Đề tài Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển

 Mục lục

A) Phần mở đầu

B) Phần nội dung

Chương1:Quan điểm phát triển

1) Sự phát triển và nguồn gốc của nó

1.1:Các khái niệm

1.2.Quan điểm phát triển

2)Nguồn gốc quan điểm phát triển

3).Quan điểm phát triển trong kinh tế

Chương2:Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển

1)Nguồn gốc tiền đề động lực cho quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam

2)Đổi mới kinh tế Việt Nam nhìn từ quan điểm phát triển

2.1.Nền kinh tế Việt nam trong thời kì đổi mới đánh giá qua các kì Đại hội

2.2.Tại sao phải vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

2.3.Ưu khuyết điểm nền kinh tế thị trường

2.3.1.Ưu điểm nền kinh tế thị trường

2.3.2.Những hạn chế khuyế điể nền kinh tế thị trường

3)Vận dụng quan điểm phát triển cho thực tại và tương lai

3.1.Bài học chủ yếu qua 15 năm đổi mới

3.2.Tiếp tục đổi mới công cuộc quản lí nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước

4)Một số kiến nghị chung

C)Phầnkết

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là hầu như không sắp xếp lại cơ sở sản suất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lí, không tập trung được nguồn năng lượng, nguyên liệu vật tư có hạn vào những cơ sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản suất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng cơ bản tuy đã đình hoãn một số công trình lớn tập trung vào một số trọng điểm, nhưng về căn bản vẫn chư điều chỉnh hợp lí, không kiên quyết hoãn những công trình chưa thật cấp bách và kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều công trình quy mô lớn. Khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. các địa phương các nghành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn và vật tư. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng nhất quán quan điểm chủ chương và chính sách cải tạo công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá ít chú ý những đặc điểm về tính chất của từng nghành, từng nghề, để lựa chon hình thức tổ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã qua mô lớn không tính đến khả năng trang bị kĩ thuât, trình độ quản lí và năng lực của cán bộ. Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết những vấn đề tổ chức quản lí và chế độ phân phối làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả; sau những đợt làm nóng vội lại buông lỏng. Do đó không ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ chức sản xuất chỉ là hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới. Việc chưa xắp xếp lại các nghành và các cơ sở sản xuất, chậm thay đổi cơ chế quản lí kinh tế đã dẫn tới làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế tập thể chậm được củng cố, hạn chế việc sử dụng và caỉ tạo các thành phần kinh tế khác. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán chư được mở rộng , ít tiến bộ về tổ chứcvà phương thức kinh doanh để làm chủ thị trường ;một bộ phận bị lôI cuốn vào những hoạt động tiêu cực, tuồn hàng cho tư thương. Thương nghiệp tư nhân chậm được cải tạo. Chúng ta cũng chưa đánh trúng và nghiêm trị bon đầu cơ, buôn lậu, bọn địch phá hoại thị trường. Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tảitong một thời gian tương đối dài, chư nắm vẵng và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Về cơ chế quản lí cho tới trước công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách,thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế mới còn chắp vá, không ăn khớp thậm chí tráI ngược nhau. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức vô kỉ luật cũng khá phổ biến. Việc chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lí, việc điều hành không nhạy bén, là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới. Một số người và cơ sở đã lợi dụng những sơ hở của cơ chế quản lí để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ. Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, còn nội dung , hình thức, bước đi, cách làm cụ thể, thì còn nhiều vấn đề chưa giảI đáp được thoả đáng cả về lí luận và thực tiễn. Rõ ràng chúng ta còn thiếu nhiều hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lí, lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm. Cho nên lúc bấy giờ phải khắc phục ngay cả hai khuynh hướng: bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới; và nóng vội, giản đơn, muốn giảI quyết mọi vấn đề trong một thời gian ngắn. Suốt những năm trước đổi mới lĩnh vực phân phối, lưu thông luôn căng thẳng rối ren. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã dành nhiều thời giờ vào công việc này, nhưng các giải pháp đưa ra chyưa thực sự có hiêu quả. Tình hình như vậy là hậu quả tổng hợp của nhiều yếu tố cùng tác động trong nền kinh tế và đời sống xã hội. Trước hết, đó là những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, và trong cảI tạo xã hội chủ nghĩa, là tác hại của của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp tồn tại nhiều năm trong quản lí kinh tế, dãn tới sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt. trong lúc đó lại chưa cảnh giác đầy đủ, thiếu những biện pháp ngăn chặn những phần tử xấu phá hoại. Chúng ta chưa có chính sách cơ bán về tài chính gắn liền với chính sách không đúng đắn về giá cả, tiền tệ – tín dụng, tiền lương. Nhà nước không điều tiết đúng mức thu nhập của tư thương, không tước đoạt những nguồn thu bất chính, không bảo vệ tốt tài sản quốc gia, chưa tập trung những nguồn thu quan trọng vào ngân sách và phân phối đúng các nguồn vốn, vật tư hàng hoá trong tay. Các khoản chi của ngân sách mang nặng tính bao cấp và trong một thời gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng các nguồn vốn vay và viện chợ kém hiệu quả. Chúng ta đã tiêu dùng cả một phần nguồn vốn từ bên ngoài và quỹ khấu hao cơ bản. tất cả các cái đó gây ra thâm hụt ngân sách, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lam phát trầm trọng. Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền đã phạm sai lầm . thiếu biện pháp đồng bộ có hiệu quả để nhà nước nắm được hàng và tiền. Các giải pháp cụ thể về định mức giá và quản lí giá, về định mức lương và quản lí quỹ lương, về đổi tiền và bước đi trong việc điều chỉnh giá, lương, tiền được tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo , không phù hợp với tình hình thực tế.sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo và quản lí kinh tế trong những năm trước đổi mới. Phát triển kinh tế đi đôi với việc phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng sự thay đổi của các nền văn minh, từ văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và hiện nay loài người đang tiến tới nền văn minh trí tuệ. Công bằng mà nói, tiếp cận, đánh giá sự phát triển xã hội từ nền văn minh trí tuệ, từ hoạt động sáng tạo năng động của con người, từ sự phát triển của khoa học, công nghệ điều đó hàm chứa những giá trị nhất định. Song những giá trị ấy không thể thay thế được lí luận về sự vận động sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội mà Mác đã xây dựng. Ngược lại, nó chỉ bổ sung làm sáng tỏ hơn lí luận của Mác trong thời đại phát triển công nghệ hiện nay. Triết học Mác nhấn mạnh rằng sự phát triển xã hội, xét đến cùng, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó cơ bản nhất là con người đang sống và lao động sản xuất. Cái khác nhau cơ bản của nền sản xuất không phải không phải ở chỗ người ta sản xuất ra cái gì mà là người ta sản xuất bằng cái gì và tiến hành sản xuất như thế nào. Lực lượng sản xuất bao giờ cũng là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong phương thức sản xuất. Song sự phát triển của lực lượng sản xuất không thể nằm ngoài quan hệ sẩn xuất. Tuyệt đối hoá lực lượng sản xuất để coi thường hay phủ nhận quan hệ sản xuất sai lầm. Cái đảm bảo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất, cái kìm hãm, xiềng xích lực lượng sản suất cũng là quan hệ sản xuất. Bản thân lực lượng sản xuất mới chỉ biểu hiện con người với tự nhiên:thể hiện khả năng và sức mạnh to lớn của con người trong cải tạo thế giới khách quan. Nhưng con người trong bản tính của mình là con người xã hội. Con người hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu lợi ích của mình, đó là con người tự nhiên; song sự việc thoả mãn được thực hiện đến đâu, bằng phương pháp gì …đó lại là vấn đề xã hội, thông qua các quan hệ kinh tế xã hội. Mặt khác trong quá trình cải tạo tự nhiên, lao động sản xuất, con người không được tự do tuỳ tiện. Họ bị chế ước bởi những quan hệ kinh tế – xã hội nhất định. Triết học Mác nhấn mạnh con người trong lao động sản xuất và trong cuộc sống của mình không thể với tư cách một sinh vật cô đơn vô sản và không quan hệ. Ông đã gọi quan hệ người với người trong quá trình lao động sản xuất là quan hệ sản xuất. Ông nhấn mạnh rằng, chính cái quan hệ ấy đã làm nên cái khác nhau căn bản giữa chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Nếu lực lượng sản xuất vận động không ngừng nhờ một quá trình liên tục thì quan hệ sản xuất hiện ra như một sự đứt đoạn để qua đó người ta thấy được tính chất xã hội mỗi thời kì của nền sản xuất là khác nhau. Như thế đánh giá sự phát triển xã hội phải căn cứ vào mức độ tiến bộ của quan hệ sản xuất là cơ bản từ đó đanhs giá xem xét toàn bộ hình thái kinh tế – xã hội. Đến lượt nó cái tiến bộ tiên tiến của quan hệ sản xuất phải lấy tiêu chuẩn khách quan là nó có giải phóng được lực lượng sản xuất hay không …nói cách khác, nnó có kích thích được tính năng động của con người được hay không và qua đó năng xuất lao động có tăng lên không ngừng không. Lẽ đương nhiên người ta không thể lấy kinh tế làm chỉ số duy nhất để đánh giá sự phát triển của xã hội đồng thời người ta cũng không thể vội vàng muốn có phát triển xã hội bằng cách đặt ra quan hệ sản xuất tiên tiến, mở đường đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất. Làm như vậy trái với quy luật kinh tế – xã hội mà Mác tìm ra. Sự phát triển của xã hội bao giờ cũng là quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải là quá trình chủ quan, duy ý chí. 2) Công cuộc đổi mới kinh tế Việt nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển 2.1) Nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới đánh giá qua các kì Đại hội Đất nước ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Bản thân thời kì quá độ này cũng đánh giá sự phát triển của xã hội . Đành rằng đó chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, song nó dứt khoát không phải là mô hình xã hội , nó đã vượt qua và đang ở trong quá trình hoàn thành nốt sự vượt qua đó. Báo cáo chính trị Đại hội IX khẳng định, mục tiêu lý tưởng của cách mạng, đồng thời cũng nói rõ chúng ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Nói như thế để thấy được chúng ta đang ở đâu, đang ở trình độ nào để có sách lược đúng. Nước ta còn nghèo lực lượng sản xuát còn kém phát triển , nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn, cho nên phải tập trung sức phát triển lực lượng sản xuất, phát huy của tất cả các thành phần kinh tế , huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật – chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , không nên lấy mục tiêu xa để áp đặt bắt thực tiễn phải khuôn theo khi chưa có đủ điều kiện. Báo cáo chính trị Đại hội IX chỉ rõ :”con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,nhưng kế thừa tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ,để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại ”. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chống tư tưởng duy lực lượng sản xuất, chủ nghĩa kỹ trị. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp, có sự đan xen giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải là chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian cho nên tất yếu phải trải qua một thời kì quá độ lâu daì, với nhiều chặng đường nhiều hình thức tổ chức kinh tế , xã hội có tính chất quá độ. Như chúng ta đều biết từ Đại hội VI Đảng ta đề ra chủ chương cho phép sử dụng nhiều thành phần kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần để giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản suất. Công cuộc đổi mới nền kinh tế năm 1986 như một bước ngoặt to lớn của nền kinh tế nước nhà. Bước ngoặt ấy thực sự phù hợp với quan điểm phát triển. Hội nghị Trung ương khoá VI (tháng 3-1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ VI khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chỉ nghĩa do các Đại hội IV,V Đảng đã xác định. Tập trung trí tuệ toàn Đảng, toàn dân, Đại hội VI tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo phong phú của các nghành các cấp và các đơn vị cơ sở giải quyết một số vấn đề lí luận và thực tiễn, phát triển đường lối và nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Đại hộiVI như một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng cả về lí luận và thực tiễn. ý nghĩa lịch sử của Đại hội VI là đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội từ những năm trước, đề ra các định hướng lớn để từng bước thoát khỏi tình trạng đó. đến đại hội Đảng VII ta tiếp tục nói rõ chủ chương hội nghị VI đề ra và khẳng định đây là chủ chương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Cương lĩnh của Đảng khẳng định:”phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước ”. Nhưng trong lúc đó mới chỉ nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chưa chính thức dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Sự nghiệp đổi mới kinh tế đang đi đúng theo quỹ đạo của quan điểm phát triển mà Mac- Lênin đã vạch ra. Tổng kết hai năm thực hiện Đại hội VI nền kinh tế phát triển khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản, đó là những căn cứ để đẩy nền kinh tế tới một bước cao hơn. Đại hội VII của Đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống nhất hoà nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lí của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng xác định, ở nước ta có năm thành phần kinh tế :kinh tế Nhà nước ,kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã ,kinh tế tư bản Nhà nước ,kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại hội Đảng IX quyết định bổ xung thêm một thành phần kinh tế nữa đó là kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài. Vấn đề phát triển kinh tế trước hết từ bản thân nó, từ những mối quan hệ cơ bản của nó. đó không phải là vấn đề tìm ở trên trời mà ngay dưới mặt đất ngay trong cuộc sống thực tại. Theo Mác ông đã coi sự phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Đây là một tư tưởng vĩ đại. Sự vận động, phát triển xã hội chỉ chịu sức ép, chịu sự quyết định từ chính quy luật bên trong của nó, mà cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; và quy luật về sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở ha tầng đã sinh ra nó. Đó là những quy luật của lịch sử, những quy luật có tính tự nhiên không tuỳ thuộc vào ý muốn con người và không thể bác bỏ xuyên tạc. Song mặt khác, những quy luật đó cũng lại là những quy luật xã hội chỉ được thực hiện qua chính hoạt động của con người. Cần phải hiểu luận đề trên một cách biên chứng, qua đó, thấy được sự thống nhất giữa liên tục và đứt đoạn, giữa tiệm tiến của sự phát triển. Con đường phát triển ấy không phải thẳng tắp mà dích dắc , bao gồm cả nhưng bước thụt lùi. Song, xuyên qua tất cả những ngẫu nhiên, những phức tạp ấy , thì sự phát triển xã hội vẫn là dòng chảy chủ đạo trong lịch sử. Mac đã vạch ra động lực thực sự thúc đẩy sự phát triển xã hội, những nguyên nhân bên trong gây nên sự biến đổi về mặt xã hội. Chính ông đã tìm ra nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội. ĐI xa hơn ông tìm ra mâu thuẫn trong cái nền tảng ấy tức mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Chính nhờ có máau thuẫn ấy, xã hội đã tạo cho mình khả năng vận động và phát triển, như thế sự phát triển xã hội bắt nguồn từ sự vận động phát triển của sản xuất vật chất xã hội. Muốn phát triển xã hội, trước hết người ta cần phát triển sản xuất, người ta không thể không chu ý giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn ấy lại không thể tự thân giảI quyết như quy luật tự nhiên mà phải thông qua hành động của con người, của xã hội. Xuất phát từ cơ sở lí luân cũng như thực tiễn Đại hội IX của Đảng đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội hàm của khái niệm này thực chất vẫn là sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vân hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lí luận của Đảng ta. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp, nhưng đó không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, và cũng chưa toàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như đã noí, chúng ta đang còn trong thời kỳquá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tố chủ nghĩa xã hội. Vậy đặc trưng vủa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Báo cáo chính trị Đại hội IX đã nêu một số đặc trưng rất cơ bản. Theo nhiều nhà nghiên cứu khoa học thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nếu so với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm khác căn bản sau đây: Về mục đích: Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích các nhà tư bản, bảo vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản. bây giờ có điều chỉnh gì cũng là bảo vệ chủ nghĩa tư bản. còn chúng ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong những chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, lực lượng sản xuất còn yếu kém, lá để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ta dùng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiịen đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội, không để cho thị trường tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Về chế độ sỡ hữu: Dưới chủ nghĩa tư bản, nền tảng của chế độ sở hữu là sỡ hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Còn ở nước ta hiện nay cũng thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, nhưng trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Các thành phần kinh tế: dưới chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế có nhiều thành phần (có khả năng kinh tế nhà nước, liên doanh, kinh tế tư bản nhà nước…), nhưng do nhà nước tư sản quản lý và do tư bản tư nhân chi phối, kinh tế tư nhân lá chủ đạo. Còn ở nước ta hiện nay cũng có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, nhưng do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Về chế độ quản lý: trong thời đại hiện nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều cần có sự quản lý của Nhà nước, không muốn để cho bàn tay vô hình là thị trường chi phối. Tư bản cũng phải làm thế, thậm chí họ còn can thiệp khá mạnh. điều khác nhau ở đây là ở bản chất hai nhà nước. Nhà nước của họ là nhà nước tư sản, dân chủ tư sản, bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, những người có của. Còn chúng ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân, vá số Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đa số nhân dân lao động. Về quản lý thì xu thế của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa vẫn là tự do cạnh tranh, vẫn là “cá lớn nuốt cá bé”, hình thức các công ty siêu quốc gia, xuyên quốc gia, các tập đoàn lớn cạnh tranh nhau quyết liệt. Còn chúng ta có sự quản lý của Nhà nước để kết hợp tính địng hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động vá nhạy cảm của thị trường.Trong các Nghị quyết Đại hội VII và VIII đều nói thị trường vừa là đối tượng, vừa là căn cứ để chúng ta kế hoạch hoá. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường không phải để đoạn tuyệt với kế hoạch, mà là để thực hiện kế hoạnh một cách tổng thể hơn, tốt hơn. Sự quản lý của Nhà nước là để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Đối với chúng ta, cơ chế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện. Mục đích của ta không phải là chạy theo lợi nhuận tối đa cho một thiểu số người, mà chính là để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về chế độ phân phối: cả hai nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có nhiều hình thức phân phối. Khác nhau ở chỗ, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phân phối chủ yếu theo tư bản, phục vụ lợi ích tối đa của các nhà tư bản. Chúng ta cũng có nhiều hình thức phân phối, nhưng phân phối theo kết quả lao động vá hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa, vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi cơ bản. Đó là các điểm giống nhau và khác nhau giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương của Đảng về vấn đề này là thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là điểm mới và là mô hình kinh tế tổng quát của chúng ta trong thời kỳ qúa độ. Đây cũng là một quan điểm quan trọng làm sáng tỏ hơn nội dung con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở mô hình này, Đại hội khoá IX của Đảng đã xác định đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tién bộ xã hội và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh”. 2.2) Tại sao phải vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Trước tiên cần phải khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một dạng vật chất, nền kinh tế Việt nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác- Lênin. Là một dạng vật chất chính vì thế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lí, quy luật của triết học Mác- Lênin, mà cụ thể là sự vận động phát triển, sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong nó theo qauan điểm phát triển. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên đó chư phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta. Bởi thế nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu, với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lí kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền kinh tế thị trường năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa thời chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường là quá muộn so với các nước trên toàn thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu… đã tiến hành cớ chế thị trường vượt xa ta mấy trăm năm. Là nước đi sau theo chủ nghĩa xã hội chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại trước hêts là sử dụng văn minh của nền kinh tế thị trường, loại bbỏ những khuyết tật của nó để xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả. Chính vì lẽ đó cần phải vận dụng quan điểm phát triển vào viẹc nghiên cứu quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3)Những ưu khuyết điểm của nền kinh tế thị trường 2.3.1) Ưu điểm của nền kinh tế thị trường Đến Đại hội VIII

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35266.doc
Tài liệu liên quan