Đề tài Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài

II. Mục đích và nhiệm vụ

1. Mục đích

2. Nhiệm vụ

III. Đối tượng nghiên cứu

IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

1. Phạm vi nghiên cứu

2. Phương pháp nghiên cứu

NỘI DUNG

Chương 1. Lý luận chung về tự học và hoạt động tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học

1.1. Khái quát chung về hoạt động tự học

1.1.1. Một số quan điểm về tự học

1.1.2. Một số khái niệm về tự học

1.1.2.1. Khái niệm tự học

1.1.2.2. Các hình thức tự học

1.1.2.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học của sinh viên trong trường Đại học

1.2. Vai trò của tự học đối với sinh viên và đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường Đại học

1.2.1. Sinh viên và một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ảnh hưởng đến quá trình tự học

12.2. Tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với sinh viên

1.2.3. Đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường Đại học

Chương 2. Thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học

2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình tự học các môn khoa học

xã hội và nhân văn của sinh viên

2.1.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên về việc tự học các môn

khoa học xã hội và nhân văn

2.1.2. Thực trạng về việc tiến hành hoạt động tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên

2.1.3. Thực trạng về kết quả tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên

2.2. Một số hạn chế của việc tự học các môn khoa học xã hội và

nhân văn

2.3. Nguyên nhân của thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên

Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên trong trường Đại học

3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên đối với việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn

3.2. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên

3.3. Phát huy vai trò tích cực của sinh viên trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường Đại học

3.3.1. Nhận thức về vai trò tích cực của sinh viên trong việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn

3.3.2. Một số kỹ năng phục vụ hoạt động tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn

3.4. Đảm bảo tốt cơ sở vật chất kĩ thuật, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tự học của sinh viên

KẾT LUẬN

 

 

 

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14916 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i có khả năng tự học. Tự học là nói đến nội lực của người học, chất lượng của học tùy thuộc chủ yếu vào nội lực, đòi hỏi ý chí của bản thân sinh viên. Hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo và phương pháp dạy học trong giáo dục Đại học và Cao đẳng là một trong những yêu cầu cần thiết. Một trong những đòi hỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường Đại học là giúp cho sinh viên có khả năng tự hoc, tự nghiên cứu. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII khẳng định: “đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên, nhất là sinh viên Đại học”. Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường Đại học. Khi một học sinh trở thành một sinh viên Đại học, họ bắt đầu làm quen với phương thức học tập hoàn toàn mới. Ở phổ thông trung học, học sinh chỉ cần nắm vững những kiến thức được cô giáo truyền giảng ở trên lớp và giáo viên liên tục kiểm tra, đánh giá học sinh và có giao bài tập cụ thể. Song ở đại hoc thì khác hẳn, tự học là phương pháp, cách thức cơ bản của mỗi sinh viên phải quán triệt. Bởi vì, phương hướng chủ yếu của trường Cao đẳng, Đại học trong giai đoạn này là nhanh chóng biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự hoàn thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học, tự nghiên cứu. Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu. Giờ đây, thầy cô giáo đóng vai trò là những người hướng dẫn học tập, và các giờ lên lớp chỉ cung cấp được những kiến thức cơ bản nhất, những tài liệu cơ bản, còn việc học tập của sinh viên là sắp xếp trình tự, thời gian để nghiên cứu nắm tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở rộng. Thêm vào đó, không còn sự kiểm tra sát sao của giáo viên, kết quả học tập dồn hết vào kỳ thi hết học phần, hết môn. Kết quả này phụ thuộc vào bản thân sinh viên là chủ yếu. Công tác tự học của sinh viên ngày càng tăng lên, ngày càng đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có việc tự học mới trang bị cho mình kiến thức mới nhất, khoa học nhất và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động và đạt kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tự học còn góp phần nâng cao thành tích, hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp thu tri thức mới. Tự học với sự nỗ lực và tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của vấn đề. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp phải nhiều vấn đề mới và việc đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tố nhất để kích thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực tự học của bản thân sinh viên thì kết quả không thể cao cho dù điều kiện ngoại cảnh có thuận lợi đến mấy (giáo viên giỏi, tài liệu hay và đầy đủ…). Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho sinh viên những kiến thức mới mà còn giúp họ rất nhiều trong công việc sau này. Họ có năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng công tác như thế nào? Phụ thuộc lớn vào chất lượng tự học. Xã hội ngày càng phát triển và ngày càng có nhiều phát kiến vĩ đại thì cần phải có những con người toàn diện. Do đó, sinh viên cần trang bị cho mình những tri thức toàn diện. muốn có tri thức toàn diện con đường tốt nhất là tự học. Không chỉ có vậy, tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo dục và hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong học tập, trong cuộc sống giúp cho họ tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống của mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng ham học hỏi, ham hiểu biết, khát khao vươn tới đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão ước mơ. Do đó, mỗi sinh viên hãy xây dựng cho mình một thói quen, một phương pháp để nâng cao chất lượng tự học một cách tốt nhất. Như vậy, có thể khái quát rằng: tự học là một hình thức học nhằm giúp cho người học lĩnh hội, củng cố kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo. Trong quá trình tự học, người học tự xử lý kiến thức đã lĩnh hội, tìm tòi, khám phá tri thức mới, vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vu học tập, từng bước biến tri thức của người dạy thành kiến thức của bản thân. Từ đó, giúp cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành niềm tin khoa học, sự hứng thú, say mê học tập. Kết quả học tập và rèn luyện, năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên có được thông qua kết quả tác động tổng hợp của các hoạt động gồm: giáo dục-đào tạo trong nhà trường, tự học tập, tự tu dưỡng bản thân của sinh viên…Trong các hoạt động đó, hình thức tự học, tự tu dưỡng đặc biệt là chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn có vị trí rất quan trọng, là nhân tố trực tiếp góp phần tạo nên kết quả về chất lượng học tập và rèn luyện của sinh viên trong trường Đại học. 1.2.3. Đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn Các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường Đại học bao gồm: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học,…nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội và con người, vì vậy việc tự học các môn khoa học xã học này là nền tảng cho các môn khoa học khác và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề của bản thân một cách khách quan hơn. Về đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn xét một cách tổng thể, nó mang tính phổ biến bởi lẽ khoa học xã hội và nhân văn là khoa học nghiên cứu về xã hội, con người và cộng đồng người. Từ trước đến nay, làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi đến những hiểu biết về xã hội, con người và cộng đồng người cho nên kiến thức khoa học xã hội và nhân văn hiện hữu khắp mọi nơi và cần … Nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn liên quan mật thiết đến lĩnh vực chính trị xã hội, đạo đức nhân cách, tư tưởng văn hóa của dân tộc cho nên đây là một lĩnh vực quan trọng. Chúng ta đều biết rằng những sai lầm về kinh tế, kĩ thuật để lại hậu quả lớn nhưng có thể khắc phục được nhưng những sai lầm về chính tri – xã hội thì để lại hậu quả nặng nề và khó thể khắc phục và nếu có thì rất lâu. Vì vây, sinh viên trong trường Đại học kể cả khối kinh tế - kĩ thuật và khối xã hội – nhân văn phải nhận thức được tầm quan trọng của của các môn học khoa học xã hội và nhân văn, từ đó có phương pháp học tập, nghiên cứu, củng cố vững chắc kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn làm điều kiện cho công tác sau này đạt hiệu quả cao. Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như bất cứ ngành học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tùy theo cách cảm nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở nên dễ đối với những người này và cũng sẽ trở nên khó đối với người khác. Khi học các môn khoa học xã hội và nhân văn đòi hỏi người học phải chịu khó đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững bản chất vấn đề, bởi vì học các môn này khá trừu tượng, nhiều thuật ngữ khó, có tính lý luận, tính khái quát cao, có sư liên hệ mật thiết với thực tiễn xã hội, luôn có sự thống nhất cao giữa tính khoa học và tính tư tưởng, luôn mang tính chiến đấu. Khi nghiên cứu nếu sinh viên không có phương pháp tự học tốt và không biết cách tiếp cận thì dễ bị sa vào trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật phong phú của triết học, kinh tế chính trị,…Vì vậy, sinh viên phải tự tìm cho mình một phương pháp nghiên cứu các môn học này một cách hiệu quả nhất. Chương 2. Thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học 2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên 2.1.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Xuất phát từ đặc điểm của sinh viên là được tuyển chọn qua các kì thi tuyển sinh Đại học và Cao đẳng với chất lượng đầu vào tương đối khá, có nhận thức cao, vì vậy đa phần sinh viên đã nhận thức tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường, có động cơ phấn đấu, học tập và rèn luyện để trở thành những trí thức giỏi góp phần xây dựng đất nước. Trong quá trình học tập, sinh viên cơ bản đã có nhận thức tốt về vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, đặc biệt là đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn, qua đó giúp bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa kiến thức, đồng thời sinh viên bước đầu cũng đã rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Điều tra trên 304 ý kiến về việc lên kế hoạch học tập của sinh viên một số trường trên địa bàn Hà Nội cho thấy kết quả như sau: STT Rất quan trọng Quan trọng Từng lên kế hoạch Không lên kế hoạch 1 59,4% 2 42,76% 3 77,3% 4 22,7% Nhiều sinh viên đã chủ động tìm hiểu những đặc điểm yêu cầu của môn học, nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập, qua đó rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lý, thể lực cho quá trình học tập. Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân cơ bản đã có tính khoa học và đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, phát huy vai trò vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. 2.1.2. Thực trạng về việc tiến hành hoạt động tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên Đa số sinh viên đã tận dụng được thời gian trong việc tự học, chịu khó tìm tòi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu, trên thư viện cũng như trên internet và các phương tiện thông tin khác. Theo kết quả điều tra đối với nhóm sinh viên trường Học viện Báo chí và tuyên truyền, sinh viên Đại học quốc gia, sinh viên Đại học Giao thông vận tải và sinh viên Đại học Thương mại trên địa bàn Hà Nội về việc có thường xuyên nghiên cứu tài liệu trên thư viện và internet trong giờ tự học hay không thì có 80% sinh viên thường xuyên, 18% thỉnh thoảng, 20% ít khi và 0% là chưa khi nào và đa số sinh viên thường dành 4–5 giờ cho việc tự học ở nhà hoặc bằng cách lên thư viện, đặc biệt là sinh viên sống trong kí túc xá của trường. Nhiều sinh viên như sinh viên Đại học Giao thông vận tải và Đại học Thương mại thường lên giảng đường tập trung nhóm để học, đặc biệt là vào mùa ôn thi. Với kết quả này cho thấy, việc tự nghiên cứu giáo trình tài liệu của sinh viên rất tích cực, tự giác. 2.1.3. Thực trạng về kết quả tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên Phần đông sinh viên đã nắm được những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật của nhà nước và các kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, biết liên hệ, vận dụng có hiệu quả những hình thức đã được học vào vào thực tiễn hoạt động rèn luyện, công tác của mình. Tỉ lệ sinh viên đạt kết quả học tập về các môn khoa học xã hội và nhân văn khá cao. Đa phần sinh viên đều vượt qua kì thi kết thúc các môn khoa học xã hội và nhân văn với kết quả tương đối cao, đặc biệt là sinh viên thuộc khối xã hội như sinh viên các trường Học viện Báo chí và tuyên truyền và Đại học Quốc gia. Đồng thời sinh viên thuộc khối kinh tế cũng có nhiều cố gắng và hứng thú với những môn học này nên phần đa đều đạt điểm trên trung bình. Xét chung, có 95% sinh viên đạt yêu cầu, trong đó có 50–60% khá và giỏi. Bên cạnh đó còn có nhiều nhóm sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học về đề tài thuộc các môn khoa học xã hội và nhân văn như Kinh tế chính trị học, Tâm lý học, Giáo dục học,…và đạt kết quả cao. Đây chính là kết quả của việc nhận thức được tầm quan trọng của việc tự học các môn khoa học này. 2.2. Một số hạn chế trong quá trình tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Sinh viên đa số thường được tiếp cận những môn khoa học xã hội và nhân văn trong những kỳ học đầu tiên bởi đây là những môn cơ bản. Do từ học sinh phổ thông lên nên cách học và cách tiếp cận vấn đề đôi khi chưa khoa học. Bên cạnh sinh viên khối xã hội còn có sinh viên khối kinh tế-kỹ thuật trong đó có không ít sinh viên cho rằng không cần thiết phải học những môn này, nhiều quan điểm cho rằng những môn học này trừu tượng, không có tính thực tiễn mà chỉ là lý luận suông, khô khan, khó hiểu nên họ thờ ơ vơi môn học này. Trong khi học, có khi chỉ căn cứ vào tài liệu sách giáo khoa, giáo trình, ít tham khảo tài liệu, chọn nội dung học để thi chỉ mang tích chất đối phó, học tủ, học thuộc lòng một cách máy móc mà không suy nghĩ. Kết quả là kiến thức không bền vững và vấn đề quan trọng là không rèn luyện cho sinh viên sự suy luận, tính logic về nội dung kiến thức. Việc nắm hệ thống các môn khoa học xã hội và nhân văn nhất là hiểu bản chất, kĩ năng phân tích khái quát, tổng hợp vấn đề… ở sinh viên còn chưa cao, khả năng liên hệ, vận dụng lí luận vào thực tiễn của một số sinh viên còn hạn chế. Đặc biệt, một số sinh viên lười học, lười rèn luyện. Nhiều sinh viên chưa tận dụng hết thời gian trong tự học cũng như thời gian nhàn rỗi, chưa lập được kế hoạch tự học một cách khoa học. Mặt khác, đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn là phải đọc nhiều, nghiên cứu nhiều tài liệu, giành nhiều thời gian tự học nhưng sinh viên còn chủ quan, ít đào sâu suy nghĩ. Kết quả điều tra về việc tự nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn trong những ngày nghỉ, giờ nghỉ thì có 50% trả lời ít khi, 25% thỉnh thoảng, 20% thường xuyên, 50% chưa khi nào. Kết quả này cho thấy, tuy sinh viên đã có ý thức tự giác trong việc đầu tư thời gian tự học nhưng việc tận dụng thời gian cho việc tự học chưa nhiều. Số sinh viên tìm đến thư viện không nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến. Nhân viên quản lý thư viện nhiều trường cho biết, một ngày bình quân chỉ có khoảng vài chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư liệu.Trong khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp không có gì hơn ngoài một cái micrô cứ theo kiểu “mạnh thầy thầy cứ nói”, còn lớp học đông đúc thì “mạnh trò, trò ngủ”. Sinh viên chưa có phương pháp học phù hợp, chịu ảnh hưởng của phương pháp truyền thống là học thuộc lòng, chưa có thái độ và tâm lý học tập đúng đắn nên không tích cực tham gia vào bài giảng của giảng viên, chưa đào sâu nghiên cứu tài liệu theo yêu cầu của giảng viên đưa ra, chưa có thói quen hoặc lười làm việc đóng góp vào bài giảng của giảng viên. Qua điều tra về việc sinh viên đóng góp ý kiến xây dựng bài trong các giờ giảng các môn khoa học xã hội và nhân văn thì có 20% sinh viên là thường xuyên, 32% thỉnh thoảng, 40% ít khi và 80% chưa khi nào. Trong quá trình học, phần lớn sinh viên còn lệ thuộc vào bài giảng của giảng viên, chưa tích cực nghiên cứu giáo trình tài liệu. Do đó, trong giờ thảo luận ít tham gia tranh luận hoặc ý kiến tranh luận chưa sâu, cách lập luận giải quyết vấn đề thiếu tính logic. Ví dụ với môn chuyên đề Chủ nghĩa xã hội tại lớp Giáo dục chính trị khóa 28 – Học viện Báo chí và tuyên truyền, giảng viên yêu cầu sinh viên về làm câu hỏi để tiết sau lên lớp giảng viên kiểm tra và thảo luận, nhưng chỉ có số ít sinh viên có ý thức làm ở nhà, còn lại là lên lớp mượn tài liệu của bạn chép để đối phó. Trong giờ thảo luận thì rất ít sinh viên tham gia tranh luận xây dựng bài. Trong quá trình đào tạo, phần lớn sinh viên thường ở vị trí khách thể, thụ động tiếp thu kiến thức và tìm cách tái hiện những điều giảng viên đã giảng trên lớp. Thêm nữa, tâm lí quen “đọc-chép” mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thưc tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà. Cách thức học tập này đã trở thành một thói quen của không ít sinh viên. Điều này dẫn đến sinh viên nắm bản chất vấn đề còn hạn chế, tiếp thu kiến thức thụ động, lập luận theo giáo viên. Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một giáo sư ở Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã cảnh báo lối học thụ động ở sinh viên. Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến đâu, vị giáo sư đã làm cuộc điều tra : chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên (và cả học viên cao học) ghi chép, kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung bình. Nếu chỉ hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60 % sinh viên đạt điểm trung bình. Trong hai tuần này, tinh thần học tập của sinh viên không mấy thích thú, thậm chí có người nằm ngủ gật. Thực trạng nữa ở sinh viên là trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là “Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn...” Đó là việc các thầy cô đứng trên bục giảng và yêu cầu nhiều lần các sinh viên trả lời câu hỏi. Thế nhưng rất ít có cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp vì chỉ có sự làm việc một chiều. Thông qua việc tiến hành khảo sát bằng câu hỏi “tại sao sinh viên giờ lười phát biểu?” ở một số bạn sinh viên nằm rải rác ở một số trường Đại học ở Hà Nội và đây là những nguyên nhân chính: 1. Do sinh viên quá lười học, không chịu chuẩn bị bài trước ở nhà nên không đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi của thầy cô; 2. Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la (hoặc có thể bị trừ điểm) thì ngại; 3. Trong lớp không ai giơ tay phát biểu mà mình phát biểu thì sợ bị coi là "chảnh"; 4. Có khi câu hỏi quá khó vượt ngoài kiến thức hiểu biết; 5. Có thể sinh viên không cảm thấy hứng thú với môn học, giảng viên giảng bài chưa cuốn hút... nên sinh viên chọn cách ngồi chép bài là hơn; 6. Tán chuyện hoặc không tập trung nghe giảng nên không hiểu rõ câu hỏi; 7. Đôi khi câu hỏi được đặt ra quá dễ, bạn nào cũng biết rồi nên không ai giơ tay phát biểu vì không có hứng; 8. Không khí trong lớp học không được sôi động; 9. Không tự tin vào bản thân, ngại ngùng khi phải đứng lên và trả lời trước đám đông. 2.3. Nguyên nhân của thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên Trước hết, xét về những kết quả đạt được nêu trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Một là: sinh viên cơ bản đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trò, của việc tự học, tự nghiên cứu các môn khoa học xã hội và nhân văn, đã có tính tự giác, tích cực trong tự học, tự rèn, xây dựng độn cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, trau dồi kiến thức về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi nhiệm vụ và trách nhiệm của sinh viên. Hai là: trong quá trình giáo dục–đào tạo, được sự quan tâm thường xuyên của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các phòng ban, trực tiếp là các khoa đã quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng nâng cao chất lượng tự học, tự rèn luyện cho sinh viên. Ba là: đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong quản lý sinh viên, có trình độ năng lực công tác tốt, duy trì nghiêm các chế độ, có sự kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở và bồi dưỡng sinh viên nâng cao chất lượng tự học, xây dựng được môi trường học tập, rèn luyện tốt đảm bảo được tính định hướng trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Tuy nhiên thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên còn tồn tại một số hạn chế đã nêu trên là do: Một là, do tác động của mặt trái kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội đã dẫn đến một số sinh viên có nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trò của của việc học tập các môn khoa học xã hôi và nhân văn, tư tưởng ngại học và vi phạm kỉ luật trong học tập, thi cử là điều khó tránh khỏi. Hai là, phương pháp học tập của sinh viên có nhiều tiến bộ song nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Họ có trình độ nhận thức song việc nắm bắt phương pháp học ở bậc đại học còn hạn chế. Ba là, công tác quản lý sinh viên trong các giờ tự học, thảo luận, xêmina còn có nhiều bất cập, giáo viên chưa tổ chức hợp lí hoạt động thảo luận, trao đổi cho sinh viên. Bốn là, trong những năm gần đây, số lượng môn học tăng lên, trong khi đó đội ngũ giảng viên lại thiếu, cường độ giảng dạy lớn. Một bộ phận giáo viên có phần e ngại khi đổi mới, tìm kiếm phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại. Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học Để nâng cao chất lượng tự học nói chung và chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn trong các trường Đại học nói riêng hiện nay cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, sự kết hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan đó là những yếu tố trực tiếp chi phối đến hoạt động và chất lượng tự học của sinh viên. Vì vậy cần tập trung vào bốn giải pháp cơ bản sau: 3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên đối với việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn Đây là giải pháp quan trọng cả trong lí luận và thực tiễn người học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói muốn học tập, rèn luyện có kết quả tốt thì phải có động cơ đúng, trách nhiệm cao, tự học, tự rèn luyện cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, ngọc càng mài càng sáng vàng càng luyện càng trong. Người cũng chỉ ra rằng: năng lực của con người không phải tự nhiên mà có mà do rèn luyện mà nên, trong đó tự học được xem như điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của cá nhân. Điều quan trọng hàng đầu ở đây là sinh viên phải xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Sinh viên phải xác định được mục đích của việc học, học để thi cho có điểm số cao hay là học để lấy bằng cấp. Chúng ta phải xác định được học là để tiếp thu tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội, tư duy; những tri thức, kĩ năng về nghề nghiệp để nâng cao nhận thức của cá nhân và vận dụng để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Từ nhận thức đúng đắn mục đích của việc học tập mà mỗi người phấn đấu không ngừng trong học tập rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ của tập thể và nhà trường giao cho. Mỗi sinh viên cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu; cần thấy tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, qua đó giúp cho bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa kiên thức, đồng thời rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giả quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Sinh viên phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ giáo dục – đào tạo, có động cơ học tập đúng đắn; trên cơ sở đó xây dựng cho mình ý thức trách nhiệm và thái độ học tập nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, thực hiện tốt mục đích của giáo dục - đào tạo, điều đó chỉ trở thành hiện thực khi bản thân sinh viên tham gia một cách chủ động, tích cực vào mọi khâu của quá trình giáo dục đào tạo. Ý thức trách nhiệm, động cơ học tập đúng đắn còn thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trách nhiệm của cá nhân với tập thể lớp; giữa học tập tại trường và công tác sau này, từ đó có sự nỗ lực vươn lên vượt mọi khó khăn tìm ra con đường, biện pháp tự học, tụ nghiên cứu để nắm vững làm chủ tri thức khoa học. Để có được động cơ, thái độ, trách nhiệm học tập đúng đắn, nhất thiết phải thông qua công tác giáo dục của nhà trường và đặc biệt là quá trình tự giáo dục, sự nỗ lực, tự giác vươn lên của người học. Ngay từ đầu, mỗi sinh viên cần phải tự giác quán triệt một cách nghiêm túc về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất và năng lực của sinh viên. Phải nhận thức đúng đắn việc tập đó là “học để biết, học để làm người, làm cán bộ, học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Muốn vậy, mỗi sinh viên phải chủ động tìm hiểu những đặc điểm, yêu cầu của môn học, nắm được những thuận lợi khó khăn trong quá trình học tập. Qua đó, rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lý, thể lực cho quá trình học tập. Ngoài ra, từng sinh viên phải luôn tự ý thức, tự rèn luyện bản thân, xây dựng ý chí và nghị lực để sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong học tập, luôn đặt ra những yêu cầu cao trong học tập để tự mình phấn đấu vươn lên. Đồng thời, tích cực đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tư tưởng ngại khó, ngại khổ, tư tưởng ỉ lại, trông chờ vào các mối quan hệ để được điểm cao. Trên thực tế, những hạn chế này vẫn tồn tại ở không ít sinh viên, cần được khắc phục dần dần. Tự học tức là phải học mọi lúc, mọi nơi, tận dụng thời gian, dành công sức, tranh thủ học tập, học ở trường, lớp, sách vở và học ở bạn bè, học ở tất cả mọi người; gặp điều hay, lẽ phải ở bất kì đâu, bất kì người nào mà thấy có ý nghĩa với bản thân thì phải gắng nhớ và học cho bằng được. Từ những điều ấy sẽ làm cho nhận thức của mỗi người cao hơn, bản thân sẽ tự tin hơn khi giải quyết các tình huống ở thực tiễn. 3.2. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học Chương trình, nội dung dạy học phải được đổi mới theo hướng đảm bảo thực hiện mục đích giáo dục toàn diện của Đảng, đảm bảo tính hiện đại, tính tư tưởng, tính giáo dục, không ngừng tăng cường tính thực tiễn, đồng thời phải không ngừng làm cho các kiến thức mang tính chất tổng hợp, khách quan, đáp ứng với sự phát triể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội trong các trường Đại học.doc
Tài liệu liên quan