Đề tài Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi

I. Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ của NHTM: 7

1. Vị trí của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế: 7

2. Vai trò của NHTM trong việc phục vụ kinh tế phát triển: 8

3. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại: 10

3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn của Ngân hàng: 11

3.1.1. Nghiệp vụ tiền gửi: 11

3.1.2. Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: 11

3.1.3. Nghiệp vụ đi vay: 11

3.1.4. Nghiệp vụ huy động vốn khác: 11

3.1.5. Vốn tự có của Ngân hàng: 11

3.2. Nghiệp vụ tài sản có: 12

3.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ: 12

3.2.2. Nghiệp vụ cho vay: 12

3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư tài chính: 12

3.2.4. Nghiệp vụ khác: 12

II. Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng thương mại và các tài khoản phản ánh nghiệp vụ huy động vốn: 13

1. Nội dung các loại vốn huy động của Ngân hàng thương mại. 13

1.1. Vốn huy động: 13

1.2. Vốn đi vay: 13

1.3. Vốn khác: 13

2. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại: 14

2.1. Tiền ký gửi: 15

2.1.1. Trên TK tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn): `15

2.1.2. Trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: 16

2.1.3. Tiền gửi tiết kiệm: 16

2.2. Các loại TK tiền gửi phản ánh nghiệp vụ huy động vốn: 17

2.2.1. TK tiền gửi không kỳ hạn (TK tiền gửi thanh toán). 18

2.2.2. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: 19

2.2.3. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm: 19

2.2.4. Tài khoản vãng lai: 21

2.2.5. Tài khoản kỳ phiếu, trái phiếu: 22

III. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn. 22

1. Chính sách lãi suất cạnh tranh: 22

2. Các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng: 23

3. Chính cách khách hàng: 24

4. Công nghệ Ngân hàng. 24

5. Chính sách cán bộ: 24

6. Chính sách tiếp thị: 24

7. Địa điểm: 25

8. Uy tín hoặc mức độ thâm niên của một Ngân hàng. 25

IV. Vai trò của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: 25

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI

CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI

I. Vài nét về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội: 28

1. Sơ lược lịch sử Ngân hàng Đầu tư và Phát triển: 28

2. Những thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng. 29

2.1. Những thuận lợi: 29

2.2. Những khó khăn: 31

II. hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trong thời gian qua. 32

1. Khái quát tình hình hoạt động vốn của Ngân hàng qua các giai đoạn: 32

1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng (24/5/1990) 32

1.2. Giai đoạn từ năm 1990 cho đến 31/12/1994: 33

1.3. Giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội bắt đầu hoạt động như một Ngân hàng thương mại từ 01/01/1995 đến nay: 34

2.1. Các nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư. 40

2.1.1. Số dư tài khoản tiền gửi: 40

2.1.2. Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu: 45

2.1.3. Kỳ phiếu Ngân hàng. 48

2.1.4. Trái phiếu Ngân hàng: 49

2.2. Các nguồn đi vay: 51

2.2.1. Vay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 51

2.2.2. Vay các tổ chức tài chính tín dụng khác: 53

III. Những thành tựu và hạn chế trong công tác huy động nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. 54

1. Những kết quả đạt được: 54

2. Những mặt còn hạn chế: 56

2.1. Chiến lược khách hàng: 56

2.2. Chi nhánh chưa huy động đủ nguồn vốn trung, dài hạn: 57

2.3. Chi nhánh chưa có các nghiệp vụ chiết khấu các chứng từ có giá: 57

2.4. Chi nhánh từng bước gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn theo cơ cấu, tính chất thời gian, theo tính chất nội, ngoại tệ, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa thực sự như mong đợi: 58

 

doc76 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đầu tư và Phát triển đảm nhiệm mà còn do Tổng cục ĐTPT thực hiện, tạo ra sự cạnh tranh mới. Mặt khác, Ngân hàng cũng có sự thua thiệt khi bước vào cơ chế mới chậm hơn so với các đối thủ khác trong cùng địa bạn đã có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh và chiến lược thu hút khách hàng đầy hiệu quả còn đội ngũ cán bộ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chưa nhanh nhậy trong hoạt động của cơ chế thị trường. - Ngoài những khó khăn riêng do đặc thù của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, do cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu á tác động không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp. Vốn đầu tư nước ngoài giảm, đồng tiền nội địa có sự mất giá, nhu cầu về vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá là rất lớn nhưng việc khai táhc nguồn vốn cho vay trung, dài hạn đang còn là vấn đề nan giải. Ngân hàng muốn huy động được lãi suất thấp nhất hiện nay cũng phải 12%/1năm trong khi đó doanh nghiệp vay vốn không muốn chấp nhận lãi suất cao như vậy. Mặt khác người gửi tiền có xu hướng gửi ngắn hạn một năm trở xuống cón người vay lại muốn kỳ hạn dài. Đó là mâu thuẫn rất khó khắc phục. II. hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trong thời gian qua. 1. Khái quát tình hình hoạt động vốn của Ngân hàng qua các giai đoạn: 1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng (24/5/1990) Một trong các nghiệp vụ của Ngân hàng Đầu tư xây dựng Hà Nội được ban hành tháng 10 năm 1988 là “Huy động và khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi bằng các biện pháp kinh tế năng động, có hiệu quả và thanh toán trong xây dựng cơ bản”. Như vậy về mặt văn bản, chỉ thị trong giai đoạn này công tác huy động vốn đã được đề cập như một nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Nội. Tuy nhiện, trên thực tế việc huy độn vốn chỉ bó hẹp ở tiền gửi của các tổ chức kinh tế quốc doanh. Công tác huy động vốn chưa được thực thi đúng với ý nghĩa của nó. 1.2. Giai đoạn từ năm 1990 cho đến 31/12/1994: Theo báo cáo tổng kết của Ngân hàng trong năm 1992 thì một trong những yếu kém nổi bật của Ngân hàng là còn thụ động chờ vốn của ngân sách, cấp trên chuyển về để cấp phát và cho vay đầu tư theo kế hoạch của cấp chủ quản được Uỷ ban kế hoạch Nhà nước thông báo. Do có nguồn vốn của ngân sách cấp nên Ngân hàng chưa thực sự năng động, nhạy bén tìm nhiều hình thức và biện pháp thu hút các nguồn vốn trong dân và mạnh dạn sử dụng vốn ngoại tệ cho vay, cũng như để tìm kiếm các loại dịch vụ Ngân hàng thông qua nghiên cứu tiếp cận thị trường một cách có kế hoạch. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã làm thí điểm phát hành kỳ phiếu đảm bảo giá trị theo giá vàng (năm 1992) nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong dân để bổ sung nguồn vốn cho vay đối với các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển sắp xếp nhưng đang thiếu vốn. Điều đó đã gây được niềm tin của khách hàng và nhân dân Hà Nội, cũng như đặt nền móng để Ngân hàng làm quen, tiếp cận dần thị trường vốn vào những năm sắp tới. Tuy vậy do nhiều lý do như giá cả, tâm lý, thực trạng nền kinh tế mới bước đầu đi vào cơ chế thị trường... chi phối nên chủ trương này chưa được tiến hành liên tục. Với trên 2 tỷ đồng huy động bao gồm kỳ phiếu được đảm bảo giá trị theo giá vàng và USD, đợt phát hành kỳ phiếu đầu tiên đã có tác dụng tốt trong việc tạo nguồn vốn. Trong năm 1994, cùng với các Chi nhánh khác trong cùng hệ thống Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã tham gia phát hành trái phiếu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (cả bằng VND và USD) nhằm mục đích huy động vốn trung và dài hạn để cho vay đầu tư các nhà máy xi măng, nhà máy gạch địa phương và một số dự án khác. Đến 31/12/1994, Ngân hàng đã có những chuyển hướng mạnh mẽ về huy động vốn. So với mức vốn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương hỗ trợ cho vay là 15 tỷ đồng, thì số vốn mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội tìm kiếm để phục vụ nhu cầu hoạt động năm 1994 của Thủ đô là 122 tỷ, gấp 8 lần. Nếu như năm 1990 tỷ trọng vốn ngân sách chiếm 80,9% trong tổng số vốn thì năm 1994 tỷ trọng vốn ngân sách chỉ còn 59,1% tổng số vốn. 1.3. Giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội bắt đầu hoạt động như một Ngân hàng thương mại từ 01/01/1995 đến nay: Đây là giai đoạn Ngân hàng thực sự thực hiện cơ chế mới với tinh thần đầu tư và phát triển là chủ yếu và kinh doanh theo cơ chế của Ngân hàng thương mại. Trong những ngày đầu chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới, một lượng vốn lớn (903.717 triệu đồng) đã bàn giao sang Cục Đầu tư phát triển Hà Nội, Chi nhánh Hà Nội đã trải qua thời kỳ đầy thử thách. Trong khoảng một tuần với tình trạng thiếu vốn và nguy cơ mất khách trông thấy, Ban Giám đốc Chi nhánh kịp thời động viên toàn thể cán bộ công nhân viên tìm nguồn vốn - liều thuốc đặc trị đã cắt được cơn sốt thiếu vốn. Với kết quả đầu tiên Chi nhánh Hà Nội đã tự tin, từng bước vững chắc đi lên. Bằng các biện pháp, chính sách cụ thể nguồn vốn của Chi nhánh ngày càng gia tăng với khối lượng năm sau cao hơn năm trước. Sau khi bàn giao nguồn vốn tín dụng từ ngân sách sang Tổng cục Đầu tư phát triển, tổng nguồn vốn của Chi nhánh Hà Nội đến 31/12/1995 đạt 880.663 triệu đồng tăng 254.624 triệu so với cùng kỳ năm trước (đã loại trừ phần vốn ngân sách). Nếu tính từ năm 1995 đến năm 1998 thì tổng nguồn vốn tăng lên 1.069.837 triệu đồng tăng gấp 2,2 lần. Ta có thể thấy rõ tình hình biến động nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển qua các năm đặc biệt là tốc độ huy động vốn trong năm 1998 đã có sự tiến bộ đặc biệt mặc dù đây là năm có nhiều biến động rất phức tạp. Bảng 1: biến động nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội Từ năm 1994 - 1999 Đơn vị : triệu đồng, ngoại tệ quy đổi 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Chỉ tiêu Dư cuối Tỷ trọng Dư cuối Tỷ trọng Dư cuối Tỷ trọng Dư cuối Tỷ trọng Dư cuối Tỷ trọng Dư cuối Tỷ trọng I. Nguồn huy động từ TCKT và dân cư 181.839 11.9 365.870 41.5 567.713 51.7 722.535 54.9 1.277.440 65.5 1.593.406 73.86 1. Tài khoản tiền gửi 149.821 9.8 230.047 26.1 310.572 28.3 299.221 22.8 420.500 21.6 548.219 25.41 2. Tiết kiệm 14.281 0.9 107.767 12.2 206.842 18.8 190.018 14.4 480.420 24.6 798.863 37.03 3. Kỳ phiếu 1.106 0.1 27.890 3.2 50.299 4.6 233.296 17.7 261.420 13.4 24.866 1.15 4. Trái phiếu 16.631 1.1 166 115.100 5.9 221.458 10.26 II. Vốn vay 419.402 27.4 481.213 54.6 488.057 44.5 548.896 41.7 645.520 33.1 511.076 23.69 1. Vay NHĐTW 419.395 24.7 420.306 47.7 488.050 44.5 461.893 35.1 550.520 28.2 427.069 19.79 2. Vay các TCTC và TCTD khác 7 60.907 6.9 7 87.003 6.6 95.000 4.9 52.109 3.89 III. Nguồn khác 24.798 1.6 33.580 3.8 41.678 3.8 43.697 3.3 27.540 1.4 2.41 IV. Nguồn ngân sách cấp 903.717 59.1 Tổng nguồn 1.529.756 100 880.663 100 1.097.448 100 1.315.128 100 1.950.500 100 2.157.096 100 So sánh tổng nguồn qua các năm 1. Số tuyệt đối -649.093 216.785 217.680 635.372 206.596 2. Số tương đối (%) 58 125 120 148 111 Qua bảng 1 ta thấy: + Nguồn vốn của Ngân hàng ngày càng tăng. Từ ngày Ngân hàng chuyển sang hoạt động như một Ngân hàng thương mại thì nguồn vốn ngân sách cấp không còn. Do vậy Ngân hàng buộc phải tăng nguồn vốn huy động nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. + Nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư có nhịp độ tăng trưởng lành mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Điều này cho thấy Ngân hàng đã có nhiều biện pháp cũng như chính sách nhằm khơi tăng nguồn vốn nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế cũng như trong dân cư. Đây là nguồn vốn có tính chất chiến lược trong chính sách huy động vốn của Ngân hàng. Chính sách huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội còn thể hiện trong sự biến đổi về mặt cơ cấu nguồn vốn: Tạo ra một cơ cấu vốn mới: Cơ cấu cân đối vốn tại chỗ, tuy tỷ trọng vốn vay lớn trong tổng nguồn vốn nhưng vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư có xu hướng ngày càng tăng, ngược lại tỷ trọng vốn vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương trong tổng nguồn ngày càng giảm. Năm 1994, nguồn vốn Chi nhánh huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư chỉ chiếm có 11,9 % trong tổng nguồn, còn lại là vốn vay và vốn ngân sách cấp. Từ năm 1995, Chi nhánh phải tự lo một phần nguồn vốn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương hỗ trợ một phần. Nhờ những biện pháp tích cực khai thác nguồn đến nay riêng đối với tín dụng ngắn hạn, Chi nhánh tự bảo đảm cân đối vốn 100%, đáp ứng một phần nhu cầu về vốn trung và dài hạn, ngoài ra Chi nhánh còn hỗ trợ các Chi nhánh bạn trong cùng hệ thống thông qua việc điều chuyển vốn về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương. Năm 1995, vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư chỉ chiếm có 41,5% trong tồng nguồn, còn vốn vay chiếm tỷ trọng 54,6%. Nhưng đến 31/12/1999, tỷ trọng vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư đã chiếm tới 73,86% trong tổng nguồn vốn, vốn vay chỉ còn chiếm 23,69%. Khi Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội mới bước vào hoạt động như một Ngân hàng thương mại, nguồn vốn huy động ban đầu chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người vay. Hầu hết các khoản cho vay trung, dài hạn đều là nguồn đi vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Kết quả trên cho thấy sự nỗ lực vượt bậc của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội trong công tác huy động vốn. Trong tổng nguồn vốn huy động thì nguồn huy động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng ngày càng giảm (mặc dù về số tuyệt đối vẫn tăng) trong khi đó thì nguồn huy động bằng USD ngày càng tăng cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối là do Chi nhánh cũng đã từng bước chú trọng khai thác nguồn ngoại tệ. Nhờ có nguồn ngoại tệ dồi dào này mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đảm bảo cung ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ của khách hàng trong thời gian qua. Bảng 2 : Cơ cấu loại tiền trong tổng nguồn huy động Thời gian 31-12-94 31-12-95 31-12-96 31-12-97 31-12-98 31-12-99 Khoản mục Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn 626.039 880.663 1.097.448 1.315.128 1.950.500 2.157.096 VNĐ 446.6991 71.4 633.728 72 744.776 67.9 901.125 68.5 1.300.219 66.66 1.478.542 68.55 USD 179.048 28.6 246..935 28 352.672 32.1 414.003 31.5 650.281 33.34 678.554 31.45 Biến động vốn huy động so với kỳ trước (%) VNĐ 141.8 117.5 121 144.29 113.7 USD 137.9 142.8 117.4 157.07 104.34 Các nguồn vốn huy động của Ngân hàng: ở trên bằng việc xem xét sự biến động và cơ cấu của các nguồn vốn trong tổng nguồn, ta có cái nhìn tổng quát về tình hình huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Do mỗi nguồn vốn có những đặc điểm riêng, chịu sự ảnh hưởng của nguyên tố cấu thành khác nhau và sự biến động của chúng có những tác động khác nhau tới tổng nguồn cũng như chi phí của nó, do vậy chúng ta phải đi sâu vào phân tích từng nguồn vốn huy động. 2.1. Các nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư. 2.1.1. Số dư tài khoản tiền gửi: Đây là bộ phận tiền tệ tạm thời chưa sử dụng đến trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây chính là nguồn vốn để Ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Bảng 3 : số dư tài khoản tiền gửi Đơn vị : Triệu đồng, ngoại tệ quy đổi Thời điểm Dư cuối Dư cuối Dư cuối Dư cuối Dư cuối Dư cuối Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng cộng 181.839 365.870 567.713 722.535 1.227.440 1.593.406 1. HĐ từ TKTG các TCKT, tài chính, dân cư 149.821 230.047 310.572 299.221 420.550 548.219 2. HĐ từ tiết kiệm kỳ phiếu, trái phiếu 32.018 135.823 257.141 423.314 856.890 1.045.187 Tỷ trọng 1. Tài khoản tiền gửi 82,40% 62,90% 54,70% 41,40% 32,92% 34,40% 2.Huy động TK,KP,TP 17,60% 37,10% 45,30% 58,60% 67,08% 65,6% Qua bảng 3 cho thấy rằng số dư tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tài chính, dân cư xét về mặt giá trị tuyệt đối tăng nhanh qua các năm trong nguồn huy động góp phần đáng kể vào việc làm giảm lãi suất đầu vào để từ đó Ngân hàng có điều kiện hạ lãi suất đầu ra, giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và Ngân hàng mở rộng được hoạt động kinh doanh của mình. Khối lượng tiền gửi này tăng lên đều qua các năm là do Chi nhánh đã chú trọng đến các biện pháp khơi tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Coi trọng nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp là nguồn ổn định lâu dài và phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân làm tăng khả năng thu nạp vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư ... Chi nhánh đã có những biện pháp thực hiện chính sách khách hàng để giữ và phát triển khách hàng như ưu tiên cho các doanh nghiệp có số dư tiền gửi cao được giảm lãi suất tiền vay, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng khách hàng thông qua rút ngắn thời gian xét duyệt, đơn giản hoá các thủ tục cho vay, thực hiện cho vay khép kín, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Chi nhánh thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, tiếp xúc với khách hàng lớn để tiếp thu ý kiến đóng góp, nắm bắt yêu cầu mới và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng có tiềm năng tài chính tốt, do vậy cùng với nguồn tiền gửi tăng, số lượng khách hàng của Chi nhánh đã tăng đáng kể. - 31/12/1994 số dư tài khoản tiền gửi là 148.821 triệu đồng chiếm 82,4%. - 31/12/1995 số dư tài khoản tiền gửi là 230.047 triệu đồng chiếm 62,9%. - 31/12/1996 số dư tài khoản tiền gửi là 310.572 triệu đồng chiếm 54,7%. - 31/12/1997 số dư tài khoản tiền gửi là 299.221 triệu đồng chiếm 41,4%. - 31/12/1998 số dư tài khoản tiền gửi là 420.550% triệu đồng chiếm 32,92%. - 31/12/1999 số dư tài khoản tiền gửi là 548.219 triệu đồng chiếm 34,4%%. Sự biến động tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại một Ngân hàng phụ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, chu kỳ sản xuất, dịch vụ của Ngân hàng cũng như năng lực thanh toán của nó, tình hình cung ứng tiền tệ và chính sách lãi suất của Nhà nước. Nhìn chung số dư trên tài khoản tiền gửi của các TCKT, tài chính, dân cư biến động theo xu hướng tăng lên. Vào thời điểm cuối năm, các đơn vị thường tất toán các khoản nợ nần cho nhau để kết thúc một chu kỳ kinh doanh nên tiền gửi của các tổ chức kinh tế vào thời điểm này tăng lên, để rồi đến quý I năm sau lại tạm thời giảm xuống do các tổ chức kinh tế lại bắt đầu một chu kỳ kinh doanh mới. Sự tăng trưởng nguồn vốn như vậy là điều phấn khởi trong công cuộc huy động nguồn vốn nội lực của đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay phát huy nội lực của chúng ta không chỉ là để khắc phục tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á hiện nay mà còn quan trọng hơn là đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nước ta trong xu thế khu vực hoá - toàn cầu hoá và hội nhập. Tuy nhiên trong công tác huy động vốn Ngân hàng cần xem xét, nghiên cứu làm thế nào để đảm bảo các yêu cầu: Đảm bảo đủ vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Lãi suất đầu vào, đầu ra hợp lý để chi phí lãi Ngân hàng trong giá thành sản phẩm có thể chịu đựng được, đảm bảo hạch toán kinh doanh có lãi cho các đơn vị kinh tế. Bản thân kinh doanh của Ngân hàng phải có lãi. Để đạt được yêu cầu trên thì lãi suất đầu vào vô cùng quan trọng. Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn tiền gửi thanh toán có xu thế giảm dần trong cơ cấu nguồn vốn huy động. Nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu trong tổng nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. Do thanh toán bằng tiền mặt còn nhiều, đối với các doanh nghiệp thì nguồn vốn lưu động tự có quá thấp, chủ yếu vay vốn Ngân hàng, nên tiền gửi thanh toán của các đơn vị tại Ngân hàng có số dư không đáng kể, một số tổ chức tài chính như bảo hiểm có nguồn tiền lớn cùng các tầng lớp dân cư thì chuyển qua mua kỳ phiếu, trái phiếu để hưởng lãi suất cao hơn. Mặt khác do nhu cầu vốn cần huy động trong mỗi thời kỳ khác nhau cộng thêm việc phải cạnh tranh với các Ngân hàng khác buộc Ngân hàng phải mở rộng huy động kỳ phiếu, trái phiếu ... khiến lãi suất đầu vào ngày càng tăng ảnh hưởng không ít tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bảng 4 : cơ cấu nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế Từ cuối năm 1994 - 1999 Đơn vị : Triệu đồng, ngoại tệ quy đổi Thời điểm Dư cuối Dư cuối Dư cuối Dư cuối Dư cuối Dư cuối Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng cộng 149.821 230.047 310.572 299.221 420.221 548.219 1. Tiền gửi có kỳ hạn 30.327 111.343 114.667 101.984 159.789 169.576 2. Tiền gửi ko kỳ hạn 119.494 112.704 195.905 197.237 260.711 378.643 Cơ cấu 1. Tiền gửi có kỳ hạn 20.20 % 51.00% 36.90% 34.10% 38.00% 30.93% 2. Tiền gửi ko kỳ hạn 79.80% 49.00% 63.10% 65.90% 62.00% 69.07% So sánh giữa các kỳ a. Số tuyệt đối 80.226 80.525 -11.351 121.279 127.669 - Tiền gửi có kỳ hạn 87.016 -2.676 -12.683 57.805 9.787 - Tiền gửi ko kỳ hạn -6.790 83.201 1.332 63.474 117.932 Qua bảng 4 cho thấy trong nguồn tiền gửi của các TCKT, tiền gửi không kỳ hạn chiếm một tỷ trọng lớn và tăng đều qua các năm. Về phía Ngân hàng, đây là một nguồn tài nguyên rẻ nhất (lãi suất huy động 0,45% đến 0,5%/tháng) nhưng có biến động rất lớn. Ngân hàng có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này khi nó luôn được bổ sung, điều hoà hoặc theo một tỷ lệ phù hợp. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Chi nhánh cần phải có biện pháp để thu hút loại tiền gửi có kỳ hạn vì đây là một nguồn khá ổn định để sử dụng cho vay trung và dài hạn. Hầu như tiền gửi của các TCKT đều là các doanh nghiệp của quốc doanh. Đầu năm1995, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã mở tài khoản tiền gửi cá nhân để thu hút tiền gửi của dân chúng, giúp người dân tiếp cận và làm quen dần với tập quán thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó phần lớn khách hàng là cán bộ công nhân viên trong ngành Ngân hàng (204 tài khoản) và rất ít khách hàng ngoài ngành. Nhưng đến năm 1997 có 427 tài khoản cá nhân đã được mở và hoạt động và đến năm 1999 con số này đã là 627 tài khoản với số dư bình quân 2,7 tỷ đồng. Đó cũng là sự thành công của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội trong hoạt động kinh doanh và dịch vụ của mình ngày càng được khách hàng tín nhiệm. Nhưng nói chung tốc độ phát triển của loại hình này vẫn còn chậm. Mặc dù Ngân hàng áp dụng lãi suất khá cao (0,45%) cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn (0,3%). Đây cũng là tình hình chung của việc mở và hoạt động của tài khoản cá nhân tại Việt Nam mà ta đang từng bước vận động. Không phải dân ta thiếu tiền mà nguyên nhân chủ yếu là họ chưa quen, chưa thấy được những thuận lợi của việc thanh toán bằng chuyển khoản. 2.1.2. Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu: Nguồn tiền gửi này thường chiếm một tỷ trọng lớn, khá ổn định trong tổng nguồn và là nguồn phát sinh chi phí chủ yếu của một Ngân hàng thương mại.Sự biến động của nguồn vốn này phụ thuộc chặt chẽ vào cơ cấu, thu nhập dân cư, tỷ lệ lạm phát, tình hình lãi suất (lãi suất tiền gửi tiết kiệm và các nguồn khác như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc ... ) các yếu tố tâm lý, xã hội ... Chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, nguồn tiền gửi tiết kiệm được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đặc biệt quan tâm. Nếu như trong suốt năm 1994 nguồn huy động tiết kiệm của Ngân hàng chỉ có hình thức tiết kiệm xây dựng nhà ở (bao gồm VNĐ và USD) thì bước sang năm 1995, Ngân hàng đã chú trọng áp dụng phong phú các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm với các kỳ hạn khác nhau. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn giữ ở mức không đáng kể do có lãi suất thấp nên người dân ít gửi, hơn nữa nếu có nhu cầu dùng tiền thường xuyên thì mở tài khoản cá nhân sẽ ưu việt hơn mà mức lãi lại cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (0,45%/ tháng so với 0,3%/tháng) hoặc có thể gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng khi cần rút trước hạn vẫn được hưởng lãi tiết kiệm không kỳ hạn. Xét về mặt giá trị và tỷ trọng, tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng cũng như trong tổng nguồn huy động từ dân cư. Năm 1995, số dư tiền gửi tiết kiệm là 107.767 triệu đồng chiếm 79,34% trong tổng nguồn huy động từ dân cư thì đến năm 1996 đạt 206.842 triệu đồng chiếm 80,44%. Sang năm 1997, số dư tiền gửi tiết kiệm giảm xuống còn 190.018 triệu đồng là do trong năm Chi nhánh đã phát hành nhiều loại kỳ phiếu với lãi suất hấp dẫn hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm nên phần lớn tiền gửi tiết kiệm của dân cư được chuyển sang mua kỳ phiếu. Năm 1999 số dư tiền gửi tiết kiệm là 789.863% triệu đồng chiếm tỷ trọng 37,03% bởi vì trong năm Chi nhánh còn phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với mức lãi suất cao hơn lãi suất huy động tiết kiệm. Trong cơ cấu tiền gửi tiết kiệm phần lớn là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn nhưng chủ yếu vẫn là loại có kỳ hạn 3 tháng hoặc 6 tháng, còn loại 1 năm và 13 tháng chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong cơ cấu loại tiền gửi tiết kiệm, thì tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ (USD) là hình thức mới mẻ, năm 1995 mới có. Bảng 5: cơ cấu loại tiền gửi tiết kiệm Đơn vị : triệu đồng, ngoại tệ quy đổi Thời gian 31-12-94 31-12-95 31-12-96 31-12-97 31-12-98 31-12-99 Khoản mục Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn 14.281 107.767 206.842 190.018 480.420 789.863 VNĐ 14.281 100 106.027 98.4 194.662 94.1 141.782 74.6 340.138 70.8 587.942 73.6 USD 1.740 1.6 12.180 5.9 48.236 25.4 140.282 29.2 210.921 26.4 Biến động vốn huy động so với kỳ trước (%) VNĐ 742.4 183.6 72.8 239.9 172.85 USD 100 396 290.82 150.35 Qua bảng 5 cho ta thấy tuy số lượng tiền gửi bằng ngoại tệ có tăng năm sau lớn hơn năm trước, đặc biệt là năm 1999. Đó là do có sự ảnh hưởng về tỷ giá của đồng đô la Mỹ so với nội tệ. Nhưng nó vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ so với tiết kiệm bằng đồng Việt Nam, nó đánh giá phần nào sự thành công của đất nước ta trong việc quản lý ngoại hối khi nền kinh tế trong khu vực đang có khủng hoảng. Tuy nhiên, đứng về phía Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội cũng cần chú trọng mở rộng loại này, tạo điều kiện để hoà đồng mức lãi suất cho các doanh nghiệp vay vốn và cũng là tiền đề để tự cân đối nguồn ngoại tệ, cho vay các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, mở rộng chính sách khách hàng. Trong số dư tiền gửi tiết kiệm bao gồm cả số dư tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở. Nhưng nó chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ không đáng kể do Chi nhánh chỉ phát hành loại này trong một thời gian ngắn (năm 1994), sau đó số dư của nó giảm dần do quy chế vay trả của loại hình này cứng nhắc, không phù hợp. 2.1.3. Kỳ phiếu Ngân hàng. Huy động bằng kỳ phiếu là hình thức huy động vốn linh hoạt nhằm giải quyết những nhu cầu tức thời. Ngân hàng căn cứ vào tình hình và nhu cầu vốn tại từng thời điểm và quyết định đưa ra hình thức huy động này. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển phát hành kỳ phiếu có mục đích bằng VNĐ, bằng ngoại tệ (USD) và kỳ phiếu đảm bảo theo giá trị vàng với nhiều thời hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng,12 tháng, 13 tháng có các phương thức trả lãi khác nhau như trả lãi trước (Nếu muốn tăng sức hấp dẫn của kỳ phiếu) và trả lãi sau cùng với gốc. Do lãi suất của kỳ phiếu luôn luôn cao hơn hẳn so với lãi suất của tiền gửi tiết kiệm cho nên sử dụng hình thức này tạo điều kiện cho Chi nhánh có được nguồn vốn tương đối ổn định và phù hợp nhu cầu vốn trong từng giai đoạn, phù hợp với chiến lược sử dụng vốn của Chi nhánh đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Vì vậy nguồn huy động kỳ phiếu thường biến động bất thường do Chi nhánh phát hành kỳ phiếu theo từng đợt và có những kỳ hạn khác nhau. Năm 1994, Ngân hàng phát hành hai đợt kỳ phiếu vào tháng 2 và tháng 5 mà cũng chỉ 2 loại bảo đảm bằng vàng và USD, số dư đến 31/12/1994 chỉ còn 1.106 triệu đồng. Ngày 6/3/1995 Ngân hàng phát hành hai loại kỳ phiếu: loại kỳ phiếu USD và kỳ phiếu mới bằng VNĐ, kết quả thu được 12.615 triệu. Trong đó kỳ phiếu VNĐ là 10.858 triệu đồng chiếm 86,07%. Trong tháng 8 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng đã phát hành 2 loại kỳ phiếu USD và loại VNĐ nâng số dư đến ngày 31/12/1995 là 27.890 triệu đồng. Trong đó bằng VNĐ là 22.620 triệu đồng chiếm 81% và bằng USD là 5.270 triệu đồng (quy đổi VNĐ) chiếm 19%. Do kỳ phiếu đảm bảo bằng vàng không phát hành nữa nên số dư không đáng kể. Tại thời điểm 31/12/1994 số dư kỳ phiếu chỉ mới có 1.106 triệu đồng, đến 31/12/1995 đã tăng lên 27.870 triệu đồng, năm 1996, 1997, 1998, 1999 vẫn tiếp tục tăng vì Ngân hàng liên tiếp phát hành các đợt kỳ phiếu gối tiếp nhau với kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn nên hết kỳ hạn người gửi lại tiếp tục chuyển đổi số sang kỳ hạn mới. Năm 1998, tăng 112,1% so với năm 1997 và tăng 519,8% so với năm 1996, nhưng san năm 1999 lại giảm. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội huy động kỳ phiếu bằng VNĐ đã thu được kết quả rất khả quan, điều này được giải thích như sau: - Ngân hàng đã áp dụng nhiều loại kỳ hạn, trong đó có những kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng giúp cho người dân bớt lo ngại về sự tác động của lạm phát. - Lãi suất cao. - Bản tệ là nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng, trong khi lượng ngoại tệ (USD) lại khá khan hiếm. Hơn nữa lãi suất kỳ phiếu VNĐ cao hơn lãi suất kỳ phiếu USD. 2.1.4. Trái phiếu Ngân hàng: Từ 06/10/1994 đến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0014.doc
Tài liệu liên quan