Đề tài Một số biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động ở địa bàn tỉnh Hà Tây

Việc làm đang là vấn đề bức xúc có tính thời sự không chỉ đối với nước ta mà còn đối với tất cả các nước trên thế giới, sức ép về việc làm đang ngày càng gia tăng. Vì vậy giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng của nước ta hiện nay. Mà đối tượng để giải quyết việc làm chính là con người, cụ thể là người lao động, một lực lượng chiếm tỷ lệ rất lớn và đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Do đó để thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì trước hết ta phải tìm hiểu rõ về vai trò quan trọng của con người trong xã hội.

 Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. ở bất cứ giai đoạn nào thì con người cũng luôn là trung tâm của sự phát triển vì vậy mà Mác đã từng nói: “ Con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người với sức lao động, chất lượng, khả năng, năng lực, với sự tham gia tích cực vào quá trình lao động là yếu tố quyết địn tốc độ phát triển của tiến bộ kỹ thuật”. Khi nghiên cứu, tìm hiểu về con người thì ta phải nghiền cứu trên hai khía cạnh:

 

doc72 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 760 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động ở địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thôn được nâng cao cụ thể qua bảng số liệu dưới đây: Năm 2000 2001 2002 2003 % 76,31 77,45 78,96 81,3 Chỉ riêng năm 2003 Hà Tây cũng đã giải quyết việc làm cho 27000 lao động và đưa 1825 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giới thiệu và cung ứng việc làm cho 9600 lao động vào làm việc tại các công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty TNHH, các DNNN. Năm 2003 toàn tỉnh có 168 doanh nghiệp Quốc Doanh trong đó 53 DNTW và trên 1500 công ty TNHH-> thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc. Toàn tỉnh có 1116 làng nghề trong đó có 160 làng nghề được công nhận theo tiêu chí của tỉnh. Với chủ trương của tỉnh về việc khôi phục phát triển làng nghề truyền thống nhân cấy nghề mới, mỗi năm đã dạy nghề và giải quyết việc làm cho gần 1 vạn lao động. Mạng lưới dạy nghề mỗi năm đã đào tạo trên 70% số lao động của tỉnh. * Mục tiêu năm 2004: tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 10%, giải quyết việc làm cho 27000 lao động và đưa 1200 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 5% và nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 82,3%, cơ cấu kinh tế vẫn chuyển dịch theo hướng tiến bộ nâng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng lên 37,1% và các ngành TM- DV lên 28,4%, giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp xuống còn 34,5%. Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, tạo ra các trường trọng điểm để nậng cao trình độ cho người lao động, khuyến khích phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống bằng việc cho vay vốn ưu đãi, tìm thị trường tiêu thụ 2. Quá trình hình thành và phát triển của Sở LĐ-TBXH Hà Tây. 2.1. Lịch sử hình thành của Sở LĐ-TBXH Hà Tây. Trong tuyên cáo ngày 28/8/1945 về việc thành lập chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Bộ LĐ và bộ Cứu Trợ Xã Hội trong tổng số 13 Bộ của chính phủ để đảm trách những nhiệm vụ về lao động, thương binh, xã hội trong những ngày đầu tiên của chính quyền cách mạng nước ta. Trải qua quá trình phát triển của đất nước và xuất phát từ tình hình nhiệm vụ và giai đoạn cách mạng Bộ đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với tình hình mới và từ năm 1987 đến nay Bộ được gọi với tên chung là Bộ LĐ- TBXH. Cùng với sự ra đời của Bộ thì ở các địa phương trong cả nước ngành LĐ- TBXH cũng được hình thành và được củng cố về mọi mặt cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới và Sở LĐ-TBXH Hà Tây là một đại diện. Kể từ khi được thành lập tới nay Sở đã có nhiều thay đổi về cả quy mô lẫn tên gọi cụ thể: Năm 1965: ty LĐ, ty TBXH Hà Đông, Sơn Tây được sát nhập thành ty LĐ, ty TBXH Hà Tây. Năm 1976: ty LĐ, ty TBXH Hà Tây sát nhập với ty LĐ, ty TBXH Hoà Bình thành ty LĐ, ty TBXH Hà Sơn Bình. Năm 1988: đổi tên thành Sở LĐ- TBXH Hà Sơn Bình. Năm 1991: Sở LĐ- TBXH Hà Sơn Bình được chia tách theo quyết định của tỉnh thành Sở LĐ- TBXH Hà Tây và giữ nguyên tên đó đến ngày nay. 2.2. Quá trình phát triển của Sở LĐ-TBXH Hà Tây Sở LĐ-TBXH Hà Tây có trụ sở đặt tại 144 phố Trần Phú- phường Văn Mỗ- thị xã Hà Đông- tỉnh Hà Tây, sau khi chia tách sở gặp nhiều khó khăn trong thời kỳ đầu do cơ sở vật chất thiếu thốn, bộ máy cán bộ chưa đầy đủ về cả mặt số lượng lẫn chất lượng. Song được sự quan tâm cuả tỉnh uỷ, Hội Đồng Nhân Dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh và chính quyền, đoàn thể, nhiệm vụ công tác thuộc lĩnh vực LĐ- TBXH mà nghành quản lý đã đi vào cuộc sống và không ngừng phát triển. Đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có những bước trưởng thành và nâng cao về trình độ chuyên môn, tinh thần đoàn kết nhất trí nên sở luôn hoàn thành và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Không chỉ dừng lại ở đó, Sở LĐ-TBXH đã liên tục đề ra những chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ công tác, mục tiêu phương hướng thực hiện nên Sở đã đạt được nhiều thành tích cao và được tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý của Đảng bộ tỉnh uỷ và của chính phủ: + Sở vinh dự đón nhận huân chương lao động hạng Nhất do chủ tịch nước trao tặng. + Hai huân chương lao động hạng Hai. + Bằng khen của Chính phủ năm 1998. + huân chương lao động hạng ba. +Một lãng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng gửi tặng. + Một lãng hoa của Chủ tịch quốc hội Nông Đức Mạnh gửi tặng. + Trong các năm 1989, 1990, 1997, 1999, 2002, 2003 được Chính phủ tặng cờ luân lưu thưởng đơn vị xuất sắc dẫn đầu cả nước về công tác LĐ- TBXH. + Bộ LĐ- TBXH tặng đơn vị thi đua xuất sắc năm 2000. +Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây tặng cán bộ nhân viên ngành LĐ- TBXH hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới ( 1990- 2000 ). + Và nhiều phần thưởng cao quý khác. Trong những năm gần đây, nền kinh tế đang có những bước chuyển mình đi lên, đất nước đang từng bước hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, tình hình kinh tế trên thế giới diễn biến hết sức phức tạp. Sở LĐ-TBXH Hà Tây vẫn tranh thủ được sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và các cấp uỷ Đảng cơ sở chính quyền quan tâm, Sở không ngừng đổi mới về mọi mặt để phù hợp với tình hình mới và thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ công tác của ngành. trạng vấn đề II. Thực trạng vấn đề việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hà Tây (từ 1999-2003). 1. Thực trạng nguồn lao động của tỉnh Hà Tây (1999-2003). 1.1. Quy mô nguồn lao động của tỉnh. Hà Tây là tỉnh có quy mô dân số đứng vị trí thứ năm của nước ta, nên quy mô nguồn lao động của tỉnh cũng rất lớn. Bảng 1: Quy mô dân số và nguồn lao động của tỉnh. Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Dân số 2.393.549 2.420.936 2.448.466 2.473.000 2.490.230 NLĐ 1.330.813 1.355.724 1.383.383 1.409.610 1.436.144 Tỷ lệ NLĐ/DS 55,6 56 56.5 57 57,6 ( Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà Tây) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy một thực tế khá rõ ràng là quy mô nguồn nhân lực của tỉnh là rất lớn. Mặc dù, tốc đồ tăng dân số của tỉnh từ 1999-2003 có xu hướng liên tục giảm, năm 1999 dân số tăng so với năm 1998 là trên 2% thì đến năm 2002 tốc độ này là 1% so với năm 2001, nếu dân số tiếp tục chuyển biến theo xu hướng này thì dân số tỉnh trong vài năm tới sẽ ổn định ở con số hợp lý. Nguyên nhân của thành quả trên là do Uỷ ban dân số của tỉnh đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền các biện pháp KHHGĐ đến mọi người dân ở các vùng rộng khắp trong tỉnh đồng thời kết hợp với các biện pháp xử lý nghiêm. Tỷ lệ sinh con thứ 3 ở tỉnh đến năm 2003 chỉ còn là 1,1%. Nhờ công tác tuyên truyền tốt nên mọi người đều hiểu được tầm quan trọng của việc đầu tư giáo dục cho con em họ. Mặt khác trong hoàn cảnh nền kinh tế xã hội hiện nay, đông con là cái nôi của nghèo nàn và thất học vì chi phí cho giáo dục đào tạo cho một học sinh ngày nay là rất lớn. Mà thất học, thiếu kiến thức kỹ năng lại là nguyên nhân của thất nghiệp, do đó giảm mức sinh là cần thiết và Hà Tây đã đạt được điều đó. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được trong công tác dân số thì Hà Tây vẫn đang đứng trước thách thức lớn, do tỷ lệ tăng dân số giai đoạn trước của tỉnh là rất cao nên hậu quả hiện nay gánh chịu là số người trong độ tuổi lao động đang ngày càng tăng lên. Nếu năm 1999 toàn tỉnh có 1.330.813 người trong độ tuổi lao động thì đến hết năm 2003 con số này đã là 1.436.144 người tức là chỉ trong vòng 5 năm đã có trên 105.331 người bước vào độ tuổi lao động và bình quân mỗi năm có 21.0662 người cần việc làm. Tỷ trọng nguồn lao động trong tổng dân số của tỉnh cũng rất lớn nếu năm 1999 là 55,6% thì đến năm 2003 là 57,6%, nguồn lao động dồi dào, tỷ lệ tăng nguồn lao động qua các năm vẫn còn ở mức cao trên 1,8% năm 2003. Đây là một lợi thế của tỉnh trong tương lai nhưng đối mặt với điều kiện hiện nay thì đây lại là một nhân tố hạn chế quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. 1.2. Cơ cấu nguồn lao động của tỉnh. * Theo khu vực: Hà Tây có hơn 90% dân số tập trung ở khu vực nông thôn nên số người trong độ tuổi lao động của tỉnh cũng tập trung đa số ở khu vực này. Bảng 2: Cơ cấu nguồn nhân lực theo khu vực Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 NLĐ 1.330.813 1.355.724 1.383.383 1.409.610 1.436.144 Thành thị 93.024 99.917 109.720 116.575 119.635 Nông thôn 1.237.789 1.255.807 1.273.663 1.293.035 1.316.559 (Nguồn: Sở LĐ-TBXH Hà Tây) Theo số liệu thống kê của tỉnh ta thấy số người trong độ tuổi lao động tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn tuy nhiên có xu hướng ngày một giảm mạnh. Nếu năm 1999 tỷ lệ nguồn lao động sống ở khu vực nông thôn trong tổng số người trong độ tuổi lao động là xấp xỉ 93% thì đến năm 2003 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 91,67%. Đi đôi với số lượng nguồn lao động sống ở khu vực nông thôn giảm là số người sống ở khu vực thành thị ( hai thị xã Hà Đông và Sơn Tây) có xu hướng tăng lên, năm 1999 có 93.024 người sống ở khu vực này ( chiếm khoảng 7% số người trong độ tuổi của tỉnh), thì đến năm 2002 là 116.575 người và năm 2003 là 119.635 người( chiếm 8,33%). Tăng số lượng người sống ở đô thị là một xu thế của quá trình phát triển kinh tế xã hội diễn ra trên thế giới. Nhìn vào thực tế một số nước phát triển ta thấy rất rõ điều này như: Singapo 100% dân số sống ở thành thị, Canada, Thuỵ Điển có trên 90% dân số sống ở đô thị. Do đó, sự chuyển đổi trong cơ câú nguồn lao động của tỉnh theo khu vực là một thành quả đáng mừng. Nguyên nhân của kết quả trên là do: Hà Tây có 2 thị xã lớn là Hà Đông và Sơn Tây đều nằm ở vị trí trọng yếu, cửa ngõ vào thủ đô Hà Nội đặc biệt thị xã Hà Đông nằm ngay cạnh khu tam giác kinh tế lớn của miền Bắc là Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh nên hoạt động kinh tế diễn ra rất sôi động, thu hút nhiều nhà đâù tư nhảy vào xây dựng doanh nghiệp, công ty hoạt động sản xuất kinh doanh-> thu hút nhiều lao động dẫn đến kéo theo một bộ phận lao động ở nông thôn chuyển ra. Mặt khác, ở khu vực này du lịch rất phát triển với nhiều danh lam thắng cảnh lớn, di tích lịch sử nên dịch vụ ở đây cũng rất phát triển-> loại hình buôn bán nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể, tư nhân cũng được phát triển> rút dần lao động ra khỏi khu vực nông thôn. * Cơ cấu theo giới tính: Ta có bảng số liệu sau: Bảng 3: Cơ cấu nguồn lao động phân theo giới tính Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 LLLĐ 1.330.813 1.355.724 1.383.383 1.409.610 1.436.144 Nam 643.182 617.939 657.107 672.384 691.791 Nữ 687.631 737.785 726.276 737.226 744.353 (Nguồn: Sở LĐ-TBXH Tỉnh) Qua bảng số liệu trên ta thấy có sự giống nhau giữa các năm đó là nguồn lao động nữ luôn chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, đây cũng là một thực trạng chung ở nước ta. Năm 1999 số lao động nữ của tỉnh là 687.631 người chiếm 51,67% tổng nguồn lao động của tỉnh, nam giới chỉ chiếm 48,33%, đến năm 2003 lao động nữ là 744.353 người chiếm 51,83% như vây sự chênh lệch về tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động của tỉnh nhìn chung không đáng kể. Lao động nữ cao cũng là một lợi thế của tỉnh vì lao động nữ có đặc điểm là cần cù, chịu khó nên họ thích hợp với các công việc đòi hỏi sự kiên trì như: may mặc, da giàymà loại hình sản xuất này đang một phát triển trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên lao động này lại không thích hợp với các công việc đòi hỏi cơ bắp nên không thích hợp làm việc ở các nhà máy xí nghiệp sản xuất công nghiệp nặng. * Cơ cấu theo trình độ học vấn Ta có bảng số liệu sau: Bảng 4: Cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ học vấn Đơn vị: % Năm 1999 2000 2001 2002 2003 Mù chữ 0,72 1,01 0,89 0,67 0,43 Chưa TN cấp I 7,21 6,1 5,67 5,32 4,52 TN cấp I 19,73 20,98 21,53 21,86 22,17 TN cấp II 51,1 52,58 52,97 53,12 53,64 TN cấp III 21,24 19,33 18,94 19,03 19,24 (Nguồn: Cục thống kê tỉnh qua các năm) Qua bảng số liệu trên ta thấy thực trạng trình độ văn hóa của những người trong độ tuổi lao động của tỉnh vẫn còn thấp. Năm 1999 vẫn còn tới 0,72 % số người mù chữ đến năm 2000 con số này còn tăng lên 1,01% và các năm sau tuy có xu hướng tiếp tục giảm nhưng vẫn còn tồn tại tình trạng người lao động mù chữ là một điều khó chấp nhận đối với một tỉnh có tiềm năng về phát triển kinh tế như Hà Tây. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt chưa đạt được đó thì tỉnh cũng đã có những tiến bộ trong công tác giáo dục đào tạo, số người tốt nghiệp cấp I, cấp II có xu hướng tiếp tục tăng lên, năm 1999 số người trong độ tuổi lao động tốt nghiệp cấp I, cấp II mới chỉ chiếm 19,73% và 51,1% trong tổng số nguồn lao động thì đến năm 2003 đã tăng lên 22,17% và 53,64%. Số người tốt nghiệp cấp III không ổn định, năm 1999 số người tốt nghiệp cấp III chiếm 21,24% nhưng đến năm 2001 thì lại chỉ chiếm 18,94% cho thấy tình trạng bỏ học của học sinh phổ thông trung học có xu hướng tăng lên, đến năm 2002 và 2003 thì con số này lại đang có xu hướng tăng một dấu hiệu đáng mừng trong công tác giáo dục định hướng của tỉnh. Nhìn vào bảng số liệu thống kê ta thấy số lượng người trong độ tuổi lao động đã tốt nghiệp cấp II vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất, hy vọng với các chính sách khuyến khích, đầu tư cho giáo dục đào tạo của tỉnh thì trong tương lai trình độ học vấn của người lao động không ngừng được tăng lên, số người tốt nghiệp cấp III sẽ chiếm tỷ lệ lớn nhất đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. 2. Thực trạng về vấn đề việc làm ở tỉnh Hà Tây giai đoạn 1999-2003. 2.1. Theo khu vực. Số người trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ lớn nên số người tham gia hoạt động kinh tế (HĐKT) ở tỉnh cũng tập trung chủ yếu ở khu vực này. Cụ thể ta có bảng số liệu dưới đây: Bảng 5: Số người từ đủ 15 tuổi trở lên của tỉnh theo khu vực. Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Số người HĐKT + Thành thị + Nông thôn 1.239.212 1.263.341 1.287.706 1.312.67 1.338.131 96.765 98.478 106.792 135.783 153.632 1.142.447 1.164.863 1.118.914 1.176.85 1.184.499 Không HĐKT + Thành thị + Nông thôn 458.346 478.335 474.856 518.274 563.843 47.352 52.288 62.457 78.322 83.567 410.994 426.048 412.399 439.952 480.276 (Nguồn: Báo cáo tổng kết điều tra lao động- việc làm của ban chỉ đạo điều tra lao động- việc làm của tỉnh qua các năm). Qua kết quả điều tra ta thấy số người tham gia hoạt động kinh tế ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ cao năm 1999 là 1.142.447 người chiếm 92,19%, nhưng có xu hướng giảm dần đến năm 2003 chỉ còn 1.184.499 chiếm 88,5%. Ngược lại ở khu vực thành thị thì con số này lại đảo ngược, năm 1999 có 7,8% số người từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế ở khu vực này thì đến năm 2003 là11,48%. Nguyên nhân là do quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã rút dần lao động ra khỏi khu vực nông thôn. Đối với những người không tham gia hoạt động kinh tế hiện nay của tỉnh cũng có xu hướng tăng lên, năm 1999 có 458.346 người từ 15T trở lên không HĐKT thì đến năm 2003 là 563.843 người, cũng giống như số người HĐKT tỷ lệ số người không HĐKT ở khu vực nông thôn cũng chiếm tỷ lệ cao hơn ở thành thị. Nguyên nhân không tham gia HĐKT có thể đó là những người đang đi học, nội trợ, già cả, ốm đau, tàn tật, Đối với những người HĐKT thì tình trạng về việc làm của họ cũng có nhiều thay đổi. Cụ thể: Bảng 6: Nhân khẩu từ đủ 15T trở lên HĐKT của tỉnh Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Đủ việc làm 1.225.953 1.245.401 1.253.587 1.260.30 1.270.31 Thiếu việc làm 10.038 14.388 30.453 43.867 57.632 Không có VL 3.222 3.552 3.666 8.410 10.178 (Nguồn: Báo cáo tổng điều tra lao động- việc làm các năm) Qua bảng trên ta thấy:số người có đủ việc làm chiếm tỷ lệ khá cao 96,02% năm 2002. Tuy nhiên vẫn thấp hơn so với các năm trước, năm 1999 tỷ lệ này là 98,83%, xu hướng trong vài năm tới tỷ lệ này tiếp tục giảm mạnh, do sức ép về quy mô dân số lớn kéo theo đó là quy mô nguồn lao động lớn, số người có nhu cầu về việc làm ngày một tăng lên-> đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động là rất khó, đi kèm với số lao động có đủ việc làm giảm đi là số lao động thiếu việc làm và không có việc làm tăng lên và có xu hướng tăng nhanh. Nếu năm 1999 số người thiếu việc làm và không có việc làm mới chỉ chiếm tỷ lệ là 0,81% & 0,26% thì đến năm 2003 con số này là 3,34% & 0,64% tăng rất nhanh trong vòng 5 năm. Đòi hỏi các ngành, các cấp phải có biện pháp kịp thời ngăn chặn tình trạng trên, đảm bảo việc làm cho người lao động góp phần ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế của tỉnh. 2.2. Theo giới tính. Ta có bảng số liệu dưới đây: Bảng 7: Tình trạng của những người đủ 15T trở lên theo giới tính Đơn vị: Người Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Số người HĐKT 1.239.212 1.263.341 1.287.706 1.312.627 1.338.11 + Nam 591.972 607.417 623.843 638.120 653.945 + Nữ 647.240 655.924 663.863 674.507 684.186 Số người K0HĐKT 458.346 478.335 474.856 518.274 563.843 +Nam 212.352 227.690 213.385 235.225 258.409 + Nữ 245.994 250.645 261.471 283.049 305.434 (Nguồn: Báo cáo điều tra lao động- việc làm các năm của tỉnh ) Theo kết quả điều tra ta thấy, số người hoạt động kinh tế của tỉnh thì số lượng nữ giới cao hơn nam giới, năm 1999 trong tổng số 1.239.212 người hoạt động kinh tế thì nữ giới là 647.240 người chiếm 52,23% tuy nhiên tỷ lệ này đang có xu hướng giảm đến năm 2001 nữ giới hoạt động kinh tế chỉ còn là 663.863/1.287.706 người chiếm 51,55% và năm 2003 tỷ lệ này chỉ là 51,13% đang tiến dần đến sự cân đối giữa nam và nữ. Nguyên nhân có thể do số lượng nữ không tham gia hoạt động kinh tế tăng lên ( do học sinh nữ được đi học lên cao ngày càng tăng, tham gia hoạt động nội trợ). Và thực tế là như vậy, theo kết quả điều tra trên ta thấy đối với những người từ đủ 15 tuổi trở lên không hoạt động kinh tế thì tỷ lệ nữ giới ngày càng tăng lên và tăng cao hơn so với nam giới, năm 2000 trong tổng số 478.335 người không HĐKT nữ giới là 261.471 người chiếm 52,4% nam giới chiếm 47,6% thì đến năm 2003 trong tổng số 563.843 người không HĐKT tỷ lệ nữ giới đã chiếm lên đến 54,17%, nam giới chỉ còn 45,83%. Nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ nữ giới tham gia HĐKT và không tham gia HĐKT cao hơn nam giới là do tỷ lệ nữ trong tổng dân số luôn chiếm một tỷ lệ cao hơn so với nam nhất là trong độ tuổi lao động, còn tình trạng nữ không tham gia HĐKT tăng thì có rất nhiều nguyên nhân nhưng đáng kể nhất có thể do ngày nay người ta đầu tư cho giáo dục của con cái không phân biệt giới tính, nên tỷ lệ các em nữ từ 15 tuổi trở lên được đi học ngày càng nhiều lên và học càng cao hơn dẫn đến rút dần bộ phận lao động nữ dưới 18 tuổi hoạt động kinh tế. Mặt khác có thể do nữ giới từ 50 tuổi trở lên có xu hướng tập trung quan tâm đến gia đình hơn nên số người làm nội trợ tăng lênNhưng nhìn chung thì ở bất cư khu vực nào của nước ta thì tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế hiện nay vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn. 3. Vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây giai đoạn 1999- 2003. 3. Vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tây gia đoạn 1999-2003 3.1. Trong hoạt động cho vay vốn: Sau 10 năm thực hiện cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm (1992-2002), tỉnh Hà Tây đã có 1.022 dự án được duyệt, số vốn được vay là 105.096 triệu đồng, đã thu hút và giải quyết việc làm cho 88.862 lao động. Đặc biệt chỉ riêng trong năm 2003 tỉnh đã có 107 dự án được duyệt với tổng số vốn cho vay là 18.074 triệu đồng, thu hút và giải quyết việc làm cho 7443 lao động. Trong tổng số các dự án được vay vốn do ban chỉ đạo giải quyết việc làm tỉnh duyệt phân theo ngành kinh tế cụ thể như sau: + Ngành nông- lâm nghiệp có 517 dự án chiếm 68,84%, số vốn được vay là 65.727,5 triệu đồng chiếm 75,89% tổng số vốn, thu hút và tạo thêm việc làm cho 58.181 lao động. Trong đó: cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn quả, trồng cây nông nghiệp có 56 dự án chiếm 10,86%, số vốn vay là 6.482 triệu đồng chiếm 9,86% thu hút và tạo thêm việc làm cho 6.437 lao động; chăn nuôi ( bò sữa, bò lai sim, bò sinh sản, lợn hướng nạc) có 437 dự án chiếm 84,5%, vốn được vay là 56.999,5 triệu đồng, thu hút và tạo thêm việc làm cho 47.786 lao động; nuôi trồng thuỷ sản có 24 dự án chiếm 4,64%, số vốn vay là 2.246 triệu đồng chiếm 3,42%, thu hút và tạo thêm việc làm cho 3.698 lao động. Các dự án thuộc ngành nông lâm nghiệp, đã tập trung vốn hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển theo các chương trình mũi nhọn của tỉnh, có hiệu quả kinh tế cao và thu hút, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động như: - Phát triển đàn bò sữa ở Cổ Đô, Phú Cường, Tiền Phong ( Ba Vì), Sài Sơn( Quốc Oai), Đồng Tháp( Đan Phượng). - Các dự án phát triển lợn hướng nạc, lợn sinh sản, bò lai sim của các tổ chức, đoàn thể, các xã trên địa bàn tỉnh. - Dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo mô hình trang trại như: trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, vườn quả. - Các dự án cải tạo hàng trăm hecta vườn tạp thành vườn cây ăn quả có giá trị kinh tế cao ở các xã ven sông, vùng bán sơn địa, vùng kinh tế mới. - Các dự án đầu tư phát triển sản xuất nông sản xuất khẩu như: sản xuất nấm, mộc nhĩ của anh Nguyễn Hữu Hoàng ở các xã Tân Lập, Đồng Tháp, Liên Trung ( Đan Phượng) Vay vốn hỗ trợ việc làm đối với các dự án phát triển kinh tế nông nghiệp đã tạo điều kiện hỗ trợ thêm vốn để các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình phát triển sản xuất kinh doanh, giúp trên 60.000 lượt hộ gia đình nông nghiệp ở nông thôn có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, góp phần vào thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm của tỉnh. + Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có 157 dự án chiếm 23,3%, số vốn được vay là 14.713 triệu đồng chiếm 17%, thu hút và tạo thêm việc làm cho 12.232 lao động chiếm 16,43% số lao động được giải quyết việc làm. Trong đó: - Cơ khí có 26 dự án, chiếm 14,8%, số vốn được vay là 2.115 triệu đồng chiếm 14,38%, tạo việc làm mới cho 879 lao động. - Chế biến nông sản thực phẩm có 22 dự án chiếm 12,6%, số vốn vay là 2.697 triệu đồng chiếm 18,5%, tạo việc làm cho 2.583 lao động. - Công nghiệp da, giày, may, dệt có 50 dự án chiếm 28,5% số vốn vay là 4.561 triệu đồng chiếm 31%, tạo việc làm cho 4.656 lao động. - Sản xuất vật liệu xây dựng có 23 dự án chiếm 13,1%, số vốn được vay là 1293 triệu đồng chiếm 8,8%, tạo việc làm cho 1.521 lao động. - Các nghề thủ công, mỹ nghệ khác có 67 dự án chiếm 30,2%, số vốn được vay là 7.154 triệu đồng chiếm 48,6%, tạo việc làm cho 5.898 lao động. Vốn vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã góp phần làm cho nhiều nghề, làng nghề truyền thống được khôi phục, nhiều nghề mới, làng nghề mới được phát triển như: dệt ở Vạn Phúc- Hà Đông, sơn mài ở Duyên Thái, mộc cao cấp ở Vạn Điểm –Thường Tín, mây tre đan ở Phú Vinh, Phú Nghĩa- Chương Mỹ Đã góp phần đưa số làng có nghề trong tỉnh đến nay lên 1.116 làng có nghề và có 120 làng xã đã được công nhận làng nghề theo tiêu chuẩn của tỉnh. Nhờ một phần vốn vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã góp phần giúp nhiều doanh nghiệp tư nhân có thêm vốn, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tạo được nhiều việc làm cho lao động như: Công ty TNHH cơ khí Sông Công, công ty TNHH Đại Dương, tổ hợp sản xuất bóng đá La Khê, công ty cổ phân Ninh Dương + Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch có 59 dự án chiếm 7,8%, số vốn được vay là 6169 triệu đồng chiếm 7,1% , thu hút và tạo thêm việc làm 4028 lao động. Các dự án đối với ngành thương mại, dịch vụ du lịch chủ yếu tập trung nguồn vốn cho các dự án du lịch như: Đầu tư phát triển đẩy mạnh dịch vụ du lịch, vệ sinh môi trường của công ty TNHH Yến Hương- Hương Sơn Mỹ Đức. Nguyên nhân của kết quả trên là: + Có chủ trương chính sách phù hợp: đối tượng cho vay vốn quy định rộng; thời hạn vay vốn phù hợp với từng ngành nghề, loại hình sản xuất; lãi suất cho vay thấp; hình thức thế chấp, tín chấp được áp dụng bảo hành giúp cho mọi thành viên không có tài sản thế chấp vẫn được vay vốn + Được sự uỷ quyền của liên bộ kho bạc có trách nhiệm thẩm định, xét duyệt và thực hiện khâu cuối cùng là cho vay nên vốn được sử dụng đúng mục đích và quản lý thống nhất thuận lợi từ khi cho vay đến khi thu nợ. Nhờ hoạt động vay vốn giải quyết việc làm trong thời gian qua tỉnh đã giải quyết được cho hàng vạn lao động có việc làm ổn định thông qua các dự án như trên tuy nhiên, bên cạnh đó công tác vay vốn giải quyết việc làm của tỉnh vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như: - Việc xây dựng một số dự án ở một số huyện thị xã còn chậm, một bộ phận dự án tính khả thi chưa cao. Hàng năm ban chỉ đạo giải quyết việc làm tỉnh đều có các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện, song một số huyện, thị xã vẫn không thực hiện đúng nên gây khó khăn cho ban chỉ đạo tỉnh khi xét duyệt. - Ban chỉ đạo giải quyết việc làm một số huyện thị xã chưa quan tâm chỉ đạo chặt chẽ trong việc hướng dẫn xây dựng dự án và hoàn trả Nhà nước gốc và lãi quy định. - Mặc dù ban chỉ đạo tỉnh có nhiều cố gắng thường xuyên đôn đốc và có nhiều biện pháp tích cực chỉ đạo việc thu nợ quá hạn song vẫn tồn tại nhiều dự án dư nợ quá hạn. Nguyên nhân của hạn chế là: + Về nhận thức: một số cán bộ trực tiếp thực thi chủ trương này, việc tập huấn chưa được thường xuyên; văn bản hướng dẫn từ Trung ương có chỗ, từng thời điểm chưa cụ thể, thay đổi luôn nên địa phương khó thực hiện. +Về tổ chức thực hiện: chưa được nhanh chóng để đảm bảo cho thời vụ và hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.2. Trong hoạt động xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế xã hội có ý nghĩa chiến lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế nước ta trong qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT088.doc
Tài liệu liên quan