Đề tài Bằng những ví dụ thực tế ở Việt Nam khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhâp WTO để làm rõ mối quan hệ của pháp luật vầ kinh tế

MỤC LỤC

A: Lời mở đầu

 

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG

I) Khái quát chung 7

1) Khái quát về WTO 7

2 Lợi ích và thách thức khi Việt Nam ra nhập WTO 10

2.1 Lợi ích 10

2.2 Thách thức 12

3) Khái quát về pháp luật 13

4) Khái quát về kinh tế 14

II Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế 15

III Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế ở nước ta 17

CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHI RA NHÂP WTO VÀ HỘI NHÂP KINH TẾ QUỐC TẾ 20

1- Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam: 20

1.1 Vai trò của pháp luật đối với kinh tế xã hội chủ nghĩa 20

2 Những phát triển mới của pháp luật Việt Nam khi hội nhập kinh tế, ra nhập tổ chức WTO 24

2.1. Một số thành tựu cụ thể 25

2.2. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 33

CHƯƠNG 3: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 36

1. Vai trò của pháp luật trong thời đại mới. 37

2. Nâng cao trình độ nhận thức pháp luật 39

3. Nâng cao sự quản lý trong việc thự thi pháp luật 41

4. Tăng cường vai trò của pháp luật 42

5. Hoản thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. 45

5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật – một trong những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam 45

5.1. Nhận diện những hạn chế của hệ Hoản thiện hệ thống pháp luật thống pháp luật hiện hành 45

5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN 48

C Danh mục tài liệu tham khảo 50

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4725 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bằng những ví dụ thực tế ở Việt Nam khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhâp WTO để làm rõ mối quan hệ của pháp luật vầ kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có, pháp luật bảo đảm xác lập mối quan hệ kinh tế phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường bảo đãm vận hành cơ chế để ngăn chặn và xử lý những trường hợp vi phạm trong quản lý kinh doanh. Trước yêu cầu đó cần hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nước ta để tạo ra một môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển kinh tế thị trường. Hiến pháp mới ban hành là văn bản cơ bản khẳng định những nguyên tắc nền tảng trên lĩnh vực kinh tế. Trước mắt cần khẩn trương sữa đổi, bổ sung và ban hành mới một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế phù hợp với yêu cầu mới. Để đãm bảo thực sự sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm long tin giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước với pháp luật, cần phải ban hành các văn bản luật do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành. Trước mắt cần phải sớm ban hành bộ luật dân sự và một số luật khác liên quan đến vấn đề sở hữu. Phát triển nền kinh tế có kế hoạch là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần kết hợp kế hoạch với thị trường, bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích kinh tế toàn dân với lợi ích kinh tế của các tổ chức sản xuất kinh doanh. Các đơn vị kinh tế của các địa phương được quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm kết quả hoạt động của mình, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước. Để quản lý kinh tế hiệu quả Nhà nước cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật kinh tế, bộ máy quản lý kinh tế đã chuyển trọng tâm từ quản lý trực tiếp sang quản lý hành chính kinh tế ở tầm vĩ mô với những nội dung mới: - Định hướng và tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển; - Xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ để tạo ra tự do và bình đẳng trong hoạt động kinh tế của mọi thành phần kinh tế; - Tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ cho các chủ thể tham gia kinh tế; - Điều tiết kinh tế thị trường, hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường; - Chăm lo phúc lợi xã hội cho mọi thành viên xã hội, chú ý quan tâm đến các đối tượng xã hội 2 Những phát triển mới của pháp luật Việt Nam khi hội nhập kinh tế, ra nhập tổ chức WTO Những phát triển mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn này thể hiện ở những nét lớn cơ bản sau đây. Thứ nhất là có những phát triển mới rất quan trọng trong nhận thức lý luận về nhà nước và pháp luật nói chung, về hệ thống pháp luật nói riêng. Quan điểm, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, là sự thể hiện quá trình đổi mới tư duy, gắn liền với quá trình hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước và xuất phát từ những tiền đề kinh tế, chính trị – xã hội và những ảnh hưởng, tác động của xu thế hội nhập kinh tế – quốc tế. Quan điểm đó là cơ sở cho hoạch định chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với những mục tiêu rất cụ thể, được xác định rõ ràng: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và hoàn thiện pháp luật, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.Nhận thức lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bước phát triển vận dụng sáng tạo những nguyên lý phổ biến, những giá trị chung của nhân loại về Nhà nước pháp quyền với những đặc trưng cơ bản sau đây: - Bản chất của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. - Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. - Khẳng định và đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội; đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội; - Bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; - Từng bước nhận thức và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. - Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng đầy đủ, thiết thực hơn và ngày càng tăng cường, đảm bảo tính khả thi. Trong hơn hai mươi năm đổi mới, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng, ban hành và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm sự phát triển của đất nước trong khuôn khổ của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho các quan hệ xã hội hiện hữu trong từng giai đoạn được phát triển đúng đắn, tạo nên một trật tự pháp luật ổn định, góp phần làm nên diện mạo của Nhà nước pháp quyền ngày hôm nay. Trong thời gian qua, không chỉ các đạo luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện, tiến độ lập pháp được đẩy nhanh và chất lượng hoạt động lập pháp ngày càng được nâng cao, mà các đạo luật và bộ luật trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, tài chính, tín dụng, đầu tư, đất đai, sở hữu trí tuệ, các vấn đề xã hội, giáo dục, y tế, đặc biệt là các bộ luật về thủ tục hành chính và tư pháp đã được xây dựng, ban hành, đáp ứng kịp thời yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ đa dạng trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn với nền kinh tế toàn cầu và khu vực tạo nên một thể chế thị trường thống nhất, đồng bộ. Thứ ba, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng thể hiện rõ ràng, đầy đủ tính chất dân chủ, nhân đạo và nhân văn cao cả, tính công khai, minh bạch. Ở Việt Nam, các đạo luật ngày càng nhiều hơn, giữ vị trí chủ đạo, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội, từng bước khắc phục sự lạm dụng các văn bản dưới luật. Pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, đảm bảo tính dân chủ trong sáng kiến pháp luật, quy trình làm luật, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân, các chuyên gia vào quá trình xây dựng, thẩm định và phản biện các văn bản. Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật tạo khả năng để người dân tiếp cận pháp luật và dịch vụ pháp lý nhanh hơn, giản tiện và ít tốn kém hơn. Nhà nước Việt Nam đã tiến hành chế độ phát hành công báo công khai, đăng tải pháp luật (và các dự thảo luật) trên các phương tiện thông tin đại chúng. Toà án nhân dân tối cao đã tiến hành công bố công khai các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao… Nhà nước thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, tăng cường các đạo luật về thủ tục tố tụng, các cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật – tăng cường pháp luật về đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chính sách hình sự theo xu hướng giảm nhẹ hình phạt… Thứ tư, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, hài hoà, thống nhất với giá trị pháp lý chung của quốc tế và khu vực. Tất cả các văn bản pháp luật được Nhà nước Việt Nam ban hành trong thời gian qua đều thể hiện nguyên tắc tôn trọng các cam kết, các Điều ước quốc tế. Mặt khác, sự hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật, sự tiếp nhận những giá trị, tinh hoa của nhân loại trong xây dựng pháp luật trên cơ sở đảm bảo sự hài hoà giữa văn hoá truyền thống và hiện đại là yêu cầu mang tính nguyên tắc được quán triệt trong quá trình lập pháp, thi hành và áp dụng pháp luật. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này được thể hiện trong sự gắn kết giữa mục tiêu và các nguyên tắc của hệ thống pháp luật Việt Nam với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương ASEAN cũng như các văn kiện quốc tế khác. Việt Nam đã và đang tiến hành hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình phù hợp với cam kết WTO về sở hữu trí tuệ, hệ thống thuế, pháp luật đầu tư, pháp luật doanh nghiệp…, cải cách hệ thống thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng tư pháp, hệ thống trọng tài, luật sư…, pháp luật cạnh tranh chống độc quyền, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, luật phá sản v.v… Việt Nam cũng đã ban hành Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống tham nhũng và nhiều văn bản luật khác. Pháp luật Việt Nam có sự thay đổi rất lớn, để phù hợp với nền kinh tế thị trường, khi Viêt Nam mở cửa hội nhập kinh tế thế giới. Thể hiện rõ nét thông qua 2 bản hiến pháp 1946 và hiến pháp 1992. Năm 1946 miền bắc mới giành chính quyền , nền kinh tế còn gặp rấ nhiều khó khăn. Với nền kinh tê quan liêu bao cấp, hiến pháp 1946 quy định: Loại hình kinh tế là sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân ), là loại hình sở hữu mà một cộng đồng các thành viên của xã hội chiếm chung tư liệu sản xuất ở những qui mô khác nhau , liên kết với nhau trong lao động và có địa vị ngang nhau về kinh tế. Việc sử dụng, chi phối tơ liệu sản xuất đều phục tùng lợi ích xã hội là khi tư liệu sản xuất thuộc toàn xã hội thì sản xuất hàng hóa và Trao đổi hàng hóa sẽ không còn.Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa khi đó thì sản phẩm lao động không còn bị người bóc lột chiếm hữu mà được phân phối theo lợi ích ngơời lao động , dùng cho nhu cầu chung của xã hội.  Còn sau đại hội VI đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới. Nền kinh tế có sự mở rộng, giao lưu quốc tế. thì hiến pháp 1992 lại có sự thay đổi mới cho phù hợp với tình hình kinh tế mới - Hiến Pháp năm 1992 :Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trơờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN . Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất ,kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng. Các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh , KT tập thẻ , KT cá thể , kinh tế tư bản tư nhân và KT tư bản nhà nước , KT có vốn đầu tơ nước ngoài. Điều 20 : KT tập thể do công dân góp vốn , góp sức lực hợp tác sản xuất , kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện , dân chủ và cùng có lợi.NN tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.  Điều 21 : KT cá thể , kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức SX , KD được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.KT gia đình được khuyến khích phát triển.  Điều 24 :NN thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động KT đối ngoại , phát triển các hình thức quan hệ KT với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập , chủ quyền và cùng có lợi , bảo vệ thúc đẩy sản xuất trong nước. Điều 25 : NN khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tơ vốn , công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, Pháp luật và thông lệ quốc tế , đảm bảo quyền sở hữu hợp tác đối với vốn , tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài.Doanh nghiệp có vốn đầu tơ nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nền KT nước ta qua từng thời kì đã phát triển ngày càng đa dạng phong phú, đáp ứng đơợc nhu cầu của xã hội . Trước kia nền KT chỉ bó buộc trong phạm vi lãnh thổ nay đã phát triển ra phạm vi quốc tế. Nền Kt vốn nghèo nàn lạc hậu biến thành một nền KT quốc dân theo CNXH với nền công nghiệp và Nông nghiệp hiện đại , khoa học kĩ thuật tiên tiến. 2. Một số thành tựu cụ thể: Về số lượng, trong những năm 2004 – 2009, Quốc hội đã ban hành 103 luật và các bộ luật. Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản pháp quy do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước ban hành. Trước đây, từ năm 1946 đến năm 1986, Quốc hội chỉ ban hành được 32 văn bản (Hiến pháp, luật, bộ luật); trong thời kỳ Đổi mới, từ năm 1987 đến 1992, Quốc hội khoá VIII đã ban hành 32 văn bản; Quốc hội khoá IX (1992 – 1997) ban hành 41 văn bản. Các văn bản pháp luật giai đoạn này đã thể hiện những nội dung về những định hướng chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010 của Đảng, cụ thể: 2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Cùng với sự đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật là quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các thiết chế, tổ chức xã hội. Các luật tổ chức: Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, HĐND và UBND… không ngừng được hoàn thiện. Các luật có liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng được ban hành như: Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2007; Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Theo Chiến lược lập pháp, Nhà nước Việt Nam tiến hành xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước; Chính phủ tập trung vào chức năng quản lý, điều hành vĩ mô, thực hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Đến năm 2010 sẽ xoá bỏ vai trò chủ quản của cơ quan hành chính đối với doanh nghiệp để các cơ quan này tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước theo luật, đẩy mạnh xã hội hoá một số dịch vụ công (TP. Hồ Chí Minh đang triển khai tổ chức Thừa phát lại). Đặc biệt, cải cách thủ tục hành chính là một nội dung quan trọng trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước giai đoạn 2007-2010 được Thủ tướng ban hành theo Quyết định số 30/QĐ – TTg ngày 10/01/2007 đã được triển khai và kết thúc giai đoạn 1 với việc công bố bộ thủ tục hành chính của các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là một đề án lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp. Các bộ luật tố tụng tư pháp (dân sự và hình sự) đã xác định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trung tâm là Toà án, bảo đảm Toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử, đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng tư pháp nói chung. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không những chỉ ghi nhận và đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự mà còn xác định lại vị trí, vai trò tố tụng của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và các chủ thể khác trong tố tụng dân sự như luật sư, công chứng viên, giám định viên… Có thể nói, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là bước đầu pháp điển hoá pháp luật về tố tụng dân sự, góp phần khắc phục những hạn chế trong pháp luật về tố tụng dân sự nói riêng. Gần đây, Luật Thi hành án dân sự được ban hành năm 2008 đã tăng cường cơ sở pháp lý cho cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. 2.2. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân Trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, vấn đề lồng ghép giới, bảo đảm bình đẳng giới là một yêu cầu quan trọng. Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực trong gia đình đã được ban hành. Các văn bản pháp luật như Luật Sở hữu trí tuệ (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Nhà ở… đã được ban hành nhằm hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là Toà án trong việc bảo vệ các quyền tự do, dân chủ. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009; Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 được sửa đổi, bổ sung năm 2005 đã củng cố cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. 2.3. Các đạo luật và bộ luật đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà quan trọng nhất là pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm Thành tựu nổi bật nhất với việc ban hành Bộ luật dân sự năm 2005 là sự thống nhất pháp luật về hợp đồng. Tiếp theo là sự thống nhất pháp luật doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp năm 2005), mặc dù Luật Doanh nghiệp Nhà nước vẫn tiếp tục có hiệu lực, rồi tiếp đến là thống nhất pháp luật đầu tư. Còn Luật Thương mại thì đã được phát triển theo hướng mở rộng và chuyên biệt hóa. Đây là những điểm sáng của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường ở Việt Nam, là cơ sở cho sự thống nhất hệ thống “luật đầu tư”, tạo tiền đề cho hoàn thiện thể chế thị trường định hướng XHCN. Đến nay, Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Đầu tư năm 2005; Luật Nhà ở năm 2005; Luật Giao dịch điện tử năm 2005… đã tạo cơ sở cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường; ban hành các đạo luật về tài nguyên, môi trường theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ, phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.  2.4. Không ngừng hoàn thiện pháp luật về giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ; y tế, văn hoá – thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật Giáo dục năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009); Luật Đa dạng sinh học năm 2008; Luật Công nghệ cao năm 2008; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007; Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009… và rất nhiều văn bản pháp luật về chính sách xã hội được ban hành. Hiện tại, Dự án Luật Nuôi con nuôi đang được soạn thảo, dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào năm 2010.5 Hoàn thiện các văn bản áp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, ự, an toàn xã hội Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với bối cảnh quốc tế hiện nay, Nhà nước ta vẫn không ngừng quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia. Các luật liên quan đến lĩnh vực này đã được ban hành như: Luật An ninh quốc gia năm 2004; Luật Quốc phòng năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2005; Luật Công an nhân dân năm 2005; Luật sửa đổi một số điều Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2008;…Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là hoàn thiện pháp luật phòng, chống tội phạm trên cơ sở phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với các loại tội ít nghiêm trọng. 2.6. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường…Trong những năm qua, các đạo luật đã thể hiện việc ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã khẩn trương hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu gia nhập WTO, thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy đủ vào AFTA năm 2006, phê chuẩn Hiến chương ASEAN, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế phù hợp với tập quán thương mại quốc tế (tăng cường trọng tài, hoà giải). Việt Nam đã ban hành Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, đang tiến hành xây dựng Luật Trọng tài thương mại,… 3. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam Bất cập rõ nét nhất, bao trùm nhất là tính khả thi, tính hiệu quả của pháp luật còn rất thấp. Điều này được thể hiện ở chỗ các văn bản của pháp luật càng nhiều hơn nhưng các đạo luật thay đổi thường xuyên, tốn kém nhiều tiền của, nguồn lực cho việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật. Chúng ta cũng có thể giải thích rằng nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi, các quan hệ kinh tế – xã hội chưa ổn định, luôn nảy sinh vấn đề mới. Tuy nhiên, việc pháp luật, các đạo luật thay đổi thường xuyên làm cho trật tự pháp luật không ổn định, pháp luật không thực sự đi vào cuộc sống. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của hệ thống pháp luật. Nhưng nguyên nhân đầu tiên, nguyên nhân cơ bản nhất đó là do hệ thống pháp luật Việt Nam chưa thật sự đồng bộ, chưa đầy đủ và thiếu tính hệ thống. Nguồn gốc sâu xa của tình trạng này là thực trạng nhận thức về pháp luật và hệ thống pháp luật chưa khoa học. Chúng ta quan tâm quá nhiều đến lập pháp, ban hành nhiều đạo luật, nhưng những thay đổi cơ bản trong tư duy, lý luận mới chỉ được thể hiện ở tầm vĩ mô, trong chính sách và các văn bản pháp luật nên rất khó và chậm đi vào cuộc sống. Quy trình và thủ tục để pháp luật đi vào cuộc sống quá phiền hà và tốn kém. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Do đó, pháp luật phải phản ánh được ý chí, nguyện vọng và phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Mặt khác, điều quan trọng nhất trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật là phải thấy được vai trò và mối liên hệ biện chứng giữa pháp luật với đời sống xã hội, mối liên hệ giữa pháp luật với các bộ phận khác thuộc thượng tầng kiến trúc, hệ tư tưởng chính trị – pháp lý. Trong thời gian qua, quy trình soạn thảo, ban hành luật đã được đổi mới rất nhiều. Đa số các dự án luật đều được xây dựng trên cơ sở quy trình lập pháp dân chủ, tổng hợp ý kiến của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy từ các Dự thảo đến kết quả ban hành các đạo luật có nhiều cơ quan làm cho kết quả cuối cùng của văn bản luật chưa phản ánh thực tế yêu cầu cuộc sống. Vì vậy, cần bổ sung quy định về chủ thể thẩm tra dự án luật. Nên chăng, cần thành lập trong các ủy ban, hội đồng thẩm tra bao gồm các chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên ngành.  Bên cạnh đó, cần thấy được tính đa dạng của cuộc sống để đảm bảo tính linh hoạt của pháp luật bên cạnh yêu cầu về tính cưỡng chế, tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật là đại lượng chung mang tính thống nhất, phổ biến. Do đó, không thể đòi hỏi các quy định của các đạo luật quá cụ thể, chi tiết. Các quy phạm pháp luật dù cụ thể và chi tiết đến đâu, vẫn phải trong một mức độ nhất định mang tính khái quát. Ví dụ: quy định quá cụ thể như trong Bộ luật Dân sự về tỷ lệ lãi suất ngân hàng hay như trong Bộ luật Hình sự về mức độ giá trị để truy tố (500.000 đồng trước đây và 2 triệu đồng hiện nay) là quá gò ép, khiên cưỡng, thiếu thực tế. Một vụ ăn trộm một đàn vịt 100 con tính theo thời giá chưa đến 2 triệu đồng, chưa thể khởi tố. Nhưng đàn vịt 100 con đối với bà con nông dân tại huyện Tiên Lãng và nhiều nơi khác có giá trị lớn và ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân . Trong khi đó, tại nhiều nơi, nhiều vùng nông thôn, miền núi nước ta trong những năm gần đây nạn trộm cắp đang có chiều hướng gia tăng.  Tăng cường tính nghiêm minh, tính răn đe của pháp luật phải tiến hành đồng thời với giáo dục ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tăng cường các biện pháp bảo đảm tính thực thi của pháp luật. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp giáo dục, đề cao các quy tắc xử sự mang tính xã hội với các biện pháp chế tài mang tính hệ thống, đồng bộ là yêu cầu của điều chỉnh pháp luật, tăng cường đề cao vai trò pháp luật dân sự và các chế tài mang tính dân sự-kinh tế là yêu cầu của thể chế thị trường có hiệu quả. Do vậy, suy cho cùng, hiệu quả của pháp luật không chỉ dừng lại ở các đạo luật và bộ luật, mà là ở các thiết chế, tổ chức, cơ chế thực thi, đặc biệt là con người. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình cải cách đổi mới, cần thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung và tăng cường nâng cao trình độ nhận thức lý luận về nhà nước và pháp luật cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan, bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong cơ quan hành pháp và tư pháp, bởi vì nếu không có lý luận soi đường thì hoạt động thực tiễn sẽ hết sức tùy tiện, có thể làm cho pháp luật bị bóp méo, không có hiệu quả hoặc hiệu quả rất thấp kém. Một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền là độc lập của tư pháp. Vì vậy, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần đề cao và bảo đảm sự hài hòa giữa tính thống nhất của pháp luật với tính sáng tạo trong xét xử và thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án. CHƯƠNG 3: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSQ.doc