Đề tài Giáo viên chủ nhiệm ở trường phổ thông

Phần 4.

Phương pháp, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp cho GV ở trường phổ thông.

a/ Phương pháp

1. Phương pháp thuyết phục

Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:

- Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ

- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.

- Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8104 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giáo viên chủ nhiệm ở trường phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rò và tầm quan trọng rất lớn trong vấn đề này: a. Những biểu hiện chung nhất ở HSCB, HS bỏ học và những tác hại ... Những trẻ loại này có thói quen lười biếng, quay cóp trong học tập, lừa dối cha mẹ, thầy cô, dọa nạt bạn bè, hay trốn học và lảng tránh các hoạt động tập thể như: lao động, sinh hoạt Đoàn – Hội – Đội, sinh hoạt ngoại khóa, ... không để cho các em quay cóp hoặc báo cho thầy cô thì các em sẽ dọa đánh, không trực tiếp đánh thì nhờ người khác đánh. Các em này tiêu xài các khoản phí của bố mẹ đưa nộp cho nhà trường, giả mạo chữ ký của bố mẹ và sổ liên lạc, giấy xin phép, ... Những học sinh cá biệt có tính giảm sút phổ biến trong tất cả các lĩnh vực, trừ những lĩnh vực gắn liền với những nhu cầu trái với xã hội, trái với đạo đức. Một học sinh hay ngủ gật, lười chép bài, học bài nhưng lại tỏ ra rất khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, bè bạn. Những hs này hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước các thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè để nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được xếp sẵn trong đầu óc. Chúng thường đánh mất lòng tự trọng, xấu hổ và trở nên chai lì khác thường. Tùy theo đối tượng tiếp xúc mà chúng có những thái độ, phản ứng một cách gay gắt, thô bạo. Những HSCB thường hay vi phạm nội quy, kỷ luật nhưng chúng không dễ dàng nhận ngay mà phải nhiều lần vặn hỏi với đầy đủ những lí lẽ chứng cứ thì chúng mới chấp nhận. Chúng cho việc nói dối, giả tạo là chuyện bình thường. Ở những HSCB uy tín của cha mẹ, thầy cô bị thay thế bằng uy tín của những kẻ cầm đầu, những kẻ côn đồ, hung hãn, liều lĩnh, những “đại ca”, ... chính điều này các em HSCB dễ dàng rơi vào những cạm bẫy, sai khiến, xúi giục của các “đàn anh”. Và con đường dẫn đến bỏ học, tụ tập băng nhóm, cờ bạc, trấn lột, trộm cắp, tổ chức gây gổ đánh nhau, vi phạm pháp luật dẫn đến tù tội là điều không tránh khỏi. Thực tế các trường đã phát hiện và xử lý những vụ trấn lột, trộm cắp, gây gổ đánh nhau của hs, phần lớn là do sự sai bảo, xúi giục của những kẻ cầm đầu mà chúng thường tôn là “đàn anh”. Một điều dễ nhận thấy ở những HSCB, học sinh bỏ học là cách nói năng, đi đứng, ăn mặc, hành động rất khác thường, luôn tạo sự chú ý đối với người khác. Có thể nói, nhưng tác hại do các em HSCB, những học sinh bỏ học gây ra là không nhỏ và thậm chí là khá nghiêm trọng. Nó làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chung, phong trào thi đua của nhà trường, trật tự trị an xã hội, hạnh phúc gia đình và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, cuộc sống của các em sau này. b. Những nguyên nhân và một vài biện pháp đề xuất nhằm khắc phục hiện tượng HSCB và nguy cơ bỏ học của học sinh: Các em ở lứa tuổi này vốn có tính hiếu động, thích khám phá, dễ bị kích động, lôi kéo, thích được tự khẳng định. Một số em do bị ảnh hưởng bởi các phim ảnh bạo lực, thích được làm “người hùng”, do vậy gia đình thường xuyên tăng cường giáo dục, định hướng những hành vi chuẩn mực trong quan hệ cư xử, trong nhận thức cho các em nhưng không quá máy móc, áp đặt, thô bạo. Nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, giảng dạy đã cho chúng tôi thấy rằng đối tượng HSCB, hs bỏ học, nguyên nhân chủ yếu có tính quyết định là do gia đình. Nếu gia đình nào tạo ra một bầu không khí phi đạo đức, thiếu lành mạnh như cha mẹ li hôn, vợ chồng mâu thuẫn nhau, gia đình có người nghiện ngập ma túy, rượu chè, cờ bạc, ...thường đối xử thô bạo đối với các em thì tỉ lệ hs vi phạm nội quy, vi phạm đạo đức là rất cao. Một số gia đình phụ huynh chỉ biết nuông chiều, thỏa mãn những tính hiếu kỳ, những ước muốn kỳ quặc của trẻ. Điều này dễ dàng làm nảy sinh ở trẻ tính cách e ngại lao động, ngại tự phục vụ, gặp những khó khăn, trở ngại đơn giản là chúng than vãn, thoái thác. Có thể điều này sẽ làm cho trẻ trở thành những kẻ phung phí tiêu xài quá mức, hoặc trở thành một con người sống ích kỷ đến lạnh lùng. Hãy tập cho các em có tính tự lập ngay từ nhỏ và biết chịu đựng, biết khắc phục những khó khăn thiếu thốn trong cuộc sống đời thường. Phải để cho các em thấy được sự lao động, vất vả khó nhọc khi làm ra đồng tiền và sử dụng đồng tiền như thế nào cho có hiệu quả. Một nguyên nhân cơ bản là gia đình thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở, động viên các em trong học tập, vui chơi. Có gia đình phó thác hẳn việc giáo dục con cái cho thầy cô giáo, cho nhà trường. Có gia đình thiếu biện pháp giáo dục, thiếu kết hợp với nhà trường, với các lực lượng giáo dục khác. Không ít gia đình chỉ biết làm ăn, đầu tư kinh tế, xem nhẹ việc giáo dục con cái. Nếu có nắm thông tin về con cái thì cũng chung chung, một chiều rất phiến diện. Thực tế cho thấy, nếu nơi nào có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên có hiệu quả giữa ba lực lượng giáo dục là gia đình – nhà trường – xã hội thì hiện tượng HSCB, việc bỏ học của hs sẽ giảm đi rất nhiều. Về phía nhà trường, một lực lượng giáo dục rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của hs thì việc phối hợp chặt chẽ với hai lực lượng giáo dục gia đình và xã hội chưa cao, chưa tạo được sự đồng bộ, đồng thuận trong việc giáo dục các em, còn coi nhẹ kỷ cương – tình thương – trách nhiệm. Người giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm phải nắm thông tin một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời về học sinh của mình đặc biệt là những HSCB để đề ra những biện pháp giáo dục thích hợp. Có quá ít thời gian tiếp cận với học sinh của lớp mình cũng là một hạn chế trong việc giáo dục học sinh cá biệt, ngăn chặn học sinh bỏ học. Thực tế trong nhà trường phổ thông hiện nay việc giáo dục HSCB chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm phụ trách. Có giáo viên tiếp xúc với lớp chủ nhiệm khoảng 7 tiết/tuần nhưng cũng có giáo viên chỉ có tiếp xúc với lớp không quá 3 tiết/tuần. Trong khi công việc của giáo viên chủ nhiệm đâu chỉ có giáo dục HSCB. Thực tế hiện nay các hoạt động, phong trào trong nhà trường (trừ hoạt động giảng dạy) nhìn chung còn nghèo nàn, chưa phong phú, mang tính hình thức. Các phong trào chưa lôi cuốn, hấp dẫn, chưa huy động đông đảo lực lượng học sinh tham gia. Chính vì vậy nhà trường cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục khác bên cạnh hoạt động dạy và học như: đố vui để học, hái hoa kiến thức, các hoạt động văn thể, cắm trại, ngoại khóa chuyên đề, tham quan dã ngoại, ... chính các hoạt động này có tác dụng bổ trợ rất lớn đến hoạt động dạy và học, góp phần thu hút học sinh la cà các hàng quán, các nơi giải trí bi-a, điện tử, ... thực tế những nơi này đang tiềm ẩn khá nhiều tiêu cực ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt của các em. Điều này đã được các phương tiện thông tin, báo chí, truyền hình đưa tin không ít. Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em, hãy tôn trọng nhân cách các em. Cha mẹ, anh chị em, thầy cô, bè bạn hãy gần gũi, cảm thông, độ lượng, chia sẻ, tạo điều kiện và cơ hội để các em sửa chữa những lỗi lầm, khuyết điểm hoặc phát huy những tài năng, sáng tạo (nếu có). Chúng ta hãy giúp các em lấy lại lòng tin, lòng tự trọng. Đừng bao giờ để các em đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình. Bởi vì đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình thì các em sẽ mất tất cả. Hãy đến với các em bằng tình thương, sự đồng cảm hơn là một người giáo dục. Thực tế cho thấy, nếu các em chủ động tìm đến các hoạt động của nhà trường với thầy cô giáo thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn việc thầy cô giáo chủ động tìm đến các em. Góp phần giáo dục HSCB và làm giảm nguy cơ học sinh bỏ học là một công việc khó khăn, phức tạp, hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, lòng nhiệt tình, một trách nhiệm cao, một tình thương chân thành và cần thiết có một sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, có hiệu quả từ các lực lượng giáo dục nhất là vai trò của gia đình. Phần 3. Đề xuất đổi mới nội dung, phương pháp và kĩ năng thực hiện công tác chủ nhiệm lớp của GV ở trường phổ thông đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông trong giao đoạn hiện nay. a/ Ý nghĩa GVCN có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường. Xuất phát từ thực trạng công tác chủ nhiệm của trường, việc đưa ra các biện pháp giúp GVCN định hướng đổi mới công tác chủ nhiệm cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mang ý nghĩa quan trọng đối với công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay. b. Nội dung *) Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh là góp phần cho công tác chủ nhiệm đạt kết quả cao Do tính đặc thù của một địa bàn biên giới Cam –Pu-Chia, trường có rất nhiều học sinh người Việt Nam sống ở Cam –Pu- Chia sang học, đối tượng học sinh của trường có mối quan hệ gia đình rất đa dạng và phức tạp, việc tìm hiểu điểm tình hình lớp, tình hình học sinh giúp cho GVCN thuận lợi trong quản lý, giáo dục học sinh. Đầu năm học GVCN phải có những thông tin khái quát về gia đình học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Đầu năm học GVCN phải nắm được đặc điểm học sinh về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt là rất cần thiết nhưng GVCN phải thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. GVCN phải tìm hiểu cơ cấu, lứa tuổi, năng lực học tập, hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, sự đoàn kết của lớp mình chủ nhiệm. *)Nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học Để vận dụng tốt vào công tác chủ nhiệm của mình, GVCN phải nắm vững mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học. Để cho học sinh thực hiện chủ động, sáng tạo nhiệm vụ của lớp trong phong trào chung, GVCN phải nắm vững kế hoạch, nội dung và cách thực hiện của trườnmg trong tuần, tháng học kỳ và cả năm học. Phải nắm vững tri thức lý luận giáo dục, có nghệ thuật sư phạm, xây dựng và phối hợp tốt các mối quan hệ trong nhà trường và địa phương. *) Tìm hiểu tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, theo dõi thời sự trong nước và quốc tế để vận dụng những hiểu biết đó vào công tác chủ nhiệm Để liên kết và phối hợp có hiệu quả giữa nhà trường, đại diện là GVCN với địa phương trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. GVCN cần phải nắm được tình hình thời sự, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội để bổ sung kiến thực của mình thêm phong phú. *) Cộng tác chặt chẽ với CMHS, chủ động phối hợp với giáo viên bộ môn, đoàn TNCS HCM, đội TNTP HCM, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giáo dục đạo đức học sinh. *) Xây dựng những truyền thống tốt đẹp của lớp Các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu nó được lập đi lập lại và trở thành thói quen. Phải trân trọng truyền thống sẳn có của lớp, tiếp tục xây dựng truyền thống mới cho lớp trong điền kiện cụ thể. *) Tích cực tham gia vào công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua, khen thưởng và kỷ luật học sinh với tư cách là người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh. c/ Cách làm *) Đối với GVCN Nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh : (học bạ, hoàn cảnh gia đình….) Trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu hướng sở thích của học sinh. Trao đổi với giáo viên bộ môn, về tình hình của lớp. Trao đổi với ban giám hiệu, tổng phụ trách đội, Cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng mà GVCN cần tìm hiểu. Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho ban giám hiệu về tình hình đạo đức của học sinh. Một năm học GVCN đến nhà học sinh ít nhất một lần để nắm thông tin, thuyết phục cha mẹ học sinh tham gia họp đầy đủ. Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh đúng thời gian quy định, xử lý thông tin phản hồi kịp thời, có hiệu quả Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với Cha mẹ học sinh để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả. GVCN phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trao dồi đạo đức nhà giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Phần 4. Phương pháp, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp cho GV ở trường phổ thông. a/ Phương pháp 1. Phương pháp thuyết phục Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau: Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ… Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường. Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt. 2. Phương pháp rèn luyện Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế: Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể. Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt phong trào này. Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có hại. 3. Phương pháp thúc đẩy Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh. Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường. Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh. b/ Giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp cho GV ở trường phổ thông. (1)- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua giữa các tập thể và cá nhân nhằm tạo sự chuyễn biến sâu rộng cả về nhận thức và hành động mới góp phần hạn chế và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực ở học sinh. Ban nền nếp phải làm tốt công tác xếp loại và đánh giá thi đua các lớp hành tuần, hàng tháng. Công tác thi đua phải chính xác, công tâm, kích thích được phong trào. Vừa đánh giá, vừa thể nghiệm và dần hoàn chỉnh các tiêu chí thi đua. (2)- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về tác hại của các vi phạm, các tệ nạn; phổ biến tuyên truyền pháp luật (luật giáo dục, luật giao thông đường bộ, ...); tổ chức học tập, quán triệt cho học sinh về nội quy của nhà trường vào đầu năm học, vào giờ chào cờ đầu tuần và giờ sinh hoạt lớp. (3)- Tăng cường vai trò của Đoàn trường trong hệ thống tổ chức của mình để giáo dục đoàn viên thanh niên. Đoàn trường phải đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hoá học đường; cần có kiểm tra tổng kết đánh giá cụ thể. (4)- Tăng cường công tác kiểm tra của Ban nền nếp để phát hiện vụ việc và xử lý kịp thời; nếu buông lỏng kiểm tra, không cập nhật được tình hình, không đánh giá đúng đối tượng thì vô tình dung túng cho học sinh vi phạm. (5)- Tăng cường công tác tự quản của các tập thể lớp, chi đoàn thông qua vai trò có vấn của giáo viên chủ nhiệm. Nhà trường và giáo viên chủ nhiệm không phải lúc nào cũng theo sát từng học sinh mà phải thông qua mạng lưới cộng tác viên để nắm tình hình. Chỉ thông qua tập thể và giáo dục bằng tập thể, giáo dục bằng dư luận, giáo dục cảm hoá bằng tình bạn sẻ có tác dụng tích cực giúp học sinh điều chỉnh hành vi của mình. (6)- Đề cao vai trò trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm; bởi vì giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt nhà trường chịu trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động của lớp; chỉ có GVCN là cầu nối tin cậy nhất với nhà trường và phụ huynh. Vì vậy GVCN vừa đề cao trách nhiệm, vừa có tình thương, bao dung độ lượng và nghiêm minh, công bằng; vừa có tính chủ động sáng tạo để giáo dục học sinh nhất là đối tượng chậm tiến. GVCN phải có kế hoạch giáo dục học sinh, hàng tuần, hàng tháng phải có nhận xét, đánh giá xếp loại cụ thể về từng mặt cho từng học sinh, chỉ cho mỗi HS thấy được từng mặt mạnh mặt yếu và có khen chê kịp thời; không nên có định kiến hẹp hòi với học học sinh; nếu định kiến hẹp hòi dể làm cho các em mất niềm tin, bi quan, chán nản. Bên cạnh đó giữa GVCN và phụ huynh phải có mối quan hệ mật thiết, thường xuyên thông tin về tình hình học tập rèn luyện của con em để bàn biện pháp phối hợp giáo dục. (7)- Tăng cường các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Văn nghệ, TDTT, ngoại khoá, các câu lạc bộ đố vui để học, sẽ cuốn hút nhiều học sinh tham gia; bởi vì lứa tuổi của các em rất hiếu động, thích hoạt động, thích giao tiếp, giao lưu; nếu chúng ta không tổ chức các hoạt động cho học sinh thì các em sẻ tìm đến nơi chốn khác để vui chơi và dể bị các phần tử xấu lôi kéo vào con đường hư hỏng, phạm tội. Thông qua các hoạt động này sẻ giúp cho học sinh nâng cao nhận thức, lớn khôn thêm cả thể xác lẫn tâm hồn để vững tin bước vào đời. Trong hoạt động này cần lưu ý kết hợp hài hoà giữa: " Học mà chơi, Chơi mà học " theo đúng định hướng giáo dục. (8)- Cần tăng cường công tác phối hợp giữa nhà trường- gia đình- xã hội; bởi vì học sinh thực tế chỉ đựợc giáo dục ở trường nhiều lắm từ 4-5 giờ/ ngày, thời gian còn lại phần lớn ở gia đình và xã hội. Muốn làm tốt, có hiệu quả phải có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất về phương pháp tác động; thường xuyên cặp nhật thông tin nhiều chiều để biết về tình hình học sinh. Mỗi phụ huynh luôn luôn đặt niềm tin vào con em, nhưng cũng không nên đánh giá quá cao về tình hình các mặt của học sinh mà dễ dẫn đến ngộ nhận, chủ quan, thiếu sự phối hợp. Thực tế có phụ huynh khi được nhà trường mời đến cung cấp thông tin mới biết được con mình không ngoan, học không giỏi như lâu nay vẫn tưởng. Phụ huynh phải thống nhất với nhà trường về các biện pháp giáo dục. Nhà trường và các thầy cô giáo áp dụng các biện pháp giáo dục với mục tiêu tất cả đều vì sự tiến bộ của con em, vì tình thương và trách nhiệm. Các cơ quan chức năng như Công an thành phố Đông Hà và Công an các phường trên địa bàn trong những năm vừa qua đã cộng tác phối hợp với nhà trường làm tốt công tác giáo dục học sinh: điều tra, cung cấp thông tin, thông báo tình hình học sinh vi phạm, quản lý giáo dục học sinh cá biệt; nên đã góp phần ngăn chặn và làm giảm các vụ việc xảy ra ở học sinh. Trong thời gian tới nhà trường mong muốn các cơ quan chức năng và cộng đồng xã hội tiếp tục quan tâm giúp đỡ nhà trường nhiều hơn nữa để góp phần làm tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh. Các trường học trên địa bàn, nhất là các trường THPT, trung tâm GDTX thành phố Đông Hà cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giáo dục đạo đức học sinh; bởi vì học sinh có mối quan hệ trên địa bàn, mối quan hệ liên trường và những mối quan hệ khác nên dễ tụ tập, lôi kéo theo nhóm chính thức và không chính thức để đánh nhau hoặc có những vi phạm khác. Các trường cần phải thông tin sớm, kịp thời các vụ việc có liên quan; cùng phối hợp xử lý, không bao che dấu giếm khuyết điểm học sinh vi phạm. Ban đại diện Hội cha mẹ học sinh trường và các Chi hội cha mẹ học sinh lớp, trong những năm qua đã làm tốt công tác phối hợp giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Hội cha mẹ học sinh vừa là chủ thể tiến hành giáo dục con em ở gia đình đồng thời cũng phải chịu một phần trách nhiệm về quá trình giáo dục ở nhà trường. Ông bà, cha mẹ phải mẫu mực, làm gương cho con cái noi theo. Phụ huynh phải luôn luôn quan tâm theo dõi thường xuyên con em mình, không nên phó mặc cho nhà trường. Cần phải phê phán quan niệm của một số ít phụ huynh khoán trắng việc giáo dục đạo đức học sinh cho nhà trường. Xã hội hoá công tác giáo dục không thể hiểu phiến diện ở mặt đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, tiền bạc mà phải thực sự tham gia vào quá trình giáo dục con em, nhất là đối tượng học sinh chậm tiến. (9)- Việc xử lý kỷ luật học sinh là việc bất đắc dĩ, trong chúng ta không ai muốn; nhưng vì kỷ cương nghiêm minh của nhà trường nên phải thi hành kỷ luật học sinh; việc thi hành kỷ luật cũng là cần thiết để vừa xử lý học sinh vi phạm, vừa răn đe nhắc nhở những em khác, vừa phòng ngừa các biểu hịên xấu có thể xảy ra. Bên cạnh đó cần có sự khen thưởng động viên những tập thể và các nhân tiêu tiểu về các mặt; đồng thời cũng biểu dương những học sinh vi phạm có tiến bộ và xét cho ra khỏi danh sách học sinh chậm tiến. Nếu tập thể lớp, chi đoàn, thầy cô giáo chủ nhiệm và phụ huynh biết động viên khích lệ thì nhiều em chậm tiến sẻ cố gắng vươn lên. Công tác này ở cấp độ lớp nên làm thường xuyên hàng tuần, hàng tháng. Phần 5. GVCN lớp ở trường phổ thông với việc triển khai có hiệu quả phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" *) Nội dung chính của quả phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" theo kế hoạch nhà trường. I. XÂY DỰNG TRƯỜNG, LỚP XANH – SẠCH – ĐẸP – AN TOÀN 1. Xây dựng nhà trường Giáo dục ý thức : Giữ gìn, tôn tạo cảnh quan môi trường, vệ sinh công cộng và bảo vệ tài sản của nhà trường. Không có hành động vui chơi, sinh họat thiếu an tòan, có khả năng xảy ra tai nạn; Chương trình hành động : Tổ chức và thực hiện NGÀY LAO ĐỘNG XANH mỗi tháng vào ngày thứ 7 hàng tuần. Mỗi tuần có 2 lớp lao động và luân phiên cho đến hết số lớp trong nhà trường. Đấu tranh phê phán những biểu hiện bạo hành, bạo lực thiếu an tòan trong sinh hoạt và vui chơi trong nhà trường; 2. Xây dựng lớp học Giáo dục ý thức : Xem lớp học là ngôi nhà thân yêu Sống và học tập hàng ngày , học sinh có ý thức giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không viết vẽ trên bàn, trên tường. Cần trang hoàng lớp học thân thương, ấm cúng; Tổ chức thực hiện : Tổ chức trang hoàng lớp học, phân công trực nhật vệ sinh hàng ngày sạch sẽ. Mua dụng cụ vệ sinh, nước uống. Tổ chức may đồng phục theo lớp với thời trang trẻ – đẹp, đảm bảo tông màu “Trắng” truyền thống của tuổi học trò; Giáo viên chủ nhiệm cần vận động và tổ chức cho lớp đăng ký và thực hiện: LỚP TỰ QUẢN – PHÒNG HỌC THANH NIÊN. II. DẠY VÀ HỌC CÓ HIỆU QUẢ Thực hiện cuộc vận động : “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “ Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” 1. Đối với giáo viên : a. Công tác giảng dạy : Nắm vững phương pháp và nghiệp vụ giảng dạy. Hiểu và thực hiện đúng qui chế thi, kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng dẫn học sinh phương pháp tự học; Tạo bầu không khí thân thiện, thiết kế và hướng dẫn học sinh làm đồ dùng dạy học,khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo,ý thức vươn lên của học sinh; b. Tinh thần tự học và sáng tạo : Chuyện đề tự học : Mỗi giáo viên trong năm học ít nhất có một chuyên đề nghiên cứu tự học phục vụ thiết thực cho công tác giảng dạy và quản lý, giáo dục học sinh báo cáo trước hội đồng sư phạm nhà trường. Chuyên đề tự học phải thực tiễn, có tính ứng dụng cao và được thiết lập trong hồ sơ Tích lũy chuyên môn của giáo viên; Dự giờ, thao giảng : Mỗi giáo viên dự giờ ít nhất 3 tiết và thao giảng ít nhất 01 tiết trong một học kỳ Chuyên đề nghiên cứu sáng tạo : Nhà trường khuyến khích giáo viên Lập, đăng ký và báo cáo chuyên đề nghiên cứu sáng tạo, thiết thực phục vụ cho công tác dạy và học ở nhà trường; 2. Đối với học sinh : Xác định động cơ và tinh thần, thái độ học tập. Phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập; Tích cực đổi mới phương pháp h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiáo viên chủ nhiệm ở trường phổ thông.doc
Tài liệu liên quan