Đề tài Chi phí đại diện trong các công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu.4

Phần 1- Những vấn đềcơbản vềchi phí đại diện .5

1.Khái niệm vềchi phí đại diện .5

2. Phân loại .7

2.1. Chi phí đại diện của vốn cổphần .7

2.2. Chi phí đại diện của nợ.8

2.3. Chi phí đại diện do bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tưvà nhà quản

lý.8

3. Có thểtriệt tiêu hoàn toàn chi phí đại diện hay không ? .9

Phần 2 - Chi phí đại diện trong các công ty cổphần và Doanh nghiệp

Nhà nước .11

1. Trong công ty cổphần .11

2. Trong Doanh nghiệp Nhà nước .13

Phần 3- Giải pháp cho vấn đềchi phí đại diện .19

1.Trong công ty cổphần .19

2.Trong Doanh nghiệp Nhà nước .27

Lời kết .30

Tài liệu tham khảo .31

pdf31 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4413 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi phí đại diện trong các công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông tin mà các nhà quản lý nắm giữ như kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, các nguồn tài trợ, các dự án đầu tư… khi đó nhà đầu tư sẽ có những quyết định không đúng. Điều chúng ta dễ thấy, đó là sự thao túng giá cổ phiếu của một số cổ đông. Bằng cách này, họ sẽ làm cho giá cổ phiếu của công ty tăng cao. Các nhà đầu tư họ sẽ không có đầy đủ thông tin để nhận biết điều này. Thông thường việc tăng giá là do công ty hoạt động có hiệu quả hay có một khả năng tăng trưởng trong tương lai. Các nhà đầu tư sẽ thông qua giá cổ phiếu trên thị trường mà có thể biết được công ty hoạt động có hiệu quả hay không. Nhưng sự tăng giá này chỉ do một số cổ đông liên kết với nhà đầu cơ tạo ra. Khi mà các nhà đầu tư nhận biết, thì lúc ấy giá cổ phiếu đã giảm mạnh. 9 3. Có thể triệt tiêu hoàn toàn chi phí đại diện hay không? Vấn đề người chủ- người đại diện sẽ dễ dàng được giải quyết nếu mọi người đều nhận được những thông tin ngang bằng nhau. Nếu thị trường lao động là hoàn hảo thì trong dài hạn những hành vi của nhà quản lý sẽ bị phát giác. Khi đó, nhà quản lý sẽ phải gánh chịu những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Vì vậy, các giám đốc không có động cơ để thực hiện hành vi này. Tuy nhiên, trong thưc tế thị trường lao động là không hoàn hảo, thông tin nhà đầu tư và nhà quản lí có được là rất khác nhau do đó chi phí đại diện vẫn luôn tồn tại và chúng ta chỉ hướng tới mục tiêu giảm thiểu chi phí này chứ không phải triệt tiêu nó hoàn toàn. 10 PHẦN 2 CHI PHÍ ĐẠI DIỆN TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1. Trong các công ty cổ phần Mối quan hệ giữa cổ đông (người sở hữu vốn công ty) và giám đốc (người được thuê quản trị vốn) và nhiều vấn đề của mối quan hệ này đã được các nhà nghiên cứu tài chính ở các nước kinh tế thị trường nghiên cứu từ lâu. Lý thuyết về mối quan hệ này cơ bản dựa trên sự chấp nhận rằng cổ đông và giám đốc luôn có khuynh hướng cá nhân, tư lợi và cơ hội. Vì thế, mặc dù cùng trong một công ty (công ty cổ phần), nhưng vì bản chất sở hữu vốn là khác nhau nên cổ đông và giám đốc tuy về hình thức là cùng hướng đến lợi ích cho công ty, nhưng về bản chất thì lại thường có đối kháng lợi ích. Lý thuyết này cho rằng khi giám đốc không sở hữu cổ phiếu hoặc sở hữu không đáng kể cổ phiếu của công ty thì giám đốc thường không cố gắng làm gia tăng lợi ích của cổ đông, cụ thể là làm gia tăng giá trị cổ phiếu. Mà ngược lại, giám đốc sẵn sàng đeo đuổi những phương án kinh doanh, đầu tư, chi tiêu... không mang đến hiệu quả cao nhất, thậm chí không hiệu quả nếu các phương án, chi tiêu này là có lợi cho giám đốc về lợi ích vật chất, có thể là tiền bạc, có thể là các kỳ nghỉ, có thể là phương tiện đi lại, phòng ốc làm việc xa xỉ... vì những chi tiêu không hiệu quả này cụ thể hóa thành chi phí, cổ đông sẽ gánh chịu. Tất cả các chi phí này gọi chung là chi phí đại diện - chi phí phát sinh do giám đốc và cổ đông không đồng nhất về mục đích lợi ích. 11 Chấp nhận lý thuyết về mối quan hệ này trong cơ chế thị trường, có nghĩa là chấp nhận khuynh hướng tư lợi của giám đốc, các công ty cổ phần đã có cách giải quyết thực tế và hiệu quả hơn nạn tham nhũng trong công ty. Bài học thực tế CÔNG TY COCA – COLA Vào khoảng những năm 1994-1996, công ty Coca Cola khi mới thâm nhập thị trường Việt Nam công ty phải tồn tại dưới hình thức là công ty liên doanh, do thời kì đó chính phủ nước ta chưa cho phép thành lập công ty có 100% vốn nước ngòai nên có 30% là vốn của doanh nghiệp Việt Nam, 70% là của tập đoàn công ty mẹ bên Mỹ. Trong trường hợp này ta có thể xem công ty Việt Nam đóng vai trò là chủ nợ đầu tư vào công ty liên doanh, công ty Coca Cola Mỹ là chủ sở hữu.Với mục tiêu biến công ty liên doanh trên thành công ty 100% vốn nước ngòai, công ty Coca Cola Mỹ đã cố tình điều hành công ty liên doanh làm ăn thua lỗ trong thời gian dài, vì tiềm lực tài chính hạn hẹp công ty Việt Nam không thể tiếp tục đầu tư. Mặt khác với tình hình làm ăn thua lỗ kéo dài đã làm giá trị công ty liên doanh sụt giàm nghiêm trọng, trong tình hình đó công ty Việt Nam phài chấp nhận bán lại cổ phần của mình cho công ty Coca Cola Mỹ với giá rất thấp so với khỏan đầu tư ban đầu mà công ty Việt Nam đã bỏ ra đầu tư. Bằng chiến lược kinh doanh như vậy, công ty Coca Cola Mỹ đã chiếm đoạt tài sản của chủ nợ là công ty Việt Nam. Công ty Việt Nam phải gánh chịu thiệt hại. Đây cũng là một hình thức của chi phí đại diện. 12 2. Trong các Doanh nghiệp Nhà nước Đối với các công ty nhà nước trong cơ chế thị trường, nếu không nhìn nhận một cách thực tế mối quan hệ chủ sở hữu vốn (ở đây là nhà nước - đại diện cho dân) và giám đốc thì chắc chắn sẽ không hạn chế được các loại chi phí phát sinh từ mối quan hệ này. Các chi phí này không là gì khác mà chính là tư lợi và tham nhũng. Chi phí đại diện xuất hiện trong doanh nghiệp nhà nước không chỉ là việc chi trả tiền lương, thưởng, các tổn thất có thể nhìn thấy trước mắt, mà còn những chi phí ẩn đằng sau mà do sức ỳ tâm lý, sự lề mề, thụ động gây ra. Với mức đóng góp 50% cho ngân sách, các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được coi là chủ lực, nhưng là chủ lực trên mảnh đất màu mỡ. Trước hết phải kể đến nhóm khai thác tài nguyên gồm hai ngành quan trọng là dầu khí và than đá. Hai tập đoàn này đã đóng góp một số thu lớn vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên số thu này không nói lên tài năng kinh doanh mà là do giá cả tài nguyên, họ là người thay mặt nhà nước khai thác tài nguyên để bán. Trong lĩnh vực này chưa chứng tỏ được sự vượt trội nào về áp dụng KHCN hay cải tiến quản lý, làm ra giá trị gia tăng. Ngay như Petro Vietnam, tập đoàn hàng đầu hiện được coi là quả đấm thép của nền kinh tế, có tuổi đời hơn 20 năm, nhưng thời gian qua, tập đoàn này chỉ làm được mỗi việc là hút dầu thô lên để bán. Còn việc xây dựng nhà máy lọc dầu nhằm đa dạng hóa sản phẩm đang là chuyện của tương lai. Một số lĩnh vực khác có đóng góp lớn cho ngân sách là Bia, thuốc lá, bảo hiểm, hàng không. Đây là những ngành đặc biệt, tỷ suất lợi nhuận cao, hiện nhà nước đang giữ độc quyền, khu vực ngoài quốc doanh chưa thể len chân được. Tuy nhiên, nguồn ngân sách thu được chủ yếu là thuế gián thu (thu từ người tiêu dùng). DNNN với chức năng tổ chức sản xuất, cộng với việc xây dựng đại lý bán hàng, thu thuế từ người tiêu dùng thông qua giá bán trực tiếp. Những DN dạng này, đã có 13 những bước tiến nhất định, nhưng nếu đủ sức để cạnh tranh với các nước khu vực thì vẫn là chuyện quá sớm, mặc dù tuổi đời của chúng cũng không hề thua kém các nước khu vực. Nếu muốn thực sự là chủ lực, hãy tiên phong trên những trận chiến nóng bỏng, cày quốc trên những mảnh đất xương xẩu. Còn nếu chủ lực chỉ nhăm nhăm cái gì dễ thì làm, như vậy có còn xứng đáng là chủ lực không? DNNN là loại hình sở hữu toàn dân, ông chủ Nhà nước đã giao cho một hoặc một nhóm cá nhân đại diện làm điều đó. Người được giao trọng trách quản lý tài sản nhà nước thường là Hội đồng quản trị (HĐQT) do Chủ tịch đứng đầu. Những ông chủ này không có đầy đủ quyền năng (gồm quyền sử dụng, chuyển nhượng và định đoạt) mà chỉ là một số quyền nhất định. Thường, họ không có một đồng cắc nào trong DN, nên hầu hết những ông chủ tịch HĐQT này cho rằng, mình là ông chủ giả. TGĐ cũng vậy, là người làm công ăn lương 100%, về danh nghĩa, họ là ông chủ nhưng không có vốn. “Đồng tiền đi liền khúc ruột”, vốn của nhà nước, lãi nhà nước được, lỗ nhà nước chịu. Với tư cách là ông chủ, họ cần phải chuẩn bị đầy đủ thủ tục. Nếu lỡ có thua lỗ, có đơn thư khiếu kiện, các cơ quan thanh tra vào cuộc, có đủ giấy tờ chứng minh rằng quy trình họ không sai là đủ. Nộp nhiều tiền cho ngân sách cùng lắm cũng chỉ được khen thưởng. “Được khen thì ho hen đầy mình”, không khéo bị một vài ông chọc ngoáy, tìm kiếm một vài sơ suất nào đó lại rơi vào vòng lao lý dễ như bỡn. Chẳng dại gì. Nếu lỡ có làm ăn được, phải biết tiêu. Đã là DNNN phải chịu cả chục hàng rào giám sát, tưởng như không con ruồi nào có thể chui lọt. Thực tế là, muốn bổ nhiệm một cán bộ, trước hết phải là người nằm trong diện quy hoạch. Người này nhiều năm liền phải không có khuyết điểm nào và được đánh giá tốt về phẩm chất đạo đức cách mạng. Sau đó lấy ý kiến của cấp ủy, của các đơn vị trực thuộc, của đảng úy khối, của cơ quan chủ quản, Ban nội 14 chính, Ban Tổ chức, Ban kiểm tra nội bộ... Bằng ấy vòng mới được đưa ra bỏ phiếu rồi bổ nhiệm. Tưởng như thế, các DNNN sẽ có những cán bộ bằng vàng ròng. Tuy nhiên, thực tiễn diễn ra lại không như mong muốn. Qua nhiều năm đổi mới DNNN, chúng ta vẫn có hàng chục cán bộ yếu kém về năng lực, trong đó có không ít lãnh đạo DNNN phải truy tố vì tội tham nhũng. Một nhà nghiên cứu kinh tế nói: Với DNNN, cái gì cũng phải thông qua cấp ủy, phải được cấp ủy đồng ý, ra quyết định, tuy nhiên, chưa bao giờ cáp ủy phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. DNNN là DN nhưng vận hành theo nền hành chính. Do lãnh đạo DNNN chỉ là người được nhà nước cử để quản lý và kinh doanh vốn của NN nên mọi quyết định trong DN đều tuân thủ quy trình hành chính. Một giám đốc DNNN lấy ví dụ: muốn mua sắm hay đầu tư cái gì, dù nhỏ cũng phải tuần tự lên kế hoạch, làm tờ trình, xin được phê duyệt, gọi thầu, đấu thầu... Nếu chỉ cần bỏ qua một trong các bước đó đã có thể bị truy cứu về tội “cố ý làm trái”. Không chỉ đầu tư, mua sắm mà ngay cả tuyển dụng, điều chuyển, bổ nhiệm cán bộ đều phải vận hành theo cơ chế tương tự. Trong khi đó sự vận hành của thương trường đòi hỏi sự tranh thủ thời gian, nắm bắt cơ hội, có như thế mới có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Có thể nói rằng, ở nước ta hiện nay, trong các doanh nghiệp nhà nước, chi phí đại diện là khá lớn. Trong điều kiện tách rời quyền sở hữu và quyền quản lý trong cá doanh nghiệp nhà nước, nhà nứơc với tư cách là chủ sở hữu, phải thiết lập được một cấu trúc để kiểm soát những người làm thuê là các giám đốc hoặc các nhà quản lý để đảm bảo tính hiệu quả trong kinh doanh và duy trì các chi phí giao dịch ở một mức độ thấp nhất có thể được. Thế nhưng, không bao giờ có sự đồng nhất tuyệt đối trong mục tiêu giữa người chủ và người đại diện trong quá trình hoạt động cho dù đó là các DNNN. Người đại diện trong các DNNN vẫn có những mục tiêu khác với ông chủ nhà nước, mà hiện tượng “công ty một nhà”, “công ty thân hưu” hoặc tình trạng tham nhũng lãng phí tràn lan trong các DNNN là nỗi ám ảnh 15 thường trực của ông chủ khi không ít nhà quản lí do nhà nước bổ nhiệm lại tìm mọi thủ đoạn để làm thất thoát tài sản. vấn đề chi phí đại diện trong các DNNN nhiều khi còn phức tạp và khó nhận diện hơn cả doanh nghịêp khu vực tư nhân. Đối với sở hữu tư nhân, các cổ đông cá nhân có quyền lợi và trách nhiệm liên quan trực tiếp đến tài sản cá nhân. Do vậy, họ có động lực mạnh mẽ trong theo dõi, kiểm soát việc sử dụng, sinh lời đồng tiền của mình khi giao cho người quản lý. Đối với chủ sở hữu là nhà nước, sở hữu nhà nước là sở hữu toàn dân. Có thể xem chính phủ là đại diện của sở hữu toàn dân trong công ty nhà nước. Tuy nhiên, chính phủ có những thể chế mà có những cá nhân, tập thể được chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện việc quản lý vốn nhà nước trong công ty. Những cá nhân, tập thể đó thực chất cũng là người đại diện, được ủy quyền quản lý vốn chứ không phải là những người sở hữu cá nhân đối với tài sản mà mình quản lý. Như vậy, sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước rất phân tán và nhình chung những người sở hữu cuối cùng đối với tài sản nhà nước cũng không có khái niệm rõ ràng về thực hiện quyền làm chủ này như thế nào vì đó là sở hữu thuộc về sở hữu toàn dân hay của những người đóng thuế. Việc quản lý vốn trong doanh nghiệp nhà nước là rất quan trọng, nó được thực hiện qua cơ chế người đại diện quản lý người đại diện. Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân quản lý theo cơ chế người sở hữu quản lý người đại diện. Trong một nền kinh tế hệ thống pháp luật các quan hệ kinh doanh chưa hoàn thiện rất dễ xảy ra tiêu cực. Đây là lý do tại sao Việt Nam hay có những vụ tham nhũng lớn liên quan tới tài sản của nhà nước. Những vụ tham nhũng từ tài sản tư nhân rất ít xảy ra. Sở hữu trong công ty nhà nước mang tính chất rất phân tán. Việc quản lý, sử dụng nó hoàn toàn qua nhiều cấp những người đại diện sở hữu. Sở hữu toàn dân được giao cho chính phủ quản lý, chính phủ sau đó lại giao cho người đại diện sở hữu khác (bộ, ngành). Sau đó lại được giao cho người đại diện khác (hội đồng 16 quản trị). Cuối cùng hội đồng quản trị giao cho tổng giám đốc với vai trò điều hành việc sử dụng nguồn vốn trên. Do vậy, khả năng kiểm soát của người chủ sở hữu đối với người đại diện cũng xa vời và khó khăn. Xu hướng không sử dụng hết và sử dụng kém hiệu quả các thông tin “được cung cấp” cũng rất phổ biến. Quốc hội, chính phủ không có đủ thông tin cần thiết về toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước; các bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh không có đủ thông tin về từng doanh nghiệp nói riêng và tất cả các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý nói chung; hội đồng quản trị các tổng công ty không có đủ thông tin cần thiết về từng đơn vị thành viên và toàn bộ tổng công ty. Giám đốc công ty không có đủ thông tin cần thiết về từng chi nhánh, đơn vị kinh doanh trực thuộc… Vì vậy, vấn đề người đại diện trong doanh nghiệp nhà nước có khả năng xảy ra ở nhiều cấp- từ cấp thấp nhất. Nguyên nhân căn bản của tình trạng trên là do bản chất tư lợi, luôn quan tâm đến tài sản cá nhân hơn tài sản tập thể. Điều này dẫn đến chi phí đại diện trong các doanh nghiệp nhà nước lớn và sự hoạt động kém hiệu quả, thất thoát,lãng phí của một số công ty nhà nước. Những yếu kém trên đã thúc đẩy quá trình cổ phần hóa mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước và không ngừng tìm cách minh bạch hóa thông tin và bài toán sử dụng vốn nhà nước. Trong hơn 20 năm qua tuy đã đạt nhiều thành tựu nhưng hiệu lực chưa được hòan toàn. Nó phụ thuộc vào tính kỷ luật của những người quản lý, những người đại diện quyền chủ sở hữu, tính nhất quán và nghiêm khắc trong thực thi luật pháp, nhất là trong xử lý những cá nhân không công khai hóa các lợi ích liên quan theo quy định. Có thể nêu lên một vài vụ việc ở nước ta liên quan đến chi phí đại diện mà đều có điểm chung là do người điều hành lợi dụng nhiệm vụ được các cổ đông giao 17 phó để hành động vì mục đích tư lợi cá nhân, gây hậu quả nghiêm trọng đến doanh nghiệp. 9 Pjico là một công ty cổ phần, tuy nhiên, sở hữu nhà nước chiếm đa số. Với cơ cấu sở hữu nhà nước chiếm tuyệt đối như vậy, có thể thấy Pjico mang tính chất sở hữu nhà nước. Tại hội đồng quản trị của Pjico, các thành viên chủ chốt đa số là đại diện của các công ty vốn nhà nước như Petrolimex, VCB, VSC…Cơ chế quản lý nội bộ của chủ sở hữu đối với người điều hành chưa cao. Vì thế, người điều hành Pjico qua mặt HĐQT một vụ bồi thường có nhiều khúc mắc trị giá tới 3,8 tỷ đồng. Người bị ảnh hưởng trực tiếp từ vụ bê bối này của người điều hành là các cổ đông. Tại Pjico, cổ đông chủ yếu là nhà nước và các cổ đông tư nhân. Do vậy, có thể nhận thấy sự thất thoát rất lớn từ nguồn vốn nhà nước mà căn bản là đi từ nguồn đóng góp, thuế của nhân dân, vào tay một số người, làm mất tính hiệu quả của đồng vốn. 9 Một vụ án nổi tiếng liên quan đến động cơ của người nắm vai trò điều hành là vụ tham ô, cố ý làm trái của Lã Thị Kim Oanh. Chỉ là giám đốc một công ty nhà nước, nhưng được sự hỗ trợ của nhiều cán bộ thuộc một số ngành khác nhau, Lã Thị Kim Oanh đã chiếm dụng và gây thiệt hại cho nhà nước hàng trăm tỉ đồng. 9 Bùi Tiến Dũng lợi dụng quyền hạn và tiếng tăm của mình tổ chức những đường dây cá độ và sử dụng những đồng vốn ODA để tư lợi cá nhân. Vụ án đã gây chấn động dư luận Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp ODA cho Việt Nam, trong đó có Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới. Họ quan ngại việc quản lý không chặt nguồn vốn vay, làm cho vốn đó bị sử dụng sai mục đích, không giúp được Việt Nam cải thiện cơ sở hạ tầng. Qủa thật là một chi phí quá lớn cho sự điều hành lãnh đạo trong quá trình phát triển kinh tế. 18 PHẦN 3 GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Hơn lúc nào hết, vấn đề chi phí đại diện trong doanh nghiệp dường như trở lên rất nóng. Nhiều doanh nghiệp đã tiến hành tái cơ cấu mạnh, cắt giảm nhân sự, điều chuyển, kết hợp các bộ phận, đóng cửa, tái cấu trúc từng phần hoặc toàn bộ để thích ứng tình hình khó khăn. Việc đề ra những giải pháp nhằm giảm thiểu chi phí đại diện trở nên cấp bách và rất cần thiết tại thời điểm hiện nay. 1. Trong các công ty cổ phần Trên lý thuyết, các cổ đông, người chủ sở hữu đích thực của một công ty, phải là người điều hành các hoạt động của nó. Song thật là một điều vô cùng khó khăn để có thể thống nhất hàng ngàn cổ đông của một công ty, mỗi người nắm một số cổ phần rất nhỏ của công ty, để đưa ra một quyết định nào đó. Trên thực tế, cổ đông của các tập đoàn lớn ngày nay rất phân tán và do đó quyền điều hành thực chất lại nằm trong tay các giám đốc điều hành. Các giám đốc điều hành là những người được các cổ đông uỷ quyền đứng ra điều hành công ty, đem lại lợi ích cho cả hai phía. Tuy nhiên, chính uỷ quyền trên lại gây sự tách rời hay sự chia cắt quyền sở hữu và quyền quản lý một doanh nghiệp. Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp làm nảy sinh các mối lo ngại rằng, những người quản lý sẽ theo đuổi những mục tiêu rất hấp dẫn đối với họ, song chưa chắc đã có lợi cho các cổ đông, cho công ty. Người uỷ quyền, chính là các cổ đông, phải tìm cách nào đó để đảm bảo người được uỷ quyền (các nhà quản lý) hành động vì quyền lợi của người uỷ quyền. Muốn đạt được điều này các cổ đông phải bỏ ra các "chi phí uỷ quyền" 19 để giám sát hoạt động của các nhà quản lý và tạo ra những cơ chế khuyến khích các nhà quản lý theo đuổi việc tối đa hoá lợi ích cho các cổ đông chứ không phải chỉ vì lợi ích cá nhân. Rất nhiều phương pháp được sử dụng để đồng nhất hành động của các nhà quản lý cấp cao với lợi ích của các cổ đông, vì một mục tiêu chung có lợi cho cả hai phía: 9 Gắn liền phần thưởng cho nhà quản lý với việc nâng cao lợi ích cho các cổ đông: Các cổ đông có thể thưởng cho các giám đốc và quản lý cấp cao bằng quyền mua cổ phiếu, cho phép các nhà quản lý mua cổ phiếu vào một ngày nhất định trong tương lai tại một mức giá cố định trước. Nếu giá cổ phiếu tăng mạnh kể từ ngày nhà quản lý được tặng quyền mua cổ phiếu và ngày thực hiện quyền mua này thì nhà quản lý thực sự sẽ kiếm được một gia tài bằng việc mua cổ phiếu ở mức giá địn trước và bán ra thị trường. Các nhà quản lý này có một lợi ích rõ ràng từ việc đẩy giá cổ phiếu lên và như vậy trong một mức độ nào đó đã đạt được sự đồng thuận với các cổ đông, bởi khi công ty hoạt động tốt thì cả hai sẽ cùng có lợi. Một phương pháp gần tương tự là phân phối cổ phiếu cho các nhà quản lý doanh nghiệp nếu họ đạt được một số mục tiêu nhất định xét trên kết quả hoạt động của công ty, ví dụ, đạt được mức tăng trưởng theo kế hoạch về thu nhập trên đầu cổ phiếu. 9 Sa thải: Nguy cơ bị sa thải, với sự mất mát về tài chính cũng như danh dự có thể sẽ động viên các nhà quản lý giúp họ không đi chệch hướng quá xa so với định hướng đem lại sự thính vượng của các cổ đông. Tuy nhiên, phương pháp này ít khi được sử dụng bởi vì nó khó thực thi. 9 Nguy cơ các nhà đầu tư bán cổ phiếu và công ty bị thâu tóm: hầu hết các cổ đông lớn (đặc biệt là các tổ chức đầu tư) của các công ty niêm yết lớn đều không có ý định bỏ ra những khoản chi phí lớn để điều hành và giám sát tất cả các 20 công ty mà nó giữ cổ phiếu. Hoàn toàn bình thường, phản ứng đầu tiên của các cổ đông lớn khi họ phát hiện ra rằng hoạt động quản trị đang không diễn ra theo cách mà họ cho là sẽ đem lại lợi ích tối đa là bán các cổ phiếu đó đi thay vì can thiệp vào các hoạt động đó. Điều này sẽ làm giảm giá cổ phiếu và khiến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn. Nếu quá trình này kéo dài, công ty có thể sẽ đứng trước nguy cơ bị thâu tóm bởi một công ty khác, và đương nhiên các vị trí quản lý cấp cao sẽ mất việc. Nỗi sợ hãi bị thâu tóm có thể sẽ tạo ra một số điểm dừng nhất định để ngăn ngừa việc lợi ích của cáccổ đông hoàn toàn bị bỏ qua. 9 Các qui định về quản chế tập đoàn: có rất nhiều áp lực về mặt pháp lý cũng như về giám sát (Ví dụ: Luật công ty) được tạo ra để thúc đẩy các nhà quản lý hành động vì lợi ích của cổ đông. Ví dụ, theo các qui định này ban giám đốc không thể do một người duy nhất đứng đầu vừa với tư cách chủ tịch vừa với tư các tổng giám đốc. Đồng thời, các giám đốc không mang tính chất điều hành, nên có thêm quyền lực để đại diện cho lợi ích cổ đông, đặc biệt, họ phải chiếm đa số trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến lương thưởng của các giám đốc và sổ sách kế toán của công ty. 9 Kiểm soát dòng thông tin: các công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, sàn giao dịch chứng khoán, các cơ quan quản lý và cộng đồng đầu tư liên tục đấu tranh để đòi các công ty đưa ra những thông tin chính xác, kịp thời và chi tiết về hoạt động của họ. Các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên với chất lượng cao hơn và sự hiện diện của các thông tin khác cho nhà đầu tư và các chuyên gia phân tích như các báo cáo tóm lược của công ty và các thông cáo báo chí sẽ giúp giám sát các công ty tốt hơn, và sớm phát hiện ra bất cứ một động thái nào của các nhà quản lý bướng bỉnh gây tổn hại lợi ích cho các cổ đông. 21 Ngoài ra, nhằm giảm thiểu các kiểu chi phí tiêu cực trong các công ty cổ phần, cổ đông mà cụ thể là hội đồng quản trị thường sử dụng song song hai hệ thống giải pháp, đó là: 9 Giám sát (monitoring mechanism) và động viên (incentive mechanism). Cụ thể là: một mặt, tăng cường kiểm soát, giám sát, đánh giá chi tiêu, đầu tư của giám đốc, gián tiếp sử dụng triệt để bên thứ ba là ngân hàng và các tổ chức tài chính kiểm soát hoạt động của giám đốc. 9 Mặt khác là gia tăng việc sở hữu vốn (cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu) của giám đốc, đồng thời với các biện pháp khuyến khích khen thưởng để kích thích tinh thần làm giàu cho cổ đông, cũng là cho chính giám đốc. Các nghiên cứu ở các nước kinh tế thị trường cho thấy, mức độ sở hữu vốn (cổ phiếu hoặc các quyền mua cổ phiếu) của giám đốc công ty cổ phần sẽ tỷ lệ nghịch với các loại chi phí tiêu cực. 9 Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, giáo dục tinh thần làm việc vì lợi ích chung của công ty cho bộ máy quản lý từ người quản lý cấp cao đến nhân viên. 9 Có cách thức trả lương cho giám đốc một cách hợp lý Một cơ chế thù lao hợp lý cho giám đốc phải bảo đảm được tối thiểu ba yêu cầu: 9 Thứ nhất, cơ chế thù lao đó phải có tác dụng khuyến khích nhà quản lý làm việc với nỗ lực cao nhất. Muốn vậy mức thù lao phải tỷ lệ thuận với mức độ nỗ lực của nhà quản lý. 9 Thứ hai, cơ chế thù lao phải khuyến khích nhà quản lý đồng thời quan tâm tới lợi ích ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. 9 Thứ ba, phải bảo đảm kiểm soát được mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp. 22 Như đã phân tích ở trên, tình trạng thông tin không cân xứng khiến cho nhà đầu tư không thể quan sát được mức độ nỗ lực của nhà quản lý. Tuy nhiên, nhà đầu tư có thể quan sát được kết quả công việc của nhà quản lý thông qua một số tiêu chí như lợi nhuận, dòng tiền, giá trị thị trường của doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế đó, một trong những cơ sở để xác định mức thù lao cho các nhà quản lý là lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp, dựa trên giả thiết lợi nhuận của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với mức độ nỗ lực của nhà quản lý. Tuy nhiên, sử dụng lợi nhuận để đánh giá hiệu quả công việc của các nhà quản lý có hai nhược điểm: 9 Lợi nhuận chịu ảnh hưởng của phương pháp kế toán áp dụng (phương pháp kế toán khác nhau dẫn tới mức lợi nhuận khác nhau) và thường phản ánh không đầy đủ nỗ lực của các nhà quản lý (do nguyên tắc thận trọng trong kế toán nên lợi nhuận thường không được ghi nhận kịp thời). 9 Trong nhiều trường hợp quyết định của nhà quản lý có thể không mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng sẽ mang lợi lợi nhuận trong dài hạn. Lợi nhuận kế toán không phản ánh được yếu tố tiềm năng này. Tiêu chí thứ hai thường được sử dụng để xác định mức thù lao của các nhà quản lý là dựa trên mức độ tăng giá trị doanh nghiệp, thể hiện ở mức tăng giá cổ phiếu.( Phương pháp này khắc phục được hai nhược điểm của lợi nhuận kế toán vì giá cổ phiếu không phụ thuộc vào phương pháp kế toán áp dụng, đồng thời giá trị cổ phiếu phản ánh thông tin về tiềm năng của doanh nghiệp cả trong ngắn hạn và dài hạn.) Mục tiêu của nhà đầu tư là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, vì vậy gắn thù lao của nhà quản lý với mức tăng giá cổ phiếu sẽ giúp đồng nhất hoá mục tiêu của nhà quản lý và nhà đầu tư, do đó hạn chế chi phí đại diện.( Tuy nhiên, cũng như lợi nhuận kế toán, cơ chế thù lao gắn với giá cổ phiếu cũng có những hạn chế. Giá trị cổ phiếu chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfChi phí đại diện trong các công ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan