Đề tài Hoàn thiện chính sách cổ tức tại Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa

Do tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng mạnh, khách hàng liên tục đòi giảm giá trong khi giá nguyên liệu đầu vào không giảm mà còn có xu hướng tăng lên và thường xuyên không ổn định. Nhiều cơ sở sản xuất cung cấp các sản phẩm có chất lượng thấp giá rẻ nên ảnh hưởng nhiều đến thị phần của Công ty.

- Đối với mặt hàng nhựa chất lượng phụ thuộc rất nhiều vào khuôn mẫu trong khi đó giá các khuôn mẫu đều rất cao nên khó tạo được các sản phẩm mới đưa ra thị trường để cạnh tranh với các sản phẩm khác. Với các mặt hàng nhựa cao cấp do khách hàng thuê gia công là chủ yếu nên lợi nhuận rất thấp.

- Giá than tăng rất cao từ cuối năm 2003 và dự kiến giá xăng dầu cũng sẽ tăng trong thời gian tới nên chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty.

 

doc59 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách cổ tức tại Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịnh. Nếu như chỉ xét ở khía cạnh trợ giúp cho công ty trong lĩnh vực phân phối lợi nhuận thì dường như không gì có thể phủ nhận rằng chính sách cổ tức thực sự là cần thiết và quan trọng đối với công ty, nhưng trong lý thuyết và ngay cả thực tế cũng chứng minh rằng ở một điều kiện kinh tế nhất định, chính sách cổ tức là hoàn toàn không thích hợp, và các nhà quản lý đang thực hiện một công việc vô ích. Có hai trường phái quan điểm đối lập nhau về tầm quan trọng của chính sách cổ tức đối với công ty. Quan điểm thứ nhất: Chính sách cổ tức là không thích hợp. Người ta giả định rằng có một thị trường hoàn hảo, tức là một môi trường không có thuế, không có chi phí giao dịch, chính sách cổ tức không ảnh hưởng tới chi phí của cổ phiếu thường đã khẳng định rằng lúc này cổ tức không phải là mục tiêu thoả mãn các cổ đông. Nếu chúng ta trả cổ tức cho các cổ đông thì tương ứng với nó là sự sụt giảm vốn đầu tư bằng nguồn lợi nhuận giữ lại, và điều này thực sự đe doạ đến khả năng phát triển của công ty trong tương lai. Luận điểm này căn cứ vào công thức dưới đây: Trong đó: P0 là giá hiện tại của cổ phiếu trên thị trường D1 là cổ tức được trả cho cổ đông Ke là tỷlệ lợi tức yêu cầu đối với cổ phiếu thường hay là chi phí của cổ phiếu thường. g là tốc độ tăng trưởng của công ty Tại một thị trường hoàn hảo như giả định, chính sách cổ tức là không thích hợp. Nếu như công ty trả cổ tức rất cao, thì các nhà đầu tư sẽ nhận phần lợi tức cổ tức này để thiết lập quỹ nhằm mục đích mua tiếp cổ phiếu của công ty, còn trong trường hợp công ty trả cổ tức rất thấp, thì các cổ đông lại bán bớt cổ phiếu để bù đắp cho phần bị mất đi. Và như vậy, thì việc thiết lập chính sách cổ tức hoàn toàn không có ý nghĩa, vì bản thân các cổ đông rất linh hoạt khi sử dụng cổ tức của mình để đầu tư thu lời trong một môi trường thuận lợi chứ không cần tới chiến lược đầu tư phát triển của công ty. Mặc dầu vậy, không thể có một thị trường hoàn hảo bởi đó chỉ là giả định của các nhà kinh tế học. Trong thực tế, chính sách cổ tức có tác động rất lớn tới chiến lược phát triển của công ty cũng như lợi ích của các cổ đông. Thứ nhất, cổ tức là một khoản lời ít rủi ro hơn so với bất kỳ một dạng đầu tư nào trên thị trường. Khi một người có tiền, họ có thể đầu tư chứng khoán, kinh doanh hoặc đơn giản nhất là gửi tiết kiệm và góp vốn vào công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Đầu tư chứng khoán hay kinh doanh, và thậm chí là góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn thường mang tính rủi ro cao, trong khi đó việc mua cổ phần của công ty cổ phần lại đơn giản, ít mạo hiểm hơn rất nhiều. Tại sao lại như vậy? Mặc dù các công ty cổ phần chỉ phải trả cổ tức khi hoạt động có lãi, nhưng do tính chất đặc biệt của công ty cổ phần, đó là những người có số lượng cổ phần lớn nhất chính là những thành viên của Hội đồng quản trị, họ sẽ là người chịu thiệt thòi nhất khi công ty hoạt động thua lỗ hoặc bị phá sản, do đó sẽ không dễ dàng chấp nhận rủi ro. Những cổ đông nhỏ có thể hoàn toàn yên tâm với cổ phần của mình trong công ty cũng như lợi ích của mình trong tương lai. Thứ hai, lợi thế của công ty cổ phần là có thể thuyết phục các cổ đông từ chối nhận cổ tức hoặc chấp nhận một tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hơn để sử dụng lợi nhuận giữ lại cho dự án đầu tư. Một chính sách cổ tức thích hợp sẽ giúp công ty không phải huy động nguồn vốn ở bên ngoài để đầu tư phát triển, đồng thời có thể làm hài lòng các cổ đông. Ta sẽ xem xét tác động của chính sách cổ tức tới lãi của cổ phiếu và chiến lược phát triển của công ty như thế nào. (P1- P0 + D1) Lãi của cổ phiếu = P0 P1- P0 D1 = + P0 P0 Có những tình huống sau: 1. Nếu công ty quyết định giữ lại lợi nhuận để đầu tư, khi đó cổ tức được trả D1 sẽ giảm dần tới 0 và D1/P0 cũng giảm tới 0. Nhưng đồng thời, P1-P0/ P0 lại tăng, đồng nghĩa với việc vốn cổ phần tăng lên. P1- P0 D1 = + P0 P0 2. Nếu công ty quyết định chi trả cổ tức, các cổ đông sẽ lập tức nhận được một khoản lợi tức và D1 sẽ tăng lên. Nhưng bù lại, công ty không có lợi nhuận giữ lại để đầu tư, và như thế tại thời điểm hiện tại, không có đồng vốn nào được đầu tư vào công ty. Để huy động vốn đầu tư, công ty buộc phải tìm kiếm các nguồn tài trợ bên ngoài. P1- P0 D1 = + P0 P0 3. Nếu công ty chi trả cổ tức cao cho các cổ đông, sẽ có những cổ đông ưa thích phần lợi tức mà mình nhận được hơn là chờ đợi một kết quả kinh doanh đầy rủi ro trong tương lai. Tuy nhiên, cũng có những cổ đông không hài lòng với tỷ lệ cổ tức cao này. Bởi vì họ là những cổ đông có tầm nhìn xa, họ đã nhìn thấy lợi thế của việc giữ lại lợi nhuận để đầu tư, đó chính là sự ưu tiên về thuế, một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến chính sách cổ tức của công ty mà những cổ đông khác không nhận thấy. Vậy tác động của thuế như thế nào, và ngoài thuế ra, thì còn nhân tố nào tác động tới chính sách cổ tức của công ty? 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách cổ tức của công ty cổ phần 1.3.1 Các nhân tố bên ngoài: *Thuế thu nhập doanh nghiệp: Có thể nói chính sách cổ tức của mỗi công ty chịu tác động của rất nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là những tác động từ phía Chính phủ. Những chính sách vĩ mô này tác động trực tiếp tới nội dung của chính sách cổ tức, mà tiêu biểu là chính sách thuế. Tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế có chính sách thuế khác nhau, nhưng về bản chất, có những quy định chung mà mọi loại hình kinh tế đều phải tuân thủ, đó chính là nghĩa vụ nộp thuế. Hiện nay có ba loại thuế được áp dụng, đó là thuế thu nhập doanh nghiệp hay còn gọi là thuế thu nhập công ty, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân. Chính sách cổ tức không chịu tác động của thuế giá trị gia tăng, nhưng lại bị ảnh hưởng trực tiếp của thuế thu nhập doanh nghiệp và đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các đối tượng như doanh nghiệp hoặc thể nhân. Tính chất của thuế này là có sự thống nhất giữa người nộp và người chịu thuế, tức là người nộp thuế cũng là người chịu thuế. Thuế thu nhập có phạm vi thu tương đối rộng và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của các khoản thu nhập. Thuế thu nhập trong thực tế ở các nước được đặt ra nhằm mục tiêu chính là điều tiết thu nhập, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập xã hội nên việc đánh thuế thường dựa trên khả năng thu nhập của các chủ thể. Ngày nay, ở một phạm vi rộng, thuế thu nhập được xem là loại thuế tương đối công bằng, trước hết xuất phát từ sự đánh giá toàn cục theo bề dọc, tức người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp. Khác với thuế đánh vào tiêu dùng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt... thuế thu nhập cho phép người có thu nhập quá thấp được miễn thuế. Trong chính sách thuế, người ta có thể cố gắng thiết kế sao cho việc điều tiết thu nhập được công bằng, nhưng khi thi hành nếu không kiểm soát được và nắm chắc các khoản thu nhập phát sinh của các đối tượng để thu thuế thì sự công bằng cũng không thể được đảm bảo. Thuế thu nhập công ty (TNCT) là loại thuế trực thu được tính trên lợi nhuận của công ty trong thời kỳ kinh doanh. Lợi nhuận làm căn cứ tính thuế TNCT là tổng lợi nhuân kinh tế và lợi nhuận thông thường. Thuế suất được áp dụng để tính thuế TNCT có thể là thuế suất tỷ lệ cố định, thuế suất luỹ tiến hay thuế suất luỹ thoái trên từng đối tượng chịu thuế khác nhau. Như vậy, bản chất của thuế TNCT là thuế đánh vào thu nhập từ vốn chủ sở hữu trong khu vực công ty. Điều này gây ra nhiều tranh luận của các nhà kinh doanh trên thế giới về sự tồn tại của sắc thuế này. Cùng một khoản thu nhập từ vốn , nhưng khoản thu nhập từ vốn góp vào công ty của các cổ đông sẽ phải chịu sự điều tiết của 2 khoản thuế là thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân. Trong khi đó, khoản vốn này nếu đầu tư vào khu vực phi công ty thì thu nhập từ vốn chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta thì sự tồn tại của thuế thu nhập công ty là một tất yếu khách quan bởi các lý do sau: Một là, thuế TNCT được coi là một sắc thuế khấu trừ đánh vào những người nhận thu nhập từ vốn góp vào công ty, do vậy sắc thuế này góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Hai là, thuế TNCT không xác định rõ ràng và cụ thể ai là người chịu thuế, nên ít gây phản ứng với cơ sở nộp thuế. Những người chủ sở hữu vốn ở công ty không biết rõ số thu nhập của mình giảm bao nhiêu khi phải nộp thuế thu nhập công ty. Ba là, thuế TNCT tạo nguồn thu quan trọng trong thu nhập của ngân sách nhà nước. *Thuế thu nhập cá nhân: Sau khi thống nhất đất nước, chế độ thuế thu nhập cá nhân dưới chính quyền Sài Gòn cũ được bãi bỏ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã mở ra một thời kì mới cho đất nước ta: phát triển đất nước vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế của nước ta đã từng buớc phát triển vững chắc, đới sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thắng lợi đó thì sự phát triển của nền king tế thị trường ở nước ta cũng ngày một tạo nên khoảng cách giữa người giàu và người nghèo theo đúng qui luật vốn có. Sự cách biệt thu nhập giữa cá bộ phận dân cư trong xã hội đã bộc Nhà nước phải có những điều chỉnh phù hợp. Chính vì vậy, ngày 27/12/1990, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được Hội đồng nhà nước thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/4/1991. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1990 ra đời đã góp phần quan trọng trong việc động viên 1 phần thu nhập của người có thu nhập cao cho ngân sách Nhà nước và từng bước góp phần thực hiện công bằng xã hội. Dưới đây ta sẽ tìm hiểu nội dung cơ bản của Pháp lệnh này. - Đối tượng nộp thuế: Công dân Việt Nam, người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam. - Thu nhập chịu thuế bao gồm: + Thu nhập thường xuyên dưới hình thức: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp và tiền thưởng có tính chất tiền lương, tiền công từ trên 500.000đ/tháng/người đối với người Việt Nam hoặc trên 2.400.000đ/tháng/người đối với người nước ngoài. + Thu nhập không thường xuyên dưới hình thức tiền hoặc hiện vật của người định cư ở nước ngoài gửi về, thu nhập về chuyển giao công nghệ, thu nhập không thường xuyên khác về thiết kế kỹ thuật xây dựng, về thiết kế công nghiệp và về dịch vụ khác từ trên 1.500.000đ/lần, riêng thu nhập trúng thưởng sổ xố từ trên 10.000.000đ/lần. - Thu nhập không thuộc diện chịu thuế: + Tiền công tác phí, bồi dưỡng làm ca, nóng, độc hại, nguy hiểm, tiền phụ cấp khu vực miền núi, hải đảo, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh. + Tiền trợ cấp xã hội, trợ cấp hưu trí, trợ cấp thôi việc, trợ cấp điều động về cơ sở sản xuất. + Lợi tức của chủ hộ kinh doanh cá thể thuộc diện chịu thuế lợi tức. + Thu nhập của công dân Việt Nam đựa cử đi công tác, hợp tác lao động, học tập ở nước ngoài đã làm tròn nghĩa vụ đóng góp với Tổ quốc. *Tác động của chính sách thuế: Trên đây là những vấn đề khái quát về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, hai loại thuế được xem như là 2 nhân tố có tác động trực tiếp tới chính sách cổ tức của công ty cổ phần. Vậy trong thực tế, chính sách thuế của chính phủ tác động như thế nào? Trước hết cần phải khẳng định rằng chính sách cổ tức chính là quyết định tỷ lệ giữa cổ tức chi trả cho các cổ đông và lợi nhuận giữ lại để đầu tư. Mỗi công ty cổ phần theo đuổi một chính sách cổ tức của riêng mình, nhưng khi xem xét tác động của chính sách thuế tới chính sách cổ tức, thì người ta nhận thấy rằng những ảnh hưởng của hai loại thuế trên đều tương tự như nhau. Dựa vào công thức tính lãi cổ tức, có thể thấy được tác động của thuế đến chi trả cổ tức như thế nào. Nếu thuế thu nhập doanh nghiệp của nhà nước đánh vào phần lợi nhuận của công ty tăng lên sẽ làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty ít đi. Khi đó, công ty sẽ phải có những quyết định khó khăn hơn khi phân phối lợi nhuận, và buộc chính sách cổ tức phải thay đổi linh hoạt. Nếu như công ty theo đuổi chính sách trả cổ tức, thì phần lợi nhuận giữ lại sẽ có khả năng bằng 0 và như vậy, để đầu tư phát triển thì công ty phải huy động nguồn vốn từ bên ngoài hoặc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn, khiến cho chi phí vốn tăng lên rất nhiều. Trong trường hợp ngược lại, nếu Chính phủ ra quyết định giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hay cho phép công ty được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thì phần lợi nhuận sau thuế sẽ tăng lên, khả năng chi trả cổ tức cho cổ đông sẽ lớn hơn, đồng thời việc thuyết phục cổ đông từ bỏ một phần cổ tức để tái đầu tư cho công ty là dễ dàng hơn. Xu hướng thay đổi của tỷ lệ chi trả cổ tức theo như công thức trên sẽ ngược chiều với tốc độ tăng trưởng của công ty, tuy nhiên, trong một môi trường thuế thuận lợi, chính sách cổ tức có thể ra những quyết định đơn giản hơn mà vẫn thoả mãn được cả hai điều kiện trên. Thêm vào đó, theo quy định về thuế thì phần vốn tăng thêm được hình thành từ lợi nhuận không chia không phải chịu thuế. Chi phí của lợi nhuận không chia chính là tỷ lệ cổ tức mà các cổ đông thường yêu cầu đối với dự án doanh nghiệp đầu tư bằng lợi nhuận không chia này, và chi phí này thường không cao như chi phí huy động vốn chủ sở hữu khác. Thuế thu nhập cũng tác động tới chi phí nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kiệm nhờ thuế, thuế suất cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên và sẽ ảnh hưởng tới chính sách cổ tức. Nếu như chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tác động tới lợi nhuận, thì chính sách thuế thu nhập cá nhân lại tác động trực tiếp tới phần lợi tức cổ tức của cổ đông, đặc biệt là các cổ đông lớn, cũng chính là các thành viên của Hội đồng Quản trị của công ty cổ phần. Sở dĩ phải nhấn mạnh đặc điểm này bởi vì Hội đồng quản trị là những cổ đông đại diện cho toàn bộ cổ đông của công ty, có quyền bác bỏ những quyết định của ban giám đốc, và là bộ phận tham gia hoạch định chính sách cổ tức của công ty mà họ góp vốn. Rõ ràng những cổ đông này sẽ luôn đặt lợi ích của mình lên trên hết, và họ là những người chi phối hoạt động của chính sách cổ tức mà ở phần sau bài viết sẽ đề cập tới. Bởi vì đối tượng của thuế thu nhập cá nhân là những cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam có thu nhập cao tuỳ theo mức độ quy định trong đó có cả thu nhập từ cổ phiếu, cho nên khi thuế thu nhập cá nhân thay đổi, những cổ đông lớn cũng không ưa thích tỷ lệ cổ tức cao mà chính sách cổ tức hiện thời đang đặt ra nữa. Thực tế ở các nước kinh tế phát triển đã chứng minh rằng, khi mức thuế thu nhập cá nhân tăng cao, các cổ đông sẵn sàng từ chối lãi cổ phần để đầu tư cho những dự án phát triển của công ty. Điều này có thể giải thích theo 2 lí do: một là có một số cổ đông thực sự quan tâm tới tình hình hoạt động của công ty, sẵn sàng chấp thuận quyết định giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư; hai là điều làm các cổ đông này quan tâm không chỉ là triển vọng phát triển của công ty - sự tăng giá cổ phiếu trên thị trường hay khoản lợi tức lớn hơn trong tương lai, mà là sự trốn thuế tạm thời, bởi vì nếu công ty dùng lợi nhuận không chia để đầu tư, thì thậm chí phần vốn tăng thêm này cũng không bị đánh thuế, điều này cũng đồng nghĩa với việc giá cổ phiếu của công ty trên thị trường sẽ tăng lên, lúc này khoản tiền lời từ sự chênh lệch giá cổ phiếu mới là thu nhập thực sự của các cổ đông- thu nhập không bị đánh thuế. * Sự thay đổi lãi suất trên thị trường: Lãi suất được đề cập tới ở đây chính là chi phí của nợ vay, ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu vốn của công ty, và do đó tác động tới chính sách cổ tức. Nếu như chi phí của lợi nhuận không chia là tỷ suất lợi nhuận mà cổ đông mong muốn trên phần vốn này, thì lãi suất chính là chi phí của các khoản nợ vay. Trong cơ cấu vốn của mỗi doanh nghiệp, ngoài phần vốn chủ sở hữu, các khoản nợ vay luôn chiếm một tỷ lệ không nhỏ và có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là khi doanh nghiệp xác định cơ cấu vốn tối ưu. Nếu như lãi suất trên thị trường thay đổi không đáng kể, công ty có thể duy trì tỷ lệ nợ qua các năm. Thoạt nhìn, người ta nghĩ rằng cơ cấu vốn không liên quan tới chính sách cổ tức của công ty, tuy nhiên trong thực tế, tất cả các quyết định tài chính đều liên quan chặt chẽ với nhau. Xét công thức Cổ tức = Thu nhập thực tế - [ { Tỷ lệ vốn mục tiêu }* { Tổng vốn} ] Nếu một công ty có những số liệu sau: Tổng vốn: 800,000$. Dự đoán thu nhập thực tế: 600,000$ Cơ cấu vốn mục tiêu: còn 40% nợ, 60% vốn . Liệu chúng ta nên chi trả cổ tức là bao nhiêu phần của 60% vốn? Cổ tức = Thu nhập thực tế - [ { Tỷ lệ vốn mục tiêu }* { Tổng vốn} ] = 600,000 - 0.6 * 800,000 = 120,000 Vậy tỉ lệ chi trả = 120,000/600,000= 0,2 = 20%. Nếu chi phí nợ vay tăng lên, tức là lãi suất cho vay trên thị trường tăng cao, điều gì sẽ xảy ra đối với tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty trên? Khi lãi suất tăng, chi phí nợ tăng thì công ty sẽ không duy trì một tỷ lệ nợ như cũ mà ngay lập tức sẽ giảm nguồn tài trợ bằng phương thức đi vay. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ nguồn vốn trong cơ cấu vốn, và theo công thức trên, tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty sẽ giảm đi tương ứng. Lí do của việc thay đổi chính sách cổ tức là do công ty buộc phải đầu tư bằng lợi nhuận không chia để giảm bớt gánh nặng nợ. Thực tế công ty cũng có thể phát hành cổ phiếu thường mới, nhưng chi phí của việc phát hành cổ phiếu thường cũng như cổ phiếu ưu tiên là rất lớn, đồng thời vốn huy động bằng cổ phiếu mới cũng phải được sử dụng sao cho cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm. Rõ ràng việc phát hành này phức tạp hơn nhiều so với thay đổi chính sách cổ tức, hơn nữa các cổ đông cũ cũng không muốn quyền kiểm soát của công ty bị thay đổi khi phát hành cổ phiếu mới, do đó, họ sẽ phải chấp nhận một chính sách cổ tức mới. * Chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước: Chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước tác động gián tiếp tới chính sách cổ tức của công ty thông qua những ưu tiên về thuế. Chính phủ đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bằng hình thức miễn thuế trong 1-2 năm hoặc giảm thuế từ 3-4 năm đầu có thể tạo tiền đề phát triển cho các công ty, đặc biệt là các công ty cổ phần. Ngoài ra, còn phải kể đến chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 73/2003/TT- BTC hướng dẫn: các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam tối đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam. Công ty cổ phần chưa niêm yết bán cổ phần tại doanh nghiệp hoặc thông qua tổ chức tài chính trung gian và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài đã bắt đầu từ những năm 90, song cho đến năm 2003 vừa qua, Chính phủ mới thông qua quyết định cho phép các công ty cổ phần bán cổ phần của mình cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng tác động không nhỏ tới chính sách cổ tức của công ty, vì đối với nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm hơn, các nhà hoạch định chính sách càng phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ra quyết định. * Phong tục tập quán Những yếu tố thuộc về con người, chẳng hạn như thói quen tiêu dùng, mức sống, trình độ văn hoá khác nhau cũng dẫn tới những quan niệm khác nhau về cổ tức và có chiều hướng tác động tới chính sách cổ tức. ở các nước phát triển, thị trường chứng khoán, kinh doanh cổ phiếu đối với đa số công chúng không có gì xa lạ, cái mà các cổ đông quan tâm không phải là tỷ lệ chi trả cổ tức hay lợi nhuận không chia mà là giá của cổ phiếu trên thị trường hay chính là triển vọng phát triển của công ty trong tương lai. Đối với các nước mà thị trường chứng khoán còn đang trong giai đoạn sơ khai, các nhà đầu tư chưa thực sự đánh giá được sự thay đổi giá của cổ phiếu có tác động như thế nào tới lợi tức của họ trong tương lai. Ví dụ như ở Việt Nam, hầu như mọi người đều còn thờ ơ với thuật ngữ cổ phiếu, những hoạt động trên sàn giao dịch chứng khoán diễn ra thưa thớt, chỉ một vài công ty tham gia niêm yết trên thị trường. Tình trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các công ty cổ phần đang và sẽ niêm yết. Nguyên nhân chính là do tâm lý của đông đảo người dân, dễ thấy nhất là sự khác biệt về tập quán ngay trong một quốc gia. Cùng ở Việt Nam, nhưng thói quen của người miền Bắc và miền Nam không giống nhau. Người dân miền Nam thường có thói quen tiêu dùng trong khi người miền Bắc lại có tính cần kiệm. Trong khi một cổ đông miền Nam muốn nhận cổ tức tiền mặt để có thể sử dụng lợi tức cổ phần của mình cho thói quen tiêu dùng và giải trí thì cổ đông miền Bắc có thể sẵn sàng từ bỏ cổ tức để kỳ vọng một khoản lợi nhuận lớn hơn khi công ty hoàn thành dự án đầu tư. Sự khác biệt này đòi hỏi chính sách cổ tức của các công ty phải linh hoạt, không thể áp đặt chung cho tất cả các công ty cổ phần đang hoạt động. 1.3.2 Các nhân tố thuộc về phía công ty: Chính sách cổ tức là quyết định tỷ lệ chi trả cổ tức và lợi nhuận giữ lại, do một bộ phận chuyên trách của công ty cổ phần thiết lập. Quyết định này thực chất là xuất phát từ những ý kiến của Hội đồng quản trị công ty, những cổ đông lớn nhất. Do đó, bất kỳ sự thay đổi nào của chính sách cổ tức đều phải được sự chấp thuận của Hội đồng quản trị này. Đồng thời, thái độ của họ đối với công ty cũng tác động không nhỏ tới việc hoạch định chính sách. Có những cổ đông ưa thích tỷ lệ cổ tức cao, ngược lại có những cổ đông lại hi vọng thu được lợi tức thặng dư nhờ vào lợi nhuận giữ lại được đầu tư của công ty. Chiến lược phát triển của công ty trong tương lai cũng là một yếu tố tác động tới chính sách cổ tức trong hiện tại. Giả sử công ty đang theo đuổi một chính sách chi trả cổ tức theo tỷ lệ cao và không giữ lại lợi nhuận đầu tư, nhưng khi có dự án phát triển, để huy động vốn mà không mất nhiều chi phí huy động bên ngoài, công ty có thể đề nghị thay đổi chính sách cổ tức cũ, đặt một tỷ lệ hợp lý của cổ tức được chi trả. Với một kế hoạch phát triển rõ ràng, công ty có thể thuyết phục các cổ đông từ bỏ một phần quyền lợi của mình để kỳ vọng vào lợi nhuận lớn hơn, đó là sự tăng giá cổ phiếu trên thị trường khi công ty thực hiện thành công dự án. Tóm lại, khi hoạch định chính sách cổ tức, các công ty cần phải xem xét ở nhiều giác độ, những yếu tố bên ngoài cũng như những tác động từ bản thân công ty cũng đều có ảnh hưởng nhất định tới chính sách cổ tức. Công ty phải tiến tới một chính sách cổ tức tối ưu, nghĩa là một chính sách thể hiện rõ cán cân chi trả cổ tức hiện tại với nhu cầu phát triển trong tương lai, đồng thời gắn với mục tiêu cuối cùng của công ty là sự tăng giá của cổ phiếu trên thị trường. Mỗi công ty có thể theo đuổi những chính sách cổ tức không giống nhau, song đều nhằm một mục đích chung là vừa đảm bảo lợi ích cho các cổ đông, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của công ty. Đây là một quyết định hết sức nhạy cảm và tương đối phức tạp, vì nó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải luôn tính toán, cân nhắc tỷ lệ tối ưu, duy trì hay thay đổi. Tuy nhiên, khi đã nắm được những yếu tố cơ bản, các cổ đông hoàn toàn có thể tin tưởng vào một chính sách cổ tức linh hoạt của công ty. Chương 2 Thực trạng chính sách cổ tức tại công ty cổ phần Hanel xốp nhựa 2.1 Giới thiệu khái quát về công ty 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần Hanel xốp nhựa được thành lập theo quyết định 1559/CP-UB ngày 9/12/1994 của UBND thành phố Hà Nội. Tên công ty: Công ty cổ phần Hanel Xốp nhựa. Tên giao dịch: Hanel Plastic Company ( HPC). Trụ sở : Khu công nghiệp Sài Đồng- Gia Lâm. Cửa hàng giới thiệu sản phẩm: 606 Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm - HN. 260 Cầu Giấy 1, 2, 3 Thái Hà - Đống Đa - HN. Công ty là một công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập theo quy định của Nhà nước. Công ty là một đơn vị hạch toán độc lập, có con dấu riêng và chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động kinh doanh của mình. Trong thời gian gần đây dưới cơ chế thị trường mở cửa của Nhà nước, đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao nên các nhu cầu về mặt hàng điện tử, đồ gia dụng cao cấp ngày càng nhiều. Song song với biểu hiện tốt đó, một nhu cầu đặt ra cấp bách cho ngành điện tử đó là xốp chèn để bảo vệ cho mặt hàng điện tử, đồ gia dụng khỏi bị xây xát, hư hỏng do quá trình vận chuyển ngày càng nhiều. Trong khi đó, nếu nhập khẩu mặt hàng này thì phải chịu chi phí cao do hàng cồng kềnh nên chi phí vận chuyển lớn. Chính vì vậy công ty điện tử Hà Nội (Hanel) đã làm thủ tục trình UBND thành phố Hà Nội xin thành lập một cơ sở sản xuất xốp chèn với công nghệ hiện đại theo hướng công ty cổ phần sản xuất các phụ kiện cho lắp ráp các hàng điện tử và các mặt hàng khác để thay thế hàng nhập khẩu. Ngay từ đầu năm 1993, cơ sở được phép bắt đầu triển khai xây dựng với diện tích mặt bằng của công ty là 4500m2 đất trong đó có 2000m2 mặt bằng cho khu vực làm việc , nhà xưởng sản xuất. Đến tháng 12/1994, công ty chính thức được thiếp lập do công ty điện tử Hà Nội là sáng lập viên với: Tổng số vốn điều lệ :5.500.000.000 VND Số cổ phiếu : 55.000 cổ phiếu Mệnh giá cổ phiếu : 100.000 VND / cổ phiếu *Vốn thuộc sở hữu của cổ đông pháp nhân sáng lập C

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0108.doc
Tài liệu liên quan