Đề tài Kinh tế tập thể ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp phát triển

Nhìn lại toàn bộ quá trình phát triển của HTX giai đoạn vừa qua có thể thấy rằng vai trò, vị trí của HTX đã được Đảng và Nhà nước xác định là thành phần kinh tế quan trọng cùng với thành phần kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò, vị trí của khu vực này còn bị lu mờ và khu vực HTX vẫn chưa thực sự khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. HTX sẽ khẳng định được vai trò, vị trí của mình khi nó thực sự phát huy được sức mạnh tập thể, sự cố kết của từng thành viên tham gia và thực sự mạnh dạn tham gia cạnh tranh và hợp tác với nhau và hợp tác chặt chẽ với các loại hình doanh nghiệp khác, thực sự lấy hiệu quả hoạt động làm cơ sở để tồn tại và phát triển.

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5708 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế tập thể ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hữu trong kinh tế tập thể 3.1/ Về sở hữu Một trong những nội dung quan trọng là thay đổi trong quan hệ sở hữu của xã viên đối với tư liệu sản xuất như đất đai, máy móc, thiết bị, súc vật cày kéo và các công cụ sản xuất khác. Đó là chuyển từ hình thức sở hữu tập thể chung chung, không rõ chủ quản lý đã chuyển sang giao, bán cho hộ để trực tiếp quản lý, sử dụng đối với từng loại tư liệu. Để làm được việc đó, các hợp tác xã đã tiến hành kiểm kê đánh giá lại tài sản, tiền vốn của hợp tác xã. Sau khi trừ phần vốn công nợ của Nhà nước, thanh toán các khoản nợ và để lại quỹ chung cho duy trì phát triển hợp tác xã, phần còn lại xác định giá trị cổ phần cho từng xã viên trên cơ sở góp vốn ban đầu và số năm tham gia hợp tác xã. Nhiều hợp tác xã còn thực hiện việc chuyển giao nhượng bán lại tư liệu sản xuất cho hộ xã viên để trực tiếp quản lý khai thác. Đối với đất đai trong sản xuất nông nghiệp, người lao động được Nhà nước cấp giấy chứng nhận sử dụng ruộng đất với 5 quyền cơ bản được luật pháp thừa nhận, đối với các tư liệu sản xuất còn lại người lao động có quyền sở hữu khi tự bỏ tiền ra mua sắm hoặc tự tạo ra. Sự thay đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong các đơn vị hợp tác đã làm thay đổi tâm lý, phát huy tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, sự gắn bó và quan tâm của người lao động tới kết quả sản xuất cuối cùng. Đó là tất yếu cơ bản, đảm bảo phát triển bền vững của kinh tế hộ và mỗi đơn vị kinh tế hợp tác. 3.2/ Về quan hệ quản lý Trước hết là bộ máy quản lý các hợp tác xã và các tổ hợp tác đã phải tinh giảm tới mức tối đa, các chức năng chuyên môn và quản lý nội bộ được xác định rõ, hợp lý hơn theo yêu cầu của thực tiễn sản xuất và sắp xếp cán bộ phù hợp hơn. Khi các hộ gia đình được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ thì mối quan hệ giữa các hộ với kinh tế hợp tác xã được chuyển từ quan hệ hành chính, mệnh lệnh sang quan hệ hợp đồng bình đẳng và thỏa thuận, tự nguyện cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản xuất, kinh doanh. Quan hệ quản lý còn được thay đổi trong việc duy trì, phát triển các loại tư liệu sản xuất, tài sản và vốn, quỹ chung của hợp tác xã. Trách nhiệm cá nhân, tập thể đối với từng loại tài sản, vốn, quỹ của kinh tế hợp tác được xác định rõ hơn, cụ thể hơn và công khai hóa trong nội bộ đơn vị. [ 3, trang 80-82 ] CHƯƠNG II THỰC TRẠNG KINH TẾ TẬP THỂ CỦA NƯỚC TA NHỮNG NĂM QUA 1/ Kinh tế hợp tác và hợp tác xã trước đổi mới 1986 Kinh tế hợp tác đã được hình thành từ sau khi hoàn thành hợp tác hóa ở miền Bắc ( 1958 – 1960 ). Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975) chúng ta đã đem áp dụng mô hình hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc vào miền Nam để đưa cả nước tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn 1986 – 1988, năm cao điểm cả nước có trên 100.000 đơn vị kinh tế hợp tác trong các ngành kinh tế trong đó 36.000 tập đoàn sản xuất, còn lại là hợp tác xã. Kinh tế hợp tác thực sự đã có đóng góp to lớn trong thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn, trong kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam. Tuy nhiên trong kinh tế hợp tác sở hữu tập thể kiểu chung chung dẫn đến tư liệu sản xuất sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới kinh tế hợp tác, trước hết là đổi mới về chế độ sở hữu. [ 3, trang 80 ] 2/ Kinh tế hợp tác và hợp tác xã ( HTX ) sau đổi mới 1986 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “ mục đích của hợp tác xã không gì khác ngoài cải thiện đời sống nhân dân, làm cho nông dân được ấm no, mạnh khỏe, được học tập, làm cho dân giàu nước mạnh “ [ 2, trang 173 ] Trong những năm gần đây, kể từ khi Luật HTX ra đời ( 3/1996 ) và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2007 khu vực kinh tế hợp tác và HTX ở nước ta đã thay đổi rất cơ bản cả về lượng và chất. Số lượng đơn vị các HTX tuy tăng không nhiều nhưng đã từng bước được củng cố về chất, lấy lại uy tín và vai trò đối với người lao động, trên cơ sở đó phát triển và ngày càng thu hút các đối tượng khác nhau tham gia, không chỉ là người lao động như những năm trước khi có luật. HTX đã đóng góp tích cực hơn vào sức mạnh chung của kinh tế nhiều thành phần và làm rõ hơn bản chất của kinh tế tập thể mà Đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển. 2.1/ Số lượng HTX 31/06/2003 số lượng HTX của cả nước là 14207 trong đó có khoảng 5800 HTX thành lập mới, riêng lĩnh vực nông nghiệp khoảng 2139 HTX, chiếm tỷ lệ 37%, khoảng 8400 là HTX chuyển đổi từ mô hình cũ sang. Trong thời gian này Luật doang nghiệp cũng đã được ban hành và số lượng các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân được thành lập theo luật này ở khu vực nông nghiệp, nông thôn chỉ có 2613 doang nghiệp, bằng khoảng 36% so với số lượng các HTX hoạt động trong lĩnh vực này. Những con số này cho thấy đối với khu vực nông nghiệp và nông thôn thì HTX có vai trò và vị trí vô cùng to lớn. Các HTX chuyển đổi và thành lập mới theo luật đã phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn, như vùng trung du miền núi phía Bắc có 4034 HTX ( 28% ), vùng Đồng Bằng sông Hồng 5063 HTX ( 36% ), ở các vùng phát triển của sản xuất hàng hóa cao như Đông Nam Bộ số lượng HTX chỉ có 642 HTX ( 4,5% ) Số lượng HTX cũ chưa được xử lý đã giảm đáng kể. Chỉ trong 2 năm 2001 - 2002 đã giải thể được 2271 HTX, đưa số lượng HTX yếu kém, hình thức xuống còn khoảng 500 HTX. Có thể coi đây là thành công trong việc xử lý các HTX yếu kém, không có khả năng phát triển trong nhiều năm trước vì những lý do chủ quan và khách quan khác nhau đã không xử lý được. ( www.gso.gov.vn ) 2.2/ Xã viên và lao động Năm 2001 số lượng xã viên của 4876 HTX đã chuyển đổi và thành lập mới có báo cáo là 3.171.576 người, chiếm khoảng 8% lực lượng lao động của cả nước, nếu suy rộng cho đầy đủ 14.207 HTX thì lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực HTX sẽ là 24%. Đây là một con số đáng kể thể hiện vai trò to lớn của khu vực kinh tế hợp tác và HTX trong việc giải quyết công ăn việc làm, đặc biệt là cho lao động ở khu vực nông thôn. Vai trò của HTX trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động thể hiện rất rõ ở các HTX điển hình tiên tiến trên cả nước. Có những HTX đã thu hút phần lớn số hộ trong thôn, trong xã tham gia vào HTX như : HTX Thiệu Hưng – Thanh Hóa có 830 hộ với 1.010 xã viên tham gia HTX, chiếm 50,6% tổng số hộ của toàn xã, HTX nông nghiệp An Mỹ - Hà Tây có tới 3.277 xã viên, HTX nông nghiệp Đại Đồng – Hà Tây có số xã viên lên đến 4.687 xã viên…Đây đều là các HTX làm ăn khá giỏi và đã tham gia giải quyết việc làm, tạo thêm thu nhập cho phần lớn lao động trên địa bàn. Số lượng xã viên ở các loại hình HTX cũng rất khác nhau. Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là nơi thu hút nhiều xã viên nhất (trung bình 960 xã viên/QTDND), tiếp đó là HTX nông nghiệp (953 xã viên/HTX) và ít nhất là HTX thương mại (43 xã viên/HTX). Điều đó cho thấy mô hình Quỹ tín dụng nhân dân đã có sức hấp dẫn cao đối với người tham gia trong điều kiện hiện nay. Các HTX dịch vụ tổng hợp và dịch vụ chuyên ngành cho sản xuất nông nghiệp vẫn là mô hình tổ chức kinh tế phù hợp nhất đối với các vùng nông thôn hiện nay Năm 2001 lao động làm việc trong các HTX nông nghiệp là 213.383 người, trong khi lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp chỉ là 289.001 người. Mặc dù số lượng lao động của khu vực doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp nhiều hơn so với các HTX nông nghiệp song các HTX nông nghiệp lại là nơi tạo được nhiều việc làm hơn. Bởi ngoài số lao động làm thuê, các HTX nông nghiệp còn giải quyết việc làm cho số lượng xã viên đông đảo của họ. Ngược lại các HTX phi nông nghiệp thường thuê số lượng lao động lớn hơn nhiều so với số lượng xã viên HTX. HTX Hiệp Lưc – Đồng Nai chỉ có 28 xã viên nhưng đã thu hút và giải quyết việc làm cho 300 lao động, HTX. ( www.gso.gov.vn ) 2.3/ Vốn hoạt động Khu vực HTX hiện vẫn đang nắm giữ một lượng vốn đầu tư không nhỏ. Theo điều tra của Ban Kinh tế Trung ương 8/2001 đến 31/12/2000 tổng số vốn của 5052 HTX có báo cáo là 5.018.994 triệu đồng, trong đó gần 2000 tỉ đồng là vốn tự có của các HTX. HTX dịch vụ thương mại 438,7 triệu đồng ( thấp nhất ), Quỹ tín dụng nhân dân 2684,5 triệu đồng ( cao nhất ). Xã viên tham gia HTX đã có ý thức góp vốn để HTX có thể hoạt động theo nhu cầu của chính các xã viên. Số lượng vốn góp của các xã viên trong từng HTX chuyển đổi đã tăng bình quân từ 1,5 đến 2 lần. Mặc dù mức góp còn rất nhỏ, song đó là sự thể hiện nhận thức của xã viên về trách nhiệm của mình đối với HTX. Tuy nhiên việc góp vốn của các xã viên, đặc biệt là ở các HTX nông nghiệp đã chưa căn cứ vào nhu cầu hoạt động của HTX, ở các HTX này việc góp vốn mới chỉ đơn thuần là để thực hiện theo đúng quy định của Luật và bước đầu xác định trách nhiệm của xã viên đối với HTX. Chính vì vậy, lượng vốn thực tế của các HTX thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu về vốn để duy trì và phát triển các hoạt động của HTX. Cho đến nay còn rất ít HTX dịch vụ nông nghiệp xác định được lượng vốn cần thiết để phát triển và mở rộng các hoạt động của mình. Hầu hết các HTX nói rằng thiếu vốn để hoạt động nhưng chưa tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng, kể cả tín dụng ngân hàng và các nguồn vốn tín dụng khác. Chỉ có khoảng 11% tổng số HTX thống kê được vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. ( www.vir.com.vn ) 2.4/ Kết quả sản xuất, kinh doanh Giá trị sản xuất bình quân của các HTX chuyển đổi đã tăng 2,18 lần trong giai đoạn 1997 – 2002, các HTX thành lập mới chỉ tăng 1,3 lần ( năm 2001 so với 1997 ) Mặc dù đã có sự tăng trưởng nhất định trong sản xuất, kinh doanh song khu vực HTX vẫn còn yếu về kinh tế và khả năng tham gia thị trường. Tỷ lệ các HTX thua lỗ, làm ăn kém hiệu quả đã giảm nhưng chưa nhiều, vẫn còn khoảng 45-50% số HTX được thống kê hoạt động không có lãi. Đối với các HTX có lãi thì số lãi cũng không lớn. Tổng số lãi của 1998 HTX từ tất cả các ngành được thống kê đến 31/12/2000 là 106.841 triệu đồng, bình quân mỗi HTX lãi khoảng 60,5 triệu đồng/năm. ( www.gso.gov.vn ) 2.5/ Thu nhập của xã viên Các HTX đã đảm bảo được mức thu nhập ổn định cho xã viên từ 300 đến 500 nghìn đồng/tháng đối với các HTX nông nghiệp, và từ 500 đến 1000 nghìn đồng/xã viên/tháng đối với các HTX phi nông nghiệp. Nhìn chung các HTX trong lĩnh vực phi nông nghiệp đã ngày càng nâng cao thu nhập cho xã viên. Thu nhập bình quân của xã viên HTX đan len Chiến thắng – Tiền Giang năm 2000 chỉ đạt 450 nghìn đồng/tháng, đến năm 2002 đã tăng lên 550 nghìn đồng/tháng, HTX Thương mại Quận 3 TP Hồ Chí Minh năm 1997 lương bình quân của xã viên đạt 1,055 triệu đồng đến năm 2002 đã tăng lên đến 1,378 triệu đồng…Ngoài lương cho xã viên các HTX còn chăm lo cho xã viên về mặt tinh thần những lúc ma chay, cưới hỏi, ốm đau, các dịp Tết, ngày lễ…( www.gso.gov.com ) Bên cạnh đó, các HTX đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển chung của cộng đồng như xây dựng trường học, trạm y tế, đường giao thông, thủy lợi, nhà văn hóa…trên địa bàn, điển hình như HTX nông nghiệp kinh doanh tổng hợp còn nhiều khó khăn nhưng đã cố gắng chăm sóc các gia đình chính sách, tạo điều kiện cho con em của các gia đình chính sách tham gia lao động cho HTX để có thu nhập… 2.6/ Đóng góp của kinh tế hợp tác và HTX vào tăng trưởng kinh tế Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế song khu vực kinh tế tập thể đã có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng GDP chung của toàn nền kinh tế. Nhìn chung hàng năm tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của khu vực kinh tế tập thể đóng góp vào GDP của cả nước khoảng 8%. Trong đó các HTX của ngành giao thông vận tải có đóng góp nhiều nhất so với các ngành khác. Năm 2001 khối lượng hành khách do kinh tế tập thể vận chuyển chiếm 27,4% tổng khối lượng hành khách luân chuyển của cả nước, khối lượng hành khách luân chuyển chiếm 18,5%. Trong các ngành khác như thương mại, công nghiệp, khu vực kinh tế tập thể đóng góp không nhiều, trung bình dưới 1% GDP của từng ngành. Trong lĩnh vực nông nghiệp HTX không trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, mà làm dịch vụ đầu vào đầu ra cho các hộ nông dân là xã viên và cả các hộ nông dân không là xã viên HTX trong sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia tăng sản lượng hàng hóa nông lâm thủy sản, vì vậy có thể coi sự đóng góp của kinh tế tập thể vào tăng trưởng nông nghiệp và vào nền kinh tế nói chung là rất quan trọng. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế (%) Thành phần kinh tế 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Kinh tế tập thể 8,8 8,58 8,06 7,98 7,49 7,11 Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế Thành phần kinh tế 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Kinh tế tập thể 1331,3 2165,6 2162 2727 2745,8 3433 ( www.gso.gov.vn ) Nhìn lại toàn bộ quá trình phát triển của HTX giai đoạn vừa qua có thể thấy rằng vai trò, vị trí của HTX đã được Đảng và Nhà nước xác định là thành phần kinh tế quan trọng cùng với thành phần kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò, vị trí của khu vực này còn bị lu mờ và khu vực HTX vẫn chưa thực sự khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. HTX sẽ khẳng định được vai trò, vị trí của mình khi nó thực sự phát huy được sức mạnh tập thể, sự cố kết của từng thành viên tham gia và thực sự mạnh dạn tham gia cạnh tranh và hợp tác với nhau và hợp tác chặt chẽ với các loại hình doanh nghiệp khác, thực sự lấy hiệu quả hoạt động làm cơ sở để tồn tại và phát triển. CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ 1/ Định hướng phát triển các HTX trong giai đoạn tới 1.1/ Về mặt tổ chức Xã viên HTX : Lựa chọn và xây dựng đội ngũ xã viên phải ý thức được tinh thần hợp tác, có trách nhiệm cao, xác định mình là những người chủ thật sự của HTX. Chỉ khi xã viên có được những phẩm chất ấy thì HTX mới là một tổ chức kinh tế tập thể thực sự, có niềm tin và mới có thể phát huy được sức mạnh tập thể. Đại hội xã viên : Phải tổ chức tốt đại hội xã viên theo luật, bảo đảm cho xã viên làm chủ và bình đẳng trong đại hội để xã viên thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình, thể hiện vai trò làm chủ đối với HTX. Không giống như đại hội cổ đông của các công ty cổ phần, đại hội xã viên của HTX bảo đảm quyền biểu quyết ngang nhau cho mỗi xã viên không phụ thuộc vào mức góp vốn. Đây cũng là một nhân tố bảo đảm quyền và lợi ích bình đẳng giữa các xã viên trong HTX. Bộ máy quản lý và bộ máy điều hành : Các HTX có quy mô hoạt động nhỏ về xã viên, về vốn góp, phạm vi hoạt động hẹp về địa giới hành chính, về ngành, nghề…thì nên xây dựng bộ máy tổ chức theo hướng chỉ có một Ban quản trị vừa giữ chức năng quản lý vừa giữ chức năng điều hành. Mô hình này sẽ tạo cho HTX sự gọn nhẹ trong tổ chức, giảm bớt các chi phí quản lý và tạo sự tập trung, thống nhất cao trong quyết định các vấn đề của HTX. Các HTX có quy mô hoạt động lớn, phạm vi hoạt động rộng trong nhiều ngành, nghề, mở rộng cả các hoạt động liên kết, liên doanh, hợp tác với các cá nhân, tổ chức bên ngoài, xuất khẩu các sản phẩm ra các thị trường lớn trên toàn quốc và quốc tế…thì nên tổ chức riêng hai bộ máy quản lý và bộ máy điều hành. Việc tổ chức riêng hai cơ quan này tạo ra sự chuyên môn hóa trong quản lý và điều hành. Đồng thời mô hình này cũng tạo sự chủ động, phát huy khả năng sáng tạo, tính linh hoạt, quyết đoán của người điều hành. Do đó giúp HTX có khả năng đón nhận và nắm bắt các cơ hội một cách kịp thời. Ban kiểm soát : Hiện nay, Ban kiểm soát hầu như chưa được coi trọng trong các hoạt động HTX. Điều này cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự không hiệu quả, yếu kém của các HTX. Do vậy trong giai đoạn tới, cần xây dựng và củng cố Ban kiểm soát trong các HTX. Tất cả các HTX đều phải thành lập Ban kiểm soát và có những quy định, chế tài cụ thể để Ban kiểm soát hoạt động. Phân phối lợi ích : Các HTX trong giai đoạn tới phải bảo đảm kết hợp được lợi ích của từng xã viên với lợi ích của HTX. Bên cạnh việc phân phối lãi cho xã viên, HTX cũng phải chú trọng việc xây dựng và phát triển các quỹ sản xuất và quỹ dự phòng, hình thành tài sản chung không chia của HTX. Các quỹ này sẽ giúp HTX duy trì, đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh cho các năm tiếp theo. Đồng thời cũng giúp HTX vượt qua những khó khăn khi gặp rủi ro. Đây chính là nền tảng để HTX có thể phát triển vững mạnh, lâu bền. 1.2/ Năng động, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh Không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của các HTX : để đáp ứng đòi hỏi ngày càng khắc khe của thị trường, các HTX phải không ngừng đổi mới, cải tiến kỹ thuật, cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ quản lý, điều hành của cán bộ HTX. Khả năng cạnh tranh của một tổ chức kinh tế phụ thuộc vào cách thức, quy mô tổ chức sản xuất, tiêu thụ của sản phẩm và dịch vụ. Nâng cao khả năng cạnh tranh sẽ giúp HTX khẳng định được vị thế trên thương trường. Đa dạng hóa ngành, nghề hoạt động : Hiện nay, việc cung cấp các dịch vụ đầu vào cho sản xuất đã phát triển khá mạnh trên thị trường. Do vậy, nếu chỉ thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng đầu vào thông thường thì giá trị sản xuất sẽ thấp và phải cạnh tranh rất ác liệt với các loại hình kinh tế khác, đặc biệt là với kinh tế tư nhân. Hơn nữa, việc nâng cao giá trị của sản phẩm và việc tìm thị trường để tiêu thụ sản phẩm là công việc mà từng cá nhân riêng lẻ khó có thể thực hiện thành công. Vì vậy để vươn ra thị trường và giảm tác động của các rủi ro, tăng hiệu quả kinh tế, các HTX đặc biệt là các HTX nông nghiệp cần mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình, như phát triển các ngành, nghề truyền thống, đa dạng các mặt hàng, đảm nhận những khâu quan trọng như chế biến nông sản, tiêu thụ sản phẩm. 1.3/ Định hướng phát triển hợp tác xã trong giai đoạn 2006 – 2010 Đẩy mạnh hỗ trợ phát triển hợp tác xã đa dạng hóa sản xuất, hình thành các hợp tác xã hỗ trợ dịch vụ đời sống, dịch vụ xã hội cơ bản. Nâng cao sức cạnh tranh của các hợp tác xã sản xuất và dịch vụ thương mại trước sức phát triển của các loại hình doanh nghiệp khác. Đa dạng hóa các thể nhân trong hợp tác xã dịch vụ xã hội cơ bản nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội trước các cộng đồng nghèo và thiếu cơ hội phát triển, đồng thời tăng sức mạnh và khả năng cạnh tranh của hợp tác xã trên thị trường. Xây dựng chiến lược phát triển hợp tác xã trong điều kiện mới của nền kinh tế phải quán triệt tính đa dạng trong hỗ trợ, liên kết các tài sản và vốn cho việc mở rộng quy mô sản xuất không kể thể nhân hay pháp nhân nhằm tăng năng lực kinh doanh cho các hợp tác xã. Có thể xây dựng mối liên kết đa chiều giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp lớn trong hệ thống dây chuyền sản xuất liên hoàn trong điều kiện nông thôn đang trong quá trình đô thị hóa nhanh và chịu tác động mạnh của quá trình công nghiệp hóa. Chiến lược hỗ trợ phát triển hợp tác xã phải dựa trên nguyên tắc thị trường có tính đến các yếu tố ưu tiên chính sách do hợp tác xã đang phải đảm nhận một số vấn đề xã hội trên phương diện phát triển con người như chúng ta vừa đề cập trên đây mà nhiều lúc các doanh nghiệp chưa đảm nhận tốt các trách nhiệm xã hội đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển. Vì vậy cần đặt yêu cầu phát triển kinh tế tập thể trong bối cảnh chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa có chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đảm bảo tính hiệu quả và bền vững. Để triển khai thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, không chỉ là việc quán triệt đường lối, quan điểm mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, trong đó thể chế hóa nghị quyết là vấn đề hết sức quan trọng. Vì vậy, để quán triệt và vận dụng các quan điểm của Đảng vào quá trình xây dựng chính sách , pháp luật cũng như tổ chức chỉ đạo phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở nước ta được tốt. [ 1, trang 237-239 ] 2/ Các giải pháp 2.1/ Tăng cường đổi mới chính sách đối với kinh tế tập thể 2.1.1/ Tạo lập môi trường thể chế cho kinh tế tập thể phát triển Tiếp tục nghiên cứu, quán triệt các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tập thể để vận dụng vào việc thể chế hóa và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Trước mắt là phải khẩn trương ban hành đồng bộ các văn bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện Luật HTX. Đồng thời xem xét sửa đổi một số quy định chưa thống nhất giữa các luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tập thể, bảo đảm tính nhất quán giữa các luật, tạo điều kiện để Luật HTX đi nhanh vào cuộc sống theo hướng thể hiện rõ tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của HTX trong lựa chọn ngành nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm, tạo điều kiện cho các HTX dễ dàng chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa ngành nghề phù hợp với nhu cầu thị trường, giảm thiểu thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh của HTX, cho phép thành viên của HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, kể cả cán bộ, công chức cũng được tham gia HTX với tư cách là xã viên, phân định rõ chức năng của Ban quản trị và người điều hành HTX, thành viên Ban quản trị HTX do đại hội xã viên quyết định, Ban quản trị có quyền quyết định thuê cán bộ điều hành, kể cả chủ nhiệm HTX. 2.1.2/ Đổi mới chính sách đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực cho kinh tế tập thể Theo nhiều phân tích và đánh giá hiện nay, công tác cán bộ là khâu yếu nhất trong phát triển kinh tế tập thể mà HTX là nòng cốt. Chúng ta đều biết phát triển kinh tế tập thể không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mạnh hơn và nhiều hơn về công tác cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế tập thể. Để thực thi có hiệu quả điều này cần quan tâm cả hai vấn đề : Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với các Bộ, ngành chủ động quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nghiệp vụ cho kinh tế tập thể. Trên cơ sở quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong thời gian trước mắt Nhà nước cần hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo. Để khuyến khích cán bộ quản lý HTX giỏi, cần thực thi nghiêm túc nguyên tắc “ tự chủ, tự chịu trách nhiệm “ trong hoạt động của các HTX. Đặc biệt là không được can thiệp hành chính vào hoạt động kinh tế của HTX, HTX có toàn quyền quyết định mức lương các chức danh cán bộ quản lý theo nguyên tắc căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Nghiên cứu chính sách tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội để khuyến khích, thu hút cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật được đào tạo về công tác tại các HTX. [ 1, trang 240,241 ] 2.1.3/ Đổi mới chính sách tài chính-tín dụng phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của kinh tế tập thể Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền cho hộ nông dân và các loại thuế khác trong một thời gian nhất định đối với HTX nông, lâm, diêm, ngư nghiệp mới chuyển đổi hoặc thành lập mới để tăng tích lũy vốn cho HTX. Khuyến khích nhiều hình thức góp vốn kể cả bằng tài sản, đất đai…của xã viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho HTX. Công khai hóa các khoản đóng góp của xã viên. Thực hiện chính sách hỗ trợ đầu vào của sản phẩm nông nghiệp trên nguyên tắc không thấp hơn các nước có trình độ kinh tế nông nghiệp như nước ta và hỗ trợ ứng dụng công nghệ, đào tạo nghề cho lao động. Các Bộ, ngành cần sớm có hướng dẫn để các tổ hợp tác và HTX được vay vốn từ các chương trình, dự án quốc gia, HTX được làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn. Xúc tiến nhanh việc xây dựng các Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, Quỹ bảo lãnh tín dụng. Các tổ chức tín dụng tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn đối với hộ và các tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX, hướng dẫn HTX vay theo dự án đầu tư. Tổng kết hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân, các HTX nông nghiệp có dịch vụ tín dụng nội bộ chuyển hoạt động này để thành lập quỹ tín dụng nhân dân, mở rộng việc tổ chức các quỹ tín dụng nhân dân ở những nơi có điều kiện để tăng khả năng cung ứng vốn cho thành viên, giảm tình trạng vay nặng lãi trong nông thôn. 2.1.4/ Thực hiện có hiệu quả thiết thực chính sách hỗ trợ về khoa học và công nghệ cho kinh tế tập thể Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho kinh tế tập thể ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến…HTX được hưởng thành quả và được làm đầu mối trong các chương trình do Nhà nước đầu tư qua hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công. Đầu tư tập trung để nâng cao năng lực một số Viện, Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học và công nghệ theo vùng, nhằm hỗ trợ HTX và hộ nông dân. Khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ liên kết với HTX, thực hiện chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ mới cho HTX, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề…ở nông thôn dựa trên thế mạnh từng vùng. Hướng dẫn và giúp đỡ các HTX tiểu thủ công nghiệp đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, hạ giá thành, tạo sức cạnh tranh. 2.1.5/ Thực hiện chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường nhằm tạo điều kiện giúp đỡ kinh tế hợp tác, HTX phát triển Liên minh HTX Việt Nam cần tích cực triển khai thực hiện chức năng dịch vụ công của mìn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKinh tế tập thể ở việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp phát triển.doc
Tài liệu liên quan