Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong vụ án lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC

 

Trang

 

LỜI NÓI ĐẦU 3

 

CHƯƠNG I NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG 4

1. Tranh chấp lao động là hiện tượng xuất hiện khi có sự hình thành và phát triển nhất định của quan hệ lao động 4

2. Các tranh chấp lao động xuất phát từ những bất đồng, xung đột giữa NLĐ và NSDLĐ 5

3. Tranh chấp lao động được hiểu là xung đột giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật lao động về quyền (nghĩa vụ) và lợi ích 5

 

 

CHƯƠNG II KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG

GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ HỒ SƠ KHỞI KIỆN 11

1. Nghiên cứu hồ sơ, xem xét có nên khởi kiện hay không khởi kiện 11

2. Hồ sơ khởi kiện trong vụ án lao động 12

 

CHƯƠNG III KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM 14

1. Nghiên cứu hồ sơ vụ kiện 14

2. Xây dựng phương án bảo vệ khách hàng 14

3. Kỹ năng của luật sư tại phiên toà sơ thẩm 15

 

CHƯƠNG IV KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ PHÚC THẨM 17

 

CHƯƠNG V MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN ĐẶT RA TRONG CÁC VỤ ÁN LAO ĐỘNG 18

1. Thụ lý hay không thụ lý khi “không có hợp đồng lao động” 18

 

2. Hợp đồng lao động vô hiệu và nguyên tắc xử lý 20

Thứ nhất: HĐLĐ vi phạm về chủ thể giao kết hợp đồng 23

Thứ hai: HĐLĐ vi phạm nguyên tắc giao kết hợp đồng 24

Thứ ba: HĐLĐ vi phạm các quy định về hình thức của HĐLĐ 25

Thứ tư: HĐLĐ vi phạm các quy định về loại hợp đồng 26

Thứ năm: HĐLĐ vi phạm các quy định về nội dung của HĐLĐ 27

 

3. Loại vụ việc tranh chấp thường xảy ra 29

4. Những vấn đề mà pháp luật chưa quy định rõ 29

 

KẾT LUẬN 31

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2902 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong vụ án lao động - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c vào quan hệ tranh chấp và việc kiện cụ thể. Cần lưu ý một điểm khá quan trọng trong kỹ năng hành nghề của luật sư trong các vụ án lao động. Do pháp luật hiện hành quy định song song hai cách tính thời hiệu trong vụ án lao động, trong trường hợp vụ án còn thời hiệu khởi kiện, song lại còn rất ít thời gian, khó có thể khởi kiện vụ án đúng thời hiệu thì việc đầu tiên luật sư phải làm là hỏi thân chủ của mình xem vụ tranh chấp đã được giải quyết tại hội đồng hoà giải cơ sở hay chưa, nếu chưa, phải ngay lập tức gửi đơn xin được hoà giải để kéo dài thời hiệu tố tụng nếu có thể. Trong giai đoạn đó, người luật sư có thể tranh thủ nghiên cứu hồ sơ vụ việc và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Sau khi xác định thời hiệu khởi kiện vẫn còn, luật sư phải xem xét quyền khởi kiện của khách hàng. Chẳng hạn, luật sư xem xét năng lực hành vi khởi kiện. Tiếp theo, luật sư phải xem xét yêu cầu của khách hàng (ví dụ như khách hàng kiện ai, kiện về vấn đề gì). Yêu cầu của khách hàng có thể là huỷ quyết định trái pháp luật, đòi bồi thường thiệt hại, hoặc có thể là nhận trở lại làm việc, xin lỗi… Luật sư phải xem xét liệu yêu cầu của khách hàng có hợp lý, chính đáng hay không, có thuộc quan hệ lao động hay không. Có những yêu cầu của khách hàng tuy là hợp lý, hợp pháp, nhưng nếu không thuộc quan hệ lao động thì phải cho khách hàng biết là không thể đưa vào vụ án lao động để tòa giải quyết được. Một công việc mà vụ án dân sự loại nào cũng có, nhưng rất đặc biệt ở vụ án lao động là việc phân tích những điểm có lợi và có hại của khách hàng nếu khách hàng khởi kiện cũng như đưa ra các phương án khác thay thế. Sau khi tiếp xúc với khách hàng, nghe khách hàng trình bày, nghiên cứu hồ sơ và bằng kiến thức và kinh nghiệm của mình luật sư phải nhận thấy những điểm có lợi và có hại nếu như thân chủ của mình khởi kiện ra toà để yêu cầu quyền lợi. Nếu như luật sư nhận thấy nếu khởi kiện ra toà, thân chủ của mình gặp nhiều điểm bất lợi hơn thì nên làm rõ mọi vấn đề, phân tích điểm hơn thiệt cho khách hàng để khách hàng lựa chọn. Về mặt đạo đức nghề nghiệp mà nói, đây cũng là một hành động cần phải làm của người luật sư. Từ việc cân nhắc xem có nên khởi kiện hay không khởi kiện, luật sư định ra phương án giải quyết đối với từng trường hợp. Cụ thể như luật sư sẽ khuyên khách hàng của mình nên hoà giải nếu việc hoà giải thương lượng có lợi hơn. Sau khi đã phân tích các vấn đề hơn thiệt, nếu như khách hàng vẫn lựa chọn việc khởi kiện, khi đó, luật sư sẽ tiến hành chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Ngoài ra, trong vụ án lao động, luật sư cũng phải chú ý đến thủ tục hòa giải. Đối với vụ việc không nhất thiết phải qua hòa giải thì luật sư xem xét liệu thân chủ có qua hòa giải không, và có thể xem xét thuyết phục thân chủ thực hiện hòa giải. Nếu vụ việc tranh chấp thuộc loại buộc phải thông qua hòa giải, thì luật sư nhất thiết phải kiểm tra xem đã có thủ tục hòa giải chưa, việc hòa giải có đúng pháp luật về trình tự, thủ tục, chủ thể hòa giải, nội dung hòa giải hay không. Cuối cùng, luật sư phải xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc của thân chủ. Mặc dù việc xác định đúng thẩm quyền không có ý nghĩa quyết định (nếu xác định sai, tòa án sẽ hướng dẫn), nhưng sẽ ảnh hưởng đến uy tín luật sư nếu luật sư xác định sai thẩm quyền của tòa. 2. Hồ sơ khởi kiện trong vụ án lao động Hồ sơ khởi kiện trong một vụ án lao động sẽ có thể bao gồm các tài liệu quan trọng nhất sau đây: Đơn khởi kiện: đơn khởi kiện phải nêu rõ tên toà án có thẩm quyền; ngày tháng năm làm đơn; họ tên/tên, địa chỉ cư trú/trụ sở của nguyên đơn, họ tên/tên giao dịch, địa chỉ nơi cư trú/trụ sở của bị đơn; lý do khởi kiện; các yêu cầu cụ thể và các nội dung khác. Các tài liệu, bằng chứng có liên quan đến vụ án: trước tiên phải bao gồm hợp đồng lao động, quyết định sa thải hay đơn phương chấm dứt hợp đồng hoặc các văn bản khác là lý do của việc khởi kiện ra toà và các tài liệu khác như các công văn, văn bản trao đổi giữa các bên. Các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ tranh chấp. Luật sư phải có đầy đủ tất cả các văn bản pháp luật liên quan để có thể viện dẫn trước tòa. Hồ sơ khởi kiện phải được chuẩn bị kỹ càng và cẩn thận, đảm bảo tính thẩm mỹ cũng như tính khoa học. Điều này rất quan trọng trong việc tạo ấn tượng ban đầu đối với toà án. Về cơ bản, hồ sơ khởi kiện có thể được xắp xếp theo các trình tự khác nhau, chẳng hạn như theo trình thự về thời gian, trình tự về sự kiện, diễn biến…, tuỳ vào từng vụ việc mà luật sư lựa chọn cho mình cách trình bày phù hợp CHƯƠNG III KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM 1. Nghiên cứu hồ sơ vụ kiện Trước khi tham dự phiên toà sơ thẩm, luật sư cần nghiên cứu kỹ các hồ sơ của vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều nội dung. Trước hết, luật sư phải kiểm tra những vấn đề pháp lý liên quan đến việc khởi kiện và thủ tục tố tụng khác. Công việc này đặc biệt quan trọng khi luật sư được thân chủ mời sau khi họ đã khởi kiện ra tòa. Tiếp theo, luật sư chủ động tự mình hoặc yêu cầu thân chủ thu thập những chứng cứ quan trọng có lợi cho thân chủ của mình để xuất trình trước toà. Luật sư hướng dẫn thân chủ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Sau khi nắm vững các vấn đề pháp lý của vụ án và có trong tay tài liệu, chứng cứ thu thập được, luật sư phải bắt tay vào nghiên cứu hồ sơ. Luật sư phải xác định những điểm mạnh và điểm yếu của thân chủ mình về mặt pháp luật và về mặt tình cảm bởi lẽ ngoài các quy định pháp luật, do quan hệ lao động là loại quan hệ đặc biệt gắn liền với yếu tố con người, vì vậy hoàn cảnh gia đình và các yếu tố tình cảm khác cũng có ảnh hưởng đáng kể đến cách nhìn nhận của các thẩm phán. Mặt khác, luật sư phải nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật có liên quan, chuẩn bị và đánh dấu những điểm cần trích dẫn hoặc sử dụng, nghiên cứu hồ sơ tài liệu, các chứng cứ của bên kia, dự kiến được các luận cứ bào chữa của luật sư bên kia để đối phó. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, luật sư nên nói chuyện, trao đổi với thân chủ của mình về những điều nên và không nên làm tại toà, động viên thân chủ và trao đổi với thân chủ những câu hỏi dự kiến và những câu trả lời nên có của thân chủ tại toà cũng như các tình huống có thể xảy ra tại toà. Luật sư nên trao đổi với khách hàng về tình trạng pháp lý của họ, giúp khách hàng thấy rõ vị trí, lợi ích của mình và trao đổi phương pháp tranh tong tại tòa. Tóm lại, luật sư phải chuẩn bị cho thân chủ của mình cả về tinh thần và kiến thức pháp luật. 2. Xây dựng phương án bảo vệ khách hàng Trong quá trình chuẩn bị tham gia phiên tòa, thì sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ kiện, luật sư phải xây dựng phương án bảo vệ khách hàng. Để thực hiện công việc này, luật sư trước hết phải xác định nội dung tranh chấp và yêu cầu bảo vệ. Công việc này nhiều khi đã được thực hiện ở các giai đoạn trước, nhưng khi xây dựng phương án bảo vệ khách hàng, luật sư vẫn nên tổng kết, tóm tắt lại nội dung tranh chấp và yêu cầu bảo vệ. Sau đó, luật sư sẽ xây dung hệ thống luận điểm, luận cứ để bảo vệ khách hàng dựa trên việc sử dụng tài liệu, chứng cứ và áp dụng văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ đang tranh chấp. Cuối cùng, luật sư sẽ xây dựng bố cục bài bảo vệ. Luật sư có thể chỉ cần bố cục và vận dụng linh hoạt tại tòa nhưng rất không nên. Luật sư nên viết bản luận cứ thật hoàn chỉnh, nhất là đối với những luật sư tập sự và luật sư chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra, luật sư cố gắng tiên đoán trước diễn biến phiên toà và chuẩn bị cho tình huống bất lợi, ngoài dự kiến có thể xảy ra để có khả năng ứng biến một cách tốt nhất. 3. Kỹ năng của luật sư tại phiên toà sơ thẩm Thủ tục bắt đầu phiên toà: Tại phiên toà sơ thẩm luật sư chú ý theo dõi các thủ tục tố tụng, nếu thư ký hoặc chủ toạ vi phạm quy định của pháp luật về tố tụng, luật sư có thể có những đề xuất thích hợp, đặc biệt là những vi phạm mà ảnh hưởng đến quyền lợi của thân chủ của mình. Luật sư cũng cần lưu ý đến sự có mặt của các đương sự tại phiên toà, nếu có những đương sự không có mặt mà có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của thân chủ mình, luật sư có thể có những đề nghị thích hợp, chẳng hạn như xin hoãn phiên toà hoặc đề nghị triệu tập những người này. Xét hỏi tại phiên toà: Trong phần xét hỏi tại phiên toà, luật sư cần đặt ra những câu hỏi đúng trọng tâm, không dài dòng, đặc biệt tránh các sai lầm về cách dùng ngôn ngữ, thái độ đối với toà hay đương sự. Luật sư phải biết đi sâu khai thác các điểm mạnh của mình. Ví dụ như trong một vụ án kỷ luật lao động sa thải mà lý do sa thải là đúng pháp luật thì luật sư cần hỏi nhiều về vấn đề thủ tục sa thải để làm nổi rõ tính bất hợp pháp trong thủ tục (nếu có). Mặt khác, do tranh chấp lao động là loại tranh chấp khá đặc biệt và nhạy cảm, pháp luật lao động Việt Nam và đường lối xét xử chung luôn có xu hướng bảo vệ cho người lao động là người có vị thế yếu hơn, Luật sư phải biết rõ điểm này để tuỳ từng trường hợp luật sư sẽ biết cách tận dụng. Ví dụ như nếu như khách hàng là người lao động, luật sư cần làm rõ những khó khăn về kinh tế, sự bất bình đẳng trong công việc và cũng nên nói đến đạo đức xã hội nếu cần để bảo vệ tốt nhất cho thân chủ. Ngược lại, nếu như khách hàng là người sử dụng lao động, luật sư cần làm rõ những sai trái của người lao động theo quy định của pháp luật và theo quy định trong nội quy lao động hoặc thoả ước lao động tập thể nếu có, những châm chước, những ưu ái mà người sử dụng lao động đã dành cho người lao động (nếu có). Tranh luận tại phiên toà: Một trong những yếu tố căn bản tạo nên thành công của luật sư trong một vụ án nói chung và vụ án lao động nói riêng là kỹ năng tranh luận tại phiên toà. Khi tranh luận, luật sư có thể bày tỏ tốt nhất quan điểm bao chữa của mình cho thân chủ đồng thời qua quá trình tranh luận, người ta cũng có thể đánh giá được năng lực của một luật sư. Về mặt nội dung, khi trình bày quan điểm của mình tại phiên toà, luật sư phải nắm vững được các quy định pháp luật có liên quan, khi trích dẫn thì nên trích dẫn chính xác, ghi rõ từng khoản từng điều cụ thể. Như vậy, tính thuyết phục của bài luận cứ mới cao. Luật sư cần xoáy sâu vào điẻm mạnh, điểm cốt lõi cần chứng minh để bảo vệ thân chủ, ngược lại, đối với những điểm bất lợi cho thân chủ thì luật sư không nên đi sâu, tốt nhất là tránh đề cập tới. Về phong cách và kỹ năng tranh luận và trình bày quan điểm tại phiên toà, luật sư luôn có thái độ tôn trọng hội đồng xét xử và các luật sư là đồng nghiệp. Khi hỏi đương sự tại phiên toà, thái độ của luật sư nên hơi lạnh lùng, nghiêm túc. Trên thực tế, có khá nhiều luật sư, về mặt kiến thức thì rất uyên bác, song khả năng tranh luận và thẩm vấn, đặc biệt là khả năng hùng biện và thuyết phục người khác lại không tốt. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả bào chữa. Luật sư cần đặc biệt tránh các sai lầm trước toà khi tranh luận, chẳng hạn như đặt câu hỏi cho luật sư phía bên kia trong khi luật sư theo quy định của pháp luật không được phép hỏi và cũng không có nghĩa vụ phải trả lời những câu hỏi tương tự. Khi trình bày bài luận cứ của mình, luật sư cần trình bày rõ ràng, mạch lạc, từ tốn, tránh tình trạng chỉ chăm chú đọc bài bào chữa mà không dừng lại để quan sát phiên toà. CHƯƠNG IV KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ PHÚC THẨM Trong trường hợp toà cấp sơ thẩm đã giải quyết mà khách hàng không đồng ý với phán quyết của toà thì luật sư cũng có thể giúp đỡ thân chủ của mình hoàn tất các thủ tục kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật. Các công việc luật sư phải làm trong giai đoạn này cũng tương tự như trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án dân sự khác. Điều quan trọng nhất trong giai đoạn này là việc chuẩn bị một đơn kháng cáo. Nội dung cơ bản của đơn kháng cáo là: ngày tháng năm viết đơn, toà án cấp có thẩm quyền, tên họ và địa chỉ của người kháng cáo, tóm tắt nội dung vấn đề cần kháng cáo, giải trình lý do kháng cáo và yêu cầu cụ thể. Trong phiên toà phúc thẩm, luật sư có thể được triệu tập tham dự tuỳ từng trường hợp nhất định. Trong trường hợp này, về cơ bản, kỹ năng của luật sư tương tự như các kỹ năng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án lao động. CHƯƠNG V MỘT SỐ VẤN Ề THỰC TIỄN ĐẶT RA TRONG CÁC VỤ ÁN LAO ĐỘNG Trong thực tiễn thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động có một số vấn đề đang nổi cộm. Những vấn đề đó đã gây nên những khó khăn cho người khởi kiện và những người liên quan khác là đương sự của vụ án lao động. Tôi xin trình bày tới một số vướng mắc thường gặp trong các vụ án lao động đó. 1. Thụ lý hay không thụ lý khi “không có hợp đồng lao động” Thời gian qua, một số tòa án đã không thụ lý vụ án lao động vì người khởi kiện không xuất trình được hợp đồng lao động bằng văn bản. Lý do mà các tòa án đó đưa ra để bảo vệ quan điểm của mình rất đơn giản là “không có hợp đồng lao động” Phải chăng đó là lý do chính đáng? Và điều đó thực sự có quan trọng như lập luận của các tòa án đó rằng, “không có hợp đồng lao động” thì không có cơ sở để thụ lý giải quyết vụ án lao động? Có quy định nào của pháp luật điều chỉnh và ủng hộ quan điểm đó? Về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận đây là vấn đề rất cần có sự giải thích khoa học nhằm thống nhất về quan điểm trong quá trình giải quyết các vụ án lao động nói chung và tranh chấp về hợp đồng lao động nói riêng. Như chúng ta đã biết, trong thực tiễn,việc đương sự tiến hành khởi kiện mà không trình ra trước tòa án “hợp đồng lao đồng” thường rời vào những trường hợp sau: a. Trường hợp công nhân, viên chức là lực lượng lao động thường xuyên (trong biên chế nhà nước) thuộc các doanh nghiệp nhà nước chưa chuyển sang giao kết hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật Hiện tại, vẫn còn có rất nhiều người lao động ở tình trạng này vì sự tắc trách hoặc thiếu hiểu biết của chủ sử dụng lao động. Bởi vì nếu tiến hành giao kết hợp đồng lào động thì phải áp dụng các quy định chung về loại hợp đồng lao động bằng văn bản, nhưng trong thực tế các doanh nghiệp nhà nước đã không thực hiện việc giao kết hợp đồng lao động với các đối tượng này. Tình trạng treo hình thức pháp lý của quan hệ lao động đó đã dẫn đến cách giải thích và áp dụng luật khác nhau dẫn đến kết quả là, tòa án không thụ lý giải quyết hoặc nếu có thì chất lượng của một số bản án trong thời gian qua còn rất thấp. b. Trường hợp người sử dụng lao động không tiến hành giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản theo quy định của pháp luật Những trường hợp đó bao gồm (i) hợp đồng không xác định thời hạn; (ii) hợp đồng có xác định thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; và (iii) hợp đồng theo mùa vụ từ 12 tháng trở xuống. c. Các bên không xác lập hợp đồng lao động bằng văn bản trong những trường hợp không nhất thiết phải giao kết bằng văn bản Đó là những trường hợp nằm ngoài các trường hợp đã nêu tại điểm a và b ở trên. Trong trường hợp không nhất thiết phải sử dụng hình thức văn bản để giao kết hợp đồng lao động, các bên có thể lựa chọn hoặc là giao kết bằng văn bản, hoặc là giao kết hợp đồng miệng. d. Trường hợp các bên chưa tiến hành giao kết hợp đồng mới khi hợp đồng lao động cũ đã kết thúc trong thời hạn đệm do pháp luật lao động quy định. Bộ Luật Lao Động (sửa đổi 2002), Điều 27.2 Khi gặp phải một trong các trường hợp đó, một số tòa án thường lúng túng trong khâu thụ lý. Theo cách tư duy thông thường, đó là trường hợp không có hợp đồng lao động. Tuy nhiên, hiểu như vậy là chưa đúng, bởi vì đó là tình trạng đồng nhất hình thức pháp lý của mối quan hệ lao động theo hợp đồng lao động ới bản chất của hợp đồng lao động với bản chất của hợp đồng lao động. Văn bản hợp đồng lao động chẳng qua chỉ là hình thức pháp lý của sự thỏa thuận giữa hai bên tham gia quan hệ lao động mà thôi. Vì vậy, khi tiếp cận với các trường hợp (a), (b), (c) và (d) nói trên, các tòa án cần tiến hành thủ tục theo quy định của pháp luật để thụ lý vụ án, tránh tình trạng thoái thác trách nhiệm gây thiệt hại cho người khởi kiện. Trong thực tiễn, một số nhân viên tòa án được phân công thường trực tiếp giúp lãnh đạo tiếp đương sự, do không có sự hiểu biết cần thiết về lĩnh vực lao động nên đã không nhận đơn khi người khởi kiện không có hợp đồng lao động. Vì để lâu ngày, trựot qua thời hiệu tố tụng theo quy định nên đã làm mất quyền khởi kiện của đương sự hoặc kéo dài thời gian, làm tốn kém thời gian và tiền bạc của họ. Về mặt lý luận khoa học cũng như về phương diện thực tiễn, việc xác định có hay không có quan hệ lao động là quan trọng nhất. Vấn đề này thậm chí phải đư xem xét trước tiên, có tính nguyên tắc, đối với việc thụ lý vụ tranh chấp lao động để giải quyết tại tòa án. Điều làm cho người ta quan tâm đặc biệt đó là có hay không có quan hệ lao động trong thực tế giữa người khởi kiện và bị đơn trong vụ lao động. Một số biện pháp kiểm tra mang tính chất khoa học thường được các tòa án của một số nước trên thế giới sử dụng tập tr7ung vào việc trả lời các câu hỏi: có quan hệ thuê mướn nhân công hay không? Ai là người thuê và ai là người được thuê? nội dung thê như thế nào? Có trả lương, tiền công hay không? Trong quá trình người được thuê mướn làm việc thì người thuê có sử dụng quyền điều hành hay không? nếu thỏa mãn một số khía cạnh căn bản của quan hệ lao động th tòa án thụ lý giải quyết, ngược lại tòa án sẽ không thụ lý và hướng dẫn đương sự tới địa chỉ cần thiết để khời kiện. Như vậy, về mặt đường lối, tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn một số vấn đề xung quanh việc thụ lý vụ án lao động, đặc biệt là hướng dẫn về việc xác định một quan hệ lao động để các tòa án nhân dân các cấp tổ chức áp dụng nhằm đảm bảo cho việc thực thi được thống nhất. 2. Hợp đồng lao động vô hiệu và nguyên tắc xử lý Bộ Luật Lao Động năm 94 chưa có quy định về hợp đồng lao động vô hiệu. Bộ Luật Lao Động sửa đổi năm 2002 có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2003 đã có một số quy định về hợp đồng lao động vô hiệu (HĐLĐVH). Theo quy định tại Điều 166.4 của Bộ Luật Lao Động 2002 (BLLĐ) thì khi xét xử các vụ án lao động mà tranh chấp xảy ra từ ngày 1 tháng 1 năm 2003 trở đi, nếu phát hiệu HĐLĐVH thì tòa án phải tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp động lao động bị tuyên bố vô hiệu. Chúng ta đều biết rằng trong thực tiễn tố tụng dân sự, kinh tế, vấn đề hợp đồng dân sự vô hiệu và hợp đồng kinh tế vô hiệu không còn là vấn đề mới; nghĩa là đã có thực tiến giải quyềt tranh chấp về hợp đồng dân sự vô hiệu và hợp đồng kinh tế vô hiệu. Qua thực tiễn đó, pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và hợp đồng kinh tế vô hiệu đã được xây dựng tương đối cơ bản và đang từng bước được hoàn thiện. Còn vấn đề HĐLĐVH trong thực tiễn tố tụng lao đồng thì có thể nói là chưa có gì. Trước đây pháp lệnh hợp động lao động ngày 30/8/1990 (Pháp Lệnh HĐLĐ) và Nghị Định số 165/HDBT ngày 12/5/1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng quy định về HĐLĐVH nhưng khi đó theo Quyết Định số 10/HDDBT ngày 14/1/1985 của Hội Đồng Bộ Trưởng thì tòa án nhân dân chỉ có thẩm quyền giải quyết một số việc tranh chấp lao động. Mặt khác, cũng theo quy định của pháp lệnh HĐLĐ thì chỉ thanh tra lao động mới có thẩm quyền tuyên bố HĐLĐVH. Hiện nay về cơ sở luật thực định, chúng ta mới chỉ có BLLĐ 2002, Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003 là có quy định về HĐLĐVH, nhưng còn rất sơ sài, lại chưa có thực tiễn về xử lý HĐLĐVH vì BLLĐ 2002 mới có hiệu lực từ 1/1/2003, trong khi đó hàng ngày các tòa án vãn phải thụ lý giải quyết các vụ án lao động, mà trong hầu hết các vụ án lao động vấn đề HĐLDVH luôn được đặt ra. Thực tế cho thấy rằng việc nghiên cứu để thống nhất nhận thức và quản điểm áp dụng các quy định về HĐLĐVH là vấn đề cần thiết và ngày càng trở lên bức xúc. Sau khi BLLĐ được sửa đổi bổ sung đã có nhiều ý kiến trao đổi, tranh luận giữa các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý và những người đang làm công tác xét xử xung quanh việc áp dụng các quy định của BLLĐ về HĐLĐVH. Tuy nhiên, hiện tại vẫn đang còn nhiều vấn đề chưa được thống nhất. Dưới đây là một số nội dung cơ bản xung quanh vấn đề HĐLĐVH và việc giải quyết một số vấn đề chủ yếu, trước mắt về HĐLĐVH trong quá trình tòa án thụ lý giải quyết các vụ án lao động. a. Thế nào là HĐLĐVH Theo Pháp Lệnh HĐLĐ và Nghị Định 165 thì vấn đề HĐLĐVH được quy định tương đối đầy đủ và rõ ràng, nhưng tiếc rằng BLLĐ năm 1994 lại không quy định về HĐLĐVH. Cho đến BLLĐ 2002 mới lại quy định về HĐLĐVH. Khi nghiên cứu các quy định của BLLĐ về HĐLĐVH, chúng ta dễ nhận thấy rằng cách thức thiết kế các quy phạm về HĐLĐVH rất khác so với trong Bộ Luật Dân Sự, Pháp Lệnh Hợp Đồng Kinh Tế, Pháp Lệnh Hợp Đồng Dân Sự và Pháp Lệnh HĐLĐ. BLLĐ chưa có một điều khoản nào định nghĩa về HĐLĐVH. Vấn đề không phải là ở chỗ nhất thiết phải có một điều khoản định nghĩa về HĐLĐVH mà là phải có những quy định để các chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật lao động có thể nhận thức được một hợp đồng lao động như thế nào thì có thể bị coi là vô hiệu. Đồng thời, đó cũng là tiêu chí để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động lấy làm căn cứ xem xét và tuyên bố HĐLĐVH. Về mặt lý luận: thể hiện ý đồ điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề hợp đồng vô hiệu các nhà soạn thảo luận thường sử dụng hai phương pháp truyền thống là dùng quy phạm trực tiếp hoặc gián tiếp. PHương pháp trực tiếp là bằng một quy phạm, trực tiếp chỉ ra những dấu hiệu của một hợp đồng vô hiệu như quy định tại Điều 8 của Pháp Lệnh HĐLĐ, Pháp Lệnh Hợp Đồng Kinh Tế và Pháp Lệnh Hợp Đồng Dân Sự. Phương pháp gián tiếp là quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và từ đó xác định hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì bị coi là vô hiệu như quy định tại Điều 136 Bộ Luật Dân Sự. Đối với BLLĐ, toàn bộ chế định về hợp đồng lao động được quy định tại Chương IV của BLLĐ không có điều khoản nào định nghĩa về HĐLĐVH hoặc quy định các điều kiện có hiệu lực của HĐLĐ. Tại Điều 166.4 BLLĐ có quy định: “Khi xét xử, nếu tòa án nhân dân phát hiện hợp đồng lao động trái với thỏa ước tập thể, pháp luật lao động; thỏa ước tập thể trái với pháp luật lao động thì tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể vô hiệu từng phần hoặc toàn bộ”. Căn cứ vào quy định nêu trên, hiện nay có hai quan điểm đã được đưa ra trao đổi về HĐLĐVH: Quan điểm thứ nhất: HĐLĐVH là hợp đồng vi phạm các quy định tại Điều 29 của BLLĐ, tức là bao gồm các trường hợp sau: khi giao kết HĐLĐ, các bên không thỏa thuận với nhau hoặc thỏa thuận không đầy đủ những nội dung chủ yếu của HĐLĐ như quy định tại Điều 29.1 BLLĐ; một phần hoặc toàn bộ nội dung của HĐLĐ quy định quyền lợi của người lao động thấp hơn mức được quy định trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đang áp dụng trong doanh nghiệp hoặc hạn chế các quyền khác của người lao động như quy định tại Điều 29.2 BLLĐ; Quan điểm trên dựa trên suy luận cho rằng tại Điều 166.5 đã quy định “Chính Phủ quy định cụ thể việc giải quyết hậu quả đối với các trường hợp HĐLĐ, thỏa ước tập thể bị tuyên bố vô hiệu quy định tại Điều 29.3 và Điều 48.3 và 48.4” mà Điều 29.3 chỉ dẫn chiếu đến những vi phạm đã được quy định tại Điều 29.1 và Điều 29.2. Phần lớn các ý kiến không đồng ý với quan điểm nêu trên bởi lẽ nếu chỉ những HĐLĐ mới bị coi là vô hiệu thì sẽ loại trừ rất nhiều trường hợp vi phạm làm cho HĐLĐ không có giá trị pháp lý mà lại không bị coi là vô hiệu. Trong khi đó, cũng tại Điều 166 BLLĐ đã quy định rằng HĐLĐ bị coi là vô hiệu khi nó trái với thỏa ước tập thể, pháp luật lao động; mà quy định của pháp luật lao động về HĐLĐ thì không chỉ có ở Điều 29 BLLĐ. Quan điểm thứ hai: HĐLĐVH là HĐLĐ vi phạm các quy định của pháp luật về HĐLĐ. Theo quy định hiện hành, những vấn đề cơ bản của quan hệ HĐLĐ như: chủ thể của hợp đồng, các nguyên tắc trong giao kết HĐLĐ, hình thức của HĐLĐ, loại HĐLĐ và nội dung của HĐLĐ, tuy không được quy định tập trung nhưng cũng tương đối đầy đủ trong BLLĐ. Nếu căn cứ vào Điều 166.4 BLLĐ, thì việc giao kết HĐLĐ mà vi phạm các quy định của BLLĐ là trái pháp luật và bị coi là vô hiệu. Quan điểm này về cơ bản là phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật về hợp đồng và phù hợp với thực tiễn quan hệ HĐLĐ ở nước ta. Tuy nhiên, phải dựa trên cơ sở những phân tích về bản chát, nội dung của quan hệ HĐLĐ để xác định cụ thể các trường hợp trái pháp luật và bị tuyên bố vô hiệu. b. Các trường hợp HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu và việc giải quyết hậu quả của HĐLĐVH Để giải quyết vấn đề nêu trên, trước hết cần thống nhất về mặt nguyên tắc một số vấn đề sau đây: Quan hệ HĐLĐ trước hết là quan hệ pháp luật về hợp đồng; do đó việc xác định một HĐLĐ nào đó bị vô hiệu phải dựa trên nguyên tắc chung của pháp luật về hợp đồng; Quan hệ HĐLĐ là quan hệ mua bán, sử dụng sức lao động, mà sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt gắn liền với các giá trị xã hội và lợi ích của cộng đồng. Do đó, việc tuyên bố một HĐLĐ nào đó là vô hiêu phải căn cứ vào tính đặc thù của loại quan hệ này; mà vấn đề quan trọng hàng đầu là khi nào thì tuyên bố hủy HĐLĐ và giải quyết quyền lợi của các bên trong HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu như thế nào. Phải nói rằng việc giải quyết hậu quả pháp lý của HĐLĐVH là vấn đề khá phức tạp, bởi vì cùng là quan hệ về hợp đồng nhưng đối với quan hệ HĐLĐ thì không thể áp dụng máy móc các nguyên tắc xử lý hợp đồng vô hiệu. Trong hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng kinh tế, đối tượng của hợp đồng có thể là tài sản hữu hình, có thể mua đứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKỹ năng của luật sư trong vụ án lao động.doc
Tài liệu liên quan