tòa án cấp dưới thường có xu hướng tuân theo phán quyết của các tòa án cấp trên trong việc giải quyết mỗi một vụ án cụ thể bởi phản đối là việc làm phi kết quả của các tòa án cấp dưới. Đây có thể xem như là điều khẳng định sự ảnh hưởng khó có thể phủ nhận của án lệ lên ngay cả những nước có truyền thống không chấp nhận án lệ như Đức. 1.3.2.3 Án lệ tại Mexico Mexico là một nước theo hệ thống dân luật, xong hiến pháp sửa đổi năm 1917 đã quy định án lệ được coi là một nguồn của pháp luật. Tương tự như Mĩ, án lệ tại Mexico chính là cách giải thích hiến pháp và luật của tòa án và tuân theo các nguyên tắc sau đây: Chỉ các bản án, quyết định của tòa án tối cao tại phiên họp toàn thể hay của các tòa trong tòa án tối cao hoặc tòa án tập thể khu vực mới được coi là án lệ. Án lệ chỉ được hình thành sau khi có ít nhất 5 bản án, quyết định liên tục giống nhau của các tòa án nêu trên về những vụ án có tình tiết tương tự và các bản án này phải được đa số thành viên hội đồng thẩm phán tán thành. Án lệ chỉ có hiệu lực áp dụng trong nội bộ ngành tòa án, tuy nhiên trên thực tế, các cá nhân, tổ chức ngoài tòa án ngày càng có xu hướng tuân theo án lệ. Án lệ có thể được thay đổi nếu thấy sai sót hoặc không còn phù hợp, tuy nhiên thủ tục thay đổi án lệ cũng cần ít nhất 5 bản án quyết định liên tục giống nhau phủ nhận án lệ đã có trước. 1.3.2.4 Án lệ tại Nhật Bản Năm 1947 – Luật Tòa án được thông qua tại Nhật, án lệ chính thức được thừa nhận ở Nhật Bản, tuy nhiên vẫn chưa được coi là một nguồn luật chính thức. Án lệ được công bố công khai trên trang web của Toà án tối cao Nhật Bản và một số các trang web của tư nhân khác. Toà án tối cao Nhật Bản có một tạp chí nhỏ phát hành 2 lần mỗi tháng và được phát tới tay tất cả các nhân viên Toà án trong đó có đăng các án lệ. Các báo, tạp chí khác cũng hay đăng các bản án đã được công bố trở thành án lệ. Đặc biệt, Toà án tối cao có một cơ sở dữ liệu dành cho nhân viên của Toà án trong đó cập nhật thường xuyên các án lệ và các bài nghiên cứu lý luận, các bản án của các Toà án khác. Khi xét xử bắt buộc các Thẩm phán phải tìm hiểu, nghiên cứu những án lệ đã có về những tình huống tương tự. Thẩm phán có thể truy cập, tra cứu các án lệ các bản án của các Toà án khác hay những văn kiện liên hệ tới án lệ đó bắng máy tính theo một số tiêu chí (các điều kiện lọc) được định sẵn. Việc áp dụng máy tính tra cứu các án lệ theo các tiêu chí định sẵn khiến cho việc tra cứu rất nhanh, tiện lợi, tuy nhiên điều này đòi hỏi phải sắn có một cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ Cơ sở của việc áp dụng án lệ tại Nhật Bản Để áp dụng thống nhất pháp luật thì cần phải làm rõ nội dung của luật tới mức có thể áp dụng để giải quyết một vụ án cụ thể. Thực tế Bộ luật dân sự Nhật Bản ban hành năm 1898 gồm 1044 điều, các án lệ về các điều khoản này chứa đựng trong các án lệ của Toà án tối cao Nhật Bản gồm 9700 án lệ, trong đó của Đại thẩm viện (Toà án tối cao trước kia) là 7500 án lệ và của Toà án tối cao hiện nay là 3200 án lệ. Cho đến nay Bộ luật dân sự Nhật Bản đã hơn 100 năm tuổi nhưng các án lệ vẫn liên tục được bổ xung. Điều đó cho thấy chỉ có các văn bản quy phạm pháp luật không thôi thì không thể đủ mà chúng cần được làm rõ thông qua các giải thích cụ thể, đó chính là việc áp dụng các án lệ. Một cơ sở nữa để xây dựng và áp dụng án lệ tại nhật Bản là xuất phát từ tâm lý của con người, con người có thói quen tâm lý tuân theo những tiền lệ và những nhận định của cấp trên cho nên xây dựng một chế độ án lệ cũng phải dựa trên những yếu tố tâm lý như vậy. Khi thiết chế về án lệ có đủ sức mạnh thì mọi bản án nhận định của Toà án tối cao đều trở thành pháp luật. Nguyên tắc của việc áp dụng án lệ  Pháp luật Nhật Bản quy định quyền kháng cáo 2 cấp. Để áp dụng án lệ thì cần thiét phải tạo cho án lệ có sức mạnh, những bản án, nhận định của Toà án tối cao phải được tôn trọng và tuân theo, tuy nhiên sức mạnh của án lệ ở Nhật Bản không mạnh như ở Anh, Mỹ. Mục tiêu của Nhật Bản chỉ là hy vọng các án lệ sẽ được tôn trọng và tuân theo. Ở Nhật Bản hiện tại đang xen giữa hai hình thức, vừa có luật thành văn, vừa có án lệ. Nhật Bản cho rằng cơ chế hiện tại là tối ưu vì khi xét xử Thẩm phán tuân theo pháp luật và tôn trọng những án lệ. Chỉ xét xử của Toà án cấp cao nhất mới có thể trở thành án lệ, tuy nhiên, ở Nhật Bản trong trường hợp không có án lệ đối với vấn đề của một vụ án cụ thể thì Thẩm phán hoàn toàn có thể tham khảo những bản án của những Toà án khác (thậm chí Toà án cấp dưới) về vụ án tương tự (tham khảo tiền lệ xét xử). Nếu Thẩm phán tán thành quan điểm pháp lý thể hiện trong các bản án đó thì sẽ tiến hành xét xử trên quan điểm pháp lý đó về vấn đề tương tự. Trường hợp này không phải Thẩm phán đã áp dụng án lệ mà đó là kết quả của quá trình tư duy của Thẩm phán để đưa ra quyết định cuối cùng. Các bản án xét xử trước hoàn toàn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những Thẩm phán xét xử sau. Ở Nhật bản, ngoài tập án lệ của Toà án tối cao thì cũng có những tập giống như án lệ nhưng của của Toà án cấp dưới và nó không phải qua những bước thẩm định, biên soạn khắt khe như biên soạn án lệ. Những bản án này cũng được đăng công khai và là nguồn tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa đối với các Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Để tạo ra sức mạnh cho án lệ tức là làm sao ràng buộc các Thẩm phán tuân theo? Ở Nhật Bản người ta luôn đề cập tới, bàn thảo tới vấn đề án lệ tại các cuộc họp, các lớp đào tạo; người ta nghiên cứu và khuyến cáo thực hiện chứ không áp đặt Toà án cấp dưới tuân theo. Việc tìm hiểu về án lệ, nội dung án lệ được coi là một môn luật học và được giảng dạy ở trường đại học, người ta luôn giáo dục nó trở thành tâm niệm và tư thế của Thẩm phán ở Nhật Bản. 1.3.3 Thực tiễn tại một số tòa án quốc tế 1.3.3.1 Tòa án Công lý quốc tế (International Court of Justice) Là một phân ban trực thuộc Liên Hiệp Quốc, được thành lập vào năm 1945 với tiền thân là Toà án Thường trực Công lý Quốc tế (Permanent Court of International Justice) có từ năm 1922. Tòa bắt đầu chính thức nhận hồ sơ, thụ lý và giải quyết tranh chấp các vấn đề giữa các quốc gia thành viên có liên quan, cũng như làm công tác cố vấn pháp luật cho Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như các ủy ban khác trực thuộc Liên Hiệp Quốc như đã ghi rõ trong Công ước Liên Hiệp Quốc từ 1946. Về thẩm quyền, Tòa án Công lý quốc tế thực hiện hai thẩm quyền đó là giải quyết tranh chấp quốc tế và tư vấn pháp luật. Về các nguồn luật áp dụng, những vụ việc được đưa ra Tòa án Công lý quốc tế được giải quyết theo luật quốc tế. Luật được áp dụng tại Tòa được quy định tại điều 38(1) Quy chế Tòa án quốc tế. Theo đó, luật áp dụng gồm: Các công ước quốc tế chung hoặc khu vực đã qui định về những nguyên tắc được các bên tranh chấp thừa nhận. Các tập quán quốc tế với tính chất là những chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận như những qui phạm pháp luật. Các nguyên tắc đã được hình thành từ lâu đời được các quốc gia văn minh thừa nhận. Các nghị quyết xét xử (mang tính chất án lệ quốc tế) và các học thuyết của các chuyên gia có uy tín về luật pháp quốc tế của các nước khác nhau cũng có thể được coi là nguồn bổ trợ để xác định các qui phạm pháp luật phục vụ cho công tác xét xử của Tòa án quốc tế. Tính độc lập của Tòa án được tôn trọng khi mà Tòa giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là các quốc gia, không phân biệt quốc gia đó có phải là thành viên Liên Hợp Quốc hay không. Trong mọi trường hợp xảy ra tranh chấp, thẩm quyền của tòa được xác định trên cơ sở ý chí của chủ thể đang tranh chấp. Khi thẩm quyền của Tòa được xác lập thì thẩm quyền này là độc lập, dựa trên ý chí tự nguyện từ các bên hữu quan, mà không bị bất cứ sức ép chính trị hay kinh tế nào. Về thủ tục xét xử : phán quyết của Tòa được xây dựng dựa trên nguyên tắc đảm bảo công bằng và sự chấp thuận của cả hai bên. Tuy nhiên,trong thực tế , phán quyết này có được thực thi hay không còn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi nước liên quan hoặc cao hơn là năm thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. 1.3.3.2 Cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại thuộc Tổ chức Thương mại thế giới (Dispute Resolution Body of WTO) Ngày 01/01/1995, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO được thành lập. Cùng với sự ra đời này, Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (Dispute Settle Body – DSB) cũng được thiết lập. Cơ quan giải quyết tranh chấp – DSB bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Đó là những đại diện ngoại giao tại Geneva (trụ sở của WTO) hoặc những người đại diện thuộc Bộ Thương mại hoặc Bộ Ngoại giao của nước thành viên WTO. Chức năng của DSB được quy định trong Khoản 1 Điều 2 của Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp – DSU : “Cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập để thực hiện những quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này và các điều khoản về tham vấn và giải quyết tranh chấp của các hiệp định có liên, trừ khi trong hiệp định có liên quan quy định khác. Theo đó, DSB sẽ có thẩm quyền thành lập Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, thông qua các báo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, duy trì sự giám sát và thực hiện các phán quyết và khuyến nghị, cho phép đình chỉ việc thi hành những nhượng bộ và các nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan” . CHƯƠNG HAI ÁN LỆ VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM 2.1 Nhu cầu và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam 2.1.1 Tình hình hệ thống pháp luật 2.1.1.1 Các loại nguồn pháp luật của Việt Nam: “ Nguồn pháp luật là những hình thức chính thức thể hiện các quy tắc bắt buộc chung được nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý để áp dụng vào việc giải quyết các sự việc trong thực tiễn pháp lý và là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật”.Trên thế giới có 7 nguồn pháp luật cơ bản đó là: tập quán pháp, tiền lệ pháp , văn bản quy phạm pháp luật, luật công bằng, các tư tưởng học thuyết pháp lý, luật công bằng, lương tâm. Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử, văn hoá … mà mỗi nước có những nguồn pháp luật khác nhau.Vậy pháp luật Việt nam có những nguồn pháp luật nào? Pháp luật Việt Nam thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đây là hệ thống pháp luật coi văn bản quy phạm pháp luật là một nguồn pháp luật cơ bản và Viêt Nam cũng vậy. Nguồn pháp luật chủ yếu của nước ta hiện nay là văn bản quy phạm pháp luật đựơc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự và thủ tục pháp lí nhất định và tồn tại trong thứ tự bậc về hiệu lực pháp lý ( hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị, nghị quyết,…) tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Văn bản quy phạm luật vừa là nguồn nội dung vừa là nguồn hình thức của pháp luật Việt Nam. Cho đến nay văn bản quy phạm pháp luật là nguồn pháp luật (hình thức) duy nhất được công nhận về nguyên tắc. Văn bản quy phạm pháp luật được hình thành do kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật. Các quy định của nó được trình bày thành văn nên thường rõ ràng cụ thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Văn bản quy phạm pháp luật không chỉ là nguồn hình thức mà còn là nguồn nội dung của pháp luật bởi nếu xét về nội dung thì các quy định trong văn bản pháp lý cao hơn lại có thể trở thành cho các văn bản pháp lý thấp hơn. Trong hệ thống pháp luật nước ta từ trước tới nay án lệ, tập quán… chưa được thừa nhận một cách chính thức là một nguồn của hệ thống pháp luật nước ta. Về nguyên tắc toà án là cơ quan tư pháp nên không được ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay nói cách khác thẩm phán là người giải thích luật chứ không phải là người sáng tạo ra luật Tuy nhiên nhu cầu đưa án lệ, tập quán trở thành nguồn của pháp luật nước ta đã được ghi nhận trong Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thốn pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 theo đó một trong những giửi pháp đặt ra là “ nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán kể cả tập quán và thông lệ quốc tế và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung hoàn thiện pháp luật” Đối với tập quán một số văn bản quy phạm pháp luật của nước ta cũng thừa nhận việc áp dụng tập quán trong trường hợp nhất đinh cụ thể như : điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:” trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này”, Điều 13 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “ trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật Dân sự” Các tư tưởng học thuyết pháp lý cũng được sử dung làm nguồn nội dung của pháp luật. Ví dụ: theo hiến pháp hiện hành của nước ta thì “ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức . Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong vịêc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quy định này được của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng xủa chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ chí minh về nhà nước và pháp luật, tư tưởng chủ quyền nhân dân, tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hơp lý của học thuyết phân chia quyền lực nhà nước. Như vậy trong khi coi văn bản quy phạm pháp luật là nguồn cơ bản, là nguồn có giá trị nhất thì pháp luật Việt Nam vẫn sử dụng những nguồn pháp luật khác với mức độ và tần xuất nhất định. Việc sử dụng linh hoạt các nguồn pháp luật giúp hoàn thiện và phát triển pháp luật Việt Nam. 2.1.1.2 Các cơ quan ban hành pháp luật Với tư cách là nguồn ( hình thức) chủ yếu của pháp luật Việt Nam các văn bản quy phạm pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện.Theo luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, điều 2 chương I quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta bao gồm Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước Nghị định của Chính phủ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao Thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng có quan ngang Bộ Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị -xã hội Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng có quan ngang Bộ. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Hội đồng nhân dân bành văn bẳn quy phạm pháp luật trong những trường hợp sau đây: Quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo thi hành Hiến pháp, Luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.. Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế kinh tế- xã hội, ngân sách quốc phòng an ninh ở địa phương. Quyết định biện pháp nhằm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, hoàn thiện nhiệm vụ của cấp trên giao cho. Quyết định trong phạm vi được giao cho những chủ trương, biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương nhưng không được trái với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên. Văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho Hội đồng nhân dân quy định một vấn đề cụ thể uỷ ban nhân dân ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong những trường hợp sau đây. Để thi hành Hiến pháp, Luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế xã hôị, củng cố quốc phòng, an ninh. Để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương và thực hiện chính sách trên địa bàn. Văn bản cơ quan nhà nước giao cho Uỷ ban nhân dân một số quy định cụ thể . Theo quy định trên ta thấy nước ta có hệ thống cơ quan ban hành pháp luật chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Việc giao quyền ban hành các quy phạm pháp luật như trên làm cho nước ta có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhiều về số lượng nhưng đó cũng là điểm yếu của hệ thống pháp luật nước ta. 2.1.1.3 Chất lượng các văn bản pháp luật Các văn bản pháp luật được ban hành cần được kiểm định và cần được sự nhất trí thông qua của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chất lượng các văn bản pháp luật phải được đánh giá đúng và khách quan, phù hợp với tình hình phát triển chung mà không vi phạm quy định. Như một quy tắc chungvăn bản pháp luật phải được đánh giá một cách cụ thể,và được coi là một công cụ quản lý xã hội… Những quan điểm đánh giá chất lượng ban hành các văn bản pháp luật Chất lượng của hoạt động ban hành các văn bản pháp luật-văn bản quản lý nhà nước quyết định chất lượng của văn bản với tư cách là sản phẩm của hoạt động đó.Vì vậy đánh giá chất lượng sản phẩm cũng chính là đánh giá chất lượng của chính hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Thực trạng ban hành pháp luật ở nước ta hiện nay có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau đôi khi còn trái ngược nhau, nhưng lý do chính là ở chỗ chưa có những quan điểm chung thống nhất. Đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật qua nghiên cứu có một số quan điểm sau: Một là, đánh giá từ quan điểm lịch sử, nước ta đang trong tiến trình đổi mới toàn diện và sâu sắc,đây là đòi hỏi khách quan và có ý nghĩa quan trọng quyết định vận mệnh của đất nước. Trước đây, chúng ta coi các vấn đề về xã hội là kinh điển, chuẩn mực, không được tranh cãi thì ngày nay cần được nghiên cứu theo hướng tư duy mới, phù hợp hơn với tình hình phát triển của xã hội. Đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật từ góc độ lịch sử sẽ giúp sàng lọc các văn bản đã ban hành và các văn bản mới cho phù hợp với tình hình phát triển chung. Hai là, đánh giá trên tinh thần coi trọng những tiến bộ của pháp luật trong thời gian qua. Mỗi giai đoạn phát triển pháp luật lại đóng một vai trò quan trọng, định hướng cho sự phát triển của xã hội. Đặc biệt trong những năm gần đây vai trò của pháp luật được thể hiện rõ trong việc phục vụ đường lối phát triển kinh tế, cải thiện nền hành chính và kiện toàn bộ máy nhà nước. Những tiến bộ của nền kinh tế đã nâng cao ý thức thi hành luật và những văn bản pháp luật ngày càng có hiệu lực. Đánh giá đúng thực trạng của việc ban hành các văn bản pháp luật sẽ tạo cơ sở phát huy các thành tựu, tiếp tục khẳng định và đóng góp tích cực vai trò của pháp luật vào công cuộc đổi mới. Ba là, đánh giá trên quan điểm thực tiễn. Pháp luật là một trong những hiện tượng trung tâm của thượng tầng kiến trúc, phụ thuộc vào hạ tầng cơ sở. Những hạn chế về mặt kinh tế, phong tục tập quán phải được tính đến khi đánh giá pháp luật nước ta nói chung và thực trạng ban hành văn bản pháp luật nói riêng. Ngoài thực tiễn khách quan cũng cần quan tâm đến thực tiễn chủ quan, đó là ý chí của tầng lớp giai cấp. Giai cấp cầm quyền của nhà nước ta chưa có đủ kinh nghiệm trong việc quản lý nhà nước; kiến thức pháp luật còn thiếu, hơn nữa đội ngũ cán bộ pháp lý đóng vai trò trong xây dựng và thực hiện pháp luật lại chưa được đào tạo ngang tầm với nhu cầu. Từ quan điểm thực tiễn cho đánh giá đúng sự thật, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của pháp luật, thành quả của hoạt động ban hành các văn bản pháp luật trong thời gian qua, nhưng cũng cần nhìn nhận những yếu kém, bất cập, nhanh chóng rút ra bài học kinh nghiệm. Bốn là, đánh giá từ tư duy mới và tầm nhìn mới, về nội dung nếu nhìn theo quan điểm lịch sử, quan điểm thực tiễn thì có thể thấy ít thiếu sót, nhưng muốn hoàn thiện pháp luật và công tác xây dựng pháp luật được nâng cao thì phải đánh giá từ tư duy mới, tầm nhìn mới. Quan điểm này không những ngăn chặn, loại trừ cách đánh giá, phủ nhận sạch trơn, mà còn nhấn mạnh tính kế thừa và phát triển của pháp luật.cùng với tính ổn định, pháp luật còn có tính năng động, pháp luật đưa ra các quy tắc hành xử để điều chỉnh quan hệ xã hội điển hình. Vì thế các văn bản pháp luật cũng phải thay đổi cho phù hợp. Đánh giá chất lượng các văn bản pháp luật Đánh giá về chất lượng các văn bản pháp luật, Báo cáo giám sát chuyên đề của Ủy ban Pháp luật Quốc hội trong kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI nhận xét: "... một số luật, pháp lệnh chỉ mới dừng lại ở nguyên tắc chung, chưa cụ thể, gây khó khăn cho các cơ quan thi hành. Nhìn chung các văn bản còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, có biểu hiện cục bộ..." Mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng, theo đánh giá của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa X, "Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc". Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay có thể nói đang trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Các văn bản quy phạm pháp luật ra đời là để giải quyết, điều chỉnh các quan hệ, hành vi pháp lý nảy sinh trong xã hội. Các quan hệ, hành vi pháp lý phát triển đến đâu thì các văn bản quy phạm pháp luật phải được điều chỉnh đến đó. Chỉ có như thế thì các quy định mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, mới mang lại hiệu quả xã hội thiết thực. Tuy nhiên, trên thực tế do hiểu không đúng về nhà nước pháp quyền, khi nhấn mạnh đến vai trò tối thượng của pháp luật, nhưng lại đồng nhất với việc có nhiều văn bản pháp luật được ban hành nên đang có tình hình muốn ban hành càng nhiều văn bản quy phạm pháp luật càng tốt, lĩnh vực nào, ngành nào cũng muốn có luật, pháp lệnh riêng của mình. Do vậy, nhiều vấn đề xã hội tuy chưa đặt ra yêu cầu cần phải có những quy định điều chỉnh có tính chất pháp lý, nhưng một số bộ, ngành, tổ chức xã hội vẫn xây dựng các dự án luật trình và thuyết phục để được thông qua. Kết quả là bên cạnh những bộ luật hoặc pháp lệnh nhanh chóng đi vào thực tiễn và được cả xã hội đón nhận thì cũng có những luật, pháp lệnh hoặc một phần nào đó của các văn bản này, ý nghĩa điều chỉnh thực tiễn không cao hoặc rất yếu. Có thể thấy điều này khá cụ thể qua một số luật về đối tượng, pháp lệnh về địa phương. Trong những văn bản đó do mang tính chính trị, chủ trương nên không xác định rõ được quan hệ, hành vi, đối tượng, phạm vi điều chỉnh. Nhiều quy định chỉ là các quan điểm hoặc mang tính hình thức, nặng về ý nghĩa thuyết phục, hô hào, thiếu các quy định có tính chế tài - một đặc trưng không thể thiếu của luật - nên hiệu lực pháp luật yếu, không thực sự đi vào cuộc sống, hiệu quả xã hội không cao. Ngược lại, nhiều vấn đề rất cần phải được quy định, điều chỉnh thì lại thiếu các văn bản pháp lý điều chỉnh. Thí dụ như những vấn đề về thẩm quyền của chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính, của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, hoặc vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà báo chí đã nêu lại chưa được ban hành. Nói một cách khác, không ít các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng chủ yếu xuất phát từ ý chí chủ quan của cơ quan quản lý mà không phải từ yêu cầu của các quan hệ xã hội trên thực tế cần điều chỉnh. Thứ hai, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng "quá tầm". Nhiều vấn đề xã hội chỉ cần các văn bản điều chỉnh của Chính phủ hoặc các văn bản quy định của các bộ là đủ. Nhưng nhiều khi những vấn đề đó lại được nâng lên điều chỉnh trong các văn bản pháp luật ở cấp độ cao hơn, khiến cho việc xây dựng bị kéo dài, không đáp ứng kịp thời việc xử lý những vấn đề xã hội đặt ra. Do vậy, nội dung quy định của các văn bản này nhiều khi không sát hợp, thiếu tính thuyết phục. Nhiều văn bản tính dự báo và tiên liệu thấp, không đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình. Thứ ba, ngoài việc có nhiều văn bản "quá tầm" còn có hiện tượng nhiều quy định pháp luật còn thiếu hệ thống, thiếu sự tập trung, thống nhất và cụ thể. Một quan hệ pháp lý nhưng lại được quy định rải rác trong nhiều văn bản ở nhiều cấp khác nhau (quy định ở cả trong luật, nghị định, thông tư), nên rất khó cho việc nắm vững và áp dụng một cách thống nhất. Có thể thấy điều này trong hệ thống các văn bản điều chỉnh về cán bộ, công chức, về chính quyền đô thị hay về hội; do vậy không thuận lợi cho việc thực thi pháp luật ở cả phía người quản lý lẫn phía người bị quản lý. Thứ tư, trong các văn bản quy phạm pháp luật, những nội dung khó thường bị gác lại hoặc giao cho các văn bản có vị trí pháp lý thấp hơn quy định. Có những văn bản luật được ban hành trong đó có nhiều điều giao cho Chính phủ quy định (Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Pháp lệnh Cựu chiến binh, Luật Thanh niên...). Tình hình này dẫn đến các quy định pháp luật trong các văn bản luật hoặc nghị định rất ngắn, nhưng các văn bản triển khai

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÁn lệ với pháp luật Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan