Đề tài Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xnk của công ty Mimexco

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 1

I . KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ XNK. 1

1. Khái niệm: 1

2. Vai trò của XNK. 2

 2.1 Đối với nhập khẩu. 2

 2.2 Đối với xuất khẩu. 4

3. Tình hình XNK của Việt Nam thời gian qua. 6

3.1 Những thành tựu đạt được: 6

 3.1.1 Về hoạt động XNK. 6

 3.1.2 Về thị trường XNK. 8

3.2 Một số mặt còn tồn tại. 10

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK. 10

4.1 Nhân tố mang tính toàn cầu. 11

4.2 Chế độ chính sách luật pháp của Nhà nuớc và quốc tế. 11

4.3 Hệ thống giao thông vận tải , thông tin liên lạc 12

4.4 Hệ thống tài chính ngân hàng: 12

4.5 Khả năng sản xuất, chế biến của nền kinh tế trong nước. 13

4.6 Doanh nghiệp và sức cạnh tranh trên thị trường 13

II. CÁC HÌNH THỨC XNK. 13

1. Tái xuất khẩu : 13

2. Tái nhập khẩu. 13

3. Xuất khẩu và nhập khẩu trực tiếp 14

4. Xuất khẩu và nhập khẩu gián tiếp. 14

5. Tạm nhập, tái xuất. 15

6. Tạm xuất, tái nhập. 15

7. Chuyển khẩu. 15

8. Dịch vụ xuất khẩu. 15

9. Xuất khẩu tại chỗ. 15

III. NỘI DUNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG 15

1. Khái niệm thị trường và vai trò của thị tường trong hoạt động XNK. 15

1.1 Khái niệm thị trường. 15

1.2 Vai trò của thị trường đối với thị trường XNK. 16

2. Chiến lược mở rộng thị trường. 17

2.1 Chiến lược tập chung. 17

2.2 Chiến lược phân tán. 18

3.Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng thị trường. 19

IV. MỘT VÀI ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG XNK CỦA

NGÀNH KHOÁNG SẢN VIỆT NAM. 20

V. VÀI NÉT VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 22

1.Những cơ hội. 22

2.Những thách thức. 25

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG XNK CỦA CÔNG TY

XUẤT NHẬP KHẨU KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 26

I. I. khái quát về công ty mimexco 26

1. Quá trình thành và phát triển. 26

2. Cơ chế hoạt động và quản lý. 27

2.1.Cơ chế hoạt động 27

2.2.Chức năng nhiệm vụ của Công ty. 30

3. Vấn đề tài chính và nhân lực 33

4. Những vấn đề đặc thù của Công ty. 36

II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XNK CỦA CÔNG TY 36

1.Đặc điểm mặt hàng kinh doanh. 36

1.1 mặt hàng xuất khẩu. 37

1.2 Mặt hàng nhập khẩu. 41

2.Thị trường xuất nhập khẩu. 46

2.1Về thị trường xuất khẩu. 46

2.2Về thị trường nhập khẩu. 48

III. MỘT VÀI ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

XNK CỦA CÔNG TY. 50

1. Cách tính lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh XNK. 50

2. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh XNK. 51

3. Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh XNK trong Công ty. 60

4.Tình hình cạnh tranh. 65

CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XNK CỦA CÔNG TY MIMEXCO 68

I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN. 68

1. Kế hoạch năm 2003. 68

2. Phương hướng thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2003

 và các năm tiếp theo. 69

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XNK

 CỦA CÔNG TY. 73

1. Nâng cao năng lực cạnh tranh. 73

2. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường. 74

3. Nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường. 76

4. Lựa chọn sản phẩm chiến lược 78

5. Biện pháp đối với thị trường đầu vào 78

6. Các biện pháp đối với thị trường tiêu thụ 79

7. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên tác nghiệp 81

8. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu 82

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC. 84

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc101 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1088 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xnk của công ty Mimexco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oại khoáng sản, các loại máy móc, dây chuyền thiết bị phục vụ cho ngành khoáng sản và kinh doanh một số mặt hàng khác ngoài ngành. Trong giai đoạn 1999 - 2002 tổng kim ngạch XNK của Công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 5 : Tổng kim ngạch XNK năm 1999 - 2002 Đơn vị: USD Năm Chỉ Tiêu 1999 2000 2001 2002 Xuất khẩu 9.458.405 6.772.504 7.933.504 4.784.000 Nhập khẩu 1.211.733 491.570 75.019 644.840 Tổng 10.670.138 7.264.074 8.008.523 5.428.840 Nguồn : Báo cáo hoạt động kinh doanh XNK của Công ty (1999 – 2000) Bảng trên cho thấy kim ngạch XNK của Công ty thời kỳ này có sự giảm sút rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 rất cao đạt 9.458.405 USD nhưng sang năm 2000, 2001, 2002 đã có sự giảm sút đáng kể đặc biệt là năm 2002 (4.784.000 USD), chỉ bằng xấp xỉ 1/2 kim ngạch của năm 1999. Không chỉ đổi mới xuất khẩu mà ngay cả kim ngạch nhập khẩu cũng giảm, đặc biệt là vào năm 2001. Điều này cho thấy trong những năm qua (2000 - 2002) Công ty đã có sự khó khăn trong XNK mà nguyên nhân chủ yếu là do có sự thay đổi về điều kiện kinh doanh. Cơ chế quản lý Nhà nước đã xó sự thay đổi lớn với Thông tư 02/2000TT - BCN: chỉ cho phép các đơn vị có mỏ mới được phép xuất khẩu khoáng sản, điều nay trực tiếp gây bất lợi cho Công ty vì không có đủ hàng xuất khẩu đồng thời đối thủ cạnh tranh lại tăng lên càng đưa Công ty vào thế bí, đòi hỏi phải có chiến lược sao cho phù hợp với tình hình mới. Một nguyên nhân nữa làm cho doanh số nhập khẩu giảm là Nhà nước đã chấm dứt cho phép đổi hàng xuất khẩu để nhập xe máy từ thị trường Lào về . . . Có thể nói, trong 3 năm gần đây, Công ty luôn gặp khó khăn cản trở trong hoạt động kinh doanh đặc biệt là trong việc tìm nguồn hàng xuất khẩu. Tuy nhiên nếu nói về chủng loại mặt hàng xuất khẩu của Công ty lại rất đa dạng, điều này được phản ánh qua một số chỉ tiêu sau 1.1: Mặt hàng xuất khẩu. Là những mặt hàng khoáng sản của Việt Nam, phục vụ cho sản suất công nghiệp, đặc biệt là cho ngành khoáng sản trên cở sở phục vụ cho công cuộc công nhgiệp hoá hiện đại hoá đất nước, chứ không phải là hàng tiêu dùng cuối cùng. Công ty không trực tiếp sản xuất ra những mặt hàng này mà thông qua xuất khẩu trực tiếp hay gián tiếp , Công ty tự ký hợp đồng nội địa sau đó xuất khẩu ra nước ngoài với những bạn hàng truyền thống. Một số mặt hàng chủ yếu của Công ty như sau: Thiếc thỏi : có hàm lượng 99,75% Sn và 99,95% Sn mỗi năm xuất khẩu hàng ngàn tấn chủ yếu sang thị trường Malayxia ngoài ra còn sang cả liên hiệp vương quốc Anh. Đây được coi là mặt hàng chủ lực của Công ty mỗi năm doanh thu khoảng trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc thu gom mặt hàng thiếc thỏi xuât khẩu từ rất nhiều mỏ khác nhau thuộc nhiều vùng khác nhau như: Ngệ An, Tây Nguyên, Lâm Đồng, Tĩnh Túc (Cao Bằng)ngoài ra còn ở Thanh Hoá, Quảng Nam, Đà Nẵng, Vĩnh Phúc , Đại Từ (Thái Nguyên) cũng đã được khai thác từ năm 1964 đến nay, mỗi năm khai thác từ 400 - 700 tấn. Angtimôn thỏi 99,6% Sb trước đây xuất khẩu mỗi năm đạt 200 tấn, đến nay do trữ lượng giảm còn lại ít và một phần còn phải để phục vụ trong nước nên mỗi năm chỉ xuất khẩu được 100 tấn. Chì thỏi 99,9% và 99,96%: Loại khoáng sản sử dụng trong nước là chính phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm như: ắc quy, chế tạo máy. . . và sản suất kim loại dạng thô vì số lượng không đủ. Do đó đối với mặt hàng chì thỏi Công ty không còn tham gia xuất khẩu như trước nữa. Quặng kẽm. Tập trung chủ yếu ở Thái Nguyên , được tồn tại dưới hai dạng: Oxit (ZnO) 60% mỗi năm xuất khẩu từ 40 – 50 ngàn tấn nhưng ngày càng giảm đi. Loại hai là ZnS 52% chủ yếu được qua chế biến rồi xuất khẩu mỗi năm được 1000 tấn. Quặng Vonamit : có quy mô nhỏ hơn vào năm 2001, 2002 Công ty mới tham gia xuất khẩu mỗi năm đạt từ 40 - 60 tấn một năm. Vùng mỏ này nằm ở trên Tuyên Quang. Quặng sắt: đây là một trong hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Công ty kể từ năm 2001 trở lại đây, mỗi năm đạt từ 180 – 200 ngàn tấn. Mặt hàng này chủ yếu được sang Trung Quốc. Quặng Cromit 42 - 46 % Cr2O3 tồn tại dưới dạng cát, mỗi năm xuất khẩu được 100 tấn , chiếm một tỷ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc để sử dụng trong công nghiệp hoá. Ngoài ra, Công ty còn tham ra xuất khẩu một số mặt hàng khác như : quặng Mangan, quặng fluospar . . . nhưng chiếm một tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng này đem lại doanh thu và lợi nhuận chính cho Công ty, đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên một số mặt hàng mới chỉ dừng lại ở dạng xuất khẩu thô chưa qua chế biến nên hiệu quả chưa cao Các mặt hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu là thiếc thỏi 99,75% , các loại quặng như quặng kẽm, quặng sắt, quặng chì, quặng Cromite, quặng wonframit, quặng Zireon ... Đây là những mặt hàng mà Công ty rất có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước và đó cũng là những mặt hàng truyền thống của Công ty. Những mặt hàng này đã đem lại doanh thu rất lớn cho Công ty và cũng đóng góp một khoản lớn cho ngân sách Nhà nước. Chỉ cần nhìn qua bảng dưới đây ta có thể thấy được tình hình xuất khẩu các loại khoáng sản của Công ty: Bảng 6: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty giai đoạn 1999 – 2000 Tỷ trọng: % Đơn vị :USD Năm Mặt hàng 1999 2000 2001 2002 Kim Ngạch Tỷ trọng Kim Ngạch Tỷ trọng Kim Ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Thiếc thỏi 5.431.531 57,4 3.168.976 46,8 3.931.380 49.55 2.191.460 45,8 Cromite 250.230 2,6 107215 1,6 105.045 1,32 Sắt 3.089.680 32,7 3.275.756 48,3 3.911.150 49,3 2.548.740 53,27 Fluospar 118.776 1,3 129.293 1,9 Wolframite 117.795 1,48 43.800 0,93 Loại khác 568.188 6,0 91.261 1,4 Tổng 9.458.405 100 677.2504 100 7.933.504 100 4.784.000 100 Nguồn: Thống kê hoạt động kinh doanh của Công ty (1999 - 2002) Qua một vài con số thống kê trên, ta có thể thấy rằng trong số các mặt hàng xuất khẩu thì mặt hàng thiếc thỏi 99,75% luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu, chứng tỏ đây là mặt hàng có ưu thế và có vị trí rất quan trọng đối với Công ty. Tuy nhiên qua các năm mặt hàng này lại không tăng đôi khi còn giảm (điển hình là năm 2002 vừa qua) nhưng không vì thế mà có tỷ trọng thấp hơn các mặt hàng khác. Ngoài ra Công ty còn xuất thiếc thỏi 99,95% nhưng với số lượng ít. Về loại khoáng sản thiếc thỏi này đã được khai thác từ nhiều mỏ thiếc ở nhiều vùng khác nhau như Nghệ An, Tây Nguyên, Lâm Đồng, Thanh Hoá, Tam Đảo ( Vĩnh Phúc), Đại Từ (Thái Nguyên) . . . Mặt hàng này ngày càng ít đi do khai thác ở các mỏ giảm dần, hoặc chủ sở hữu ở các mỏ có quyền tự xuất khẩu đây là nguyên nhân chính mà Công ty xuất khẩu giảm dần. Bên cạnh cạnh mặt hàng thiếc thì quặng sắt cũng được coi là mặt hàng chủ lực. Khi thiếc có xu hướng giảm thì quặng sắt lại tăng lên qua các năm và chiếm một tỷ trọng rất cao (cao hơn cả thiếc). Năm 2002 tăng gần gấp đôi so với năm 1999 và có thể khẳng định mặt hàng này tiếp tục có xu hướng phát triển hơn. Một sự giảm sút rõ rệt là quặng Cromit từ 250.230 (1,6%) năm 1999 xuống còn 105.045 (1.32&) năm 2001 và sang năm 2002 thì không còn xuất khẩu nữa do lượng khai thác loại quặng này ngày càng ít đi và Công ty không thể tìm được nguồn hàng đó nữa. Hai mặt hàng thiếc thỏi và quặng sắt đã đem lại hơi 80% lợi nhuận cho Công ty và là mặt hàng chủ lực giúp cho Công ty xác định được ưu thế của mình trên thị trường xuất khẩu khai thác được lợi thế cạnh tranh từ đó trở thành bạn hàng chuyền thống đối với các đối tác nước ngoài đồng thời ngày một mở rộng thị trường hơn nữa . Tóm lại, các mặt hàng mà Công ty tham gia xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô chưa qua chế biến, là những mặt hàng được xếp vào loại quý hiếm của Việt Nam. Tình hình lượng khoáng sản xuất khẩu của Công ty giảm đi có thể quy vào một số nguyên nhân sau : Sau khi có QĐ57/CP của Chính Phủ mở rộng diện tích xuất khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, do vây các đơn vị chế biến đều trực tiếp xuất khẩu hàng hoá của mình mà không cần uỷ thác qua các Công ty thương mại XNK. Tài nguyên khoáng sản tại các vùng mỏ trong nước ngày một cạn kiệt. Các vùng mỏ khác chưa được đánh giá lượng chính xác cho nên dẫn đến ngây rủi ro trong đầu tư xây dựng mỏ vì thế lượng khoáng sản của các mỏ sản xuất ra ngày càng ít đi. Về giá quốc tế mặt hàng thiếc bắt đầu từ cuối năm 2000 giảm liên tục. Có thể tham khảo thị trường thiếc LME Luân Don, là nơi quy định giá quốc tế về kim loại. Từ các nguyên nhân trên đẫn đến tỷ trọng mặt hàng chính thiếc thỏi trong cơ cấu xuất khẩu của Công ty giảm đi cả về số lượng và giá cho nên làm giảm kim ngạch cũng như kết quả kinh doanh của Công ty trong các năm qua. Trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều Công ty cũng tham gia xuất khẩu khoáng sản nện sự cạch tranh diễn ra gay gắt, điều đó có nghĩa là mỗi bên phải chia xẻ một phần thị trường của mình. Chính vì vậy lượng khoáng sản xuất khẩu đi nước ngoài của Việt Nam vẫn tăng nhưng qua Công ty thì có giảm. 1.2 Mặt hàng nhập khẩu Là Công ty thương mại, MIMEXCO tham nhập khẩu tất cả các mặt hàng theo đơn đặt hàng tất nhiên là các mặt hàng đó được Nhà nước cho phép, thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Về mặt hàng tiêu dùng: Công ty nhập khẩu chủ yếu là xe máy từ thị trường Lào, một số phụ tùng xe (xăm lốp, vành. . .), máy bơm nước . . . phục vụ tiêu dùng nội địa. Những năm gần đây nước ta đã tự thay thế hàng nhập khẩu cho nên đối với một số hàng này đã hạn chế được nhiều. Về số công cụ trang thiết bị phục vụ khai thác hàng xuất khẩu ngày càng tăng như: thiết bị tuyển quặng máy thi công, máy súc. . . đó là những mặt hàng chủ lực mà Công ty thường xuyên nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản, Trung Quốc . . . Ngoài ra Công ty còn nhập khẩu một số đồ dùng bảo hộ lao động, dụng cụ đo lường nhiệt độ, vải địa kỹ thuật ... đóng góp một phần không nhỏ cho doanh thu Công ty. Nhìn chung mặt hàng nhập khẩu của Công ty rất đa dạng, nhiều chủng loại nhưng lại không ổn định vì tình hình tài chính của Công ty rất eo hẹp không thể nhập khẩu tại chỗ mà chỉ khi nào thị trường có nhu cầu thì Công ty mới nhập khẩu vì thế mà dễ để lỡ cơ hội kinh doanh. Công ty nên có những biện pháp thiết thực để việc nhập khẩu được ổn định, có chiến lược hơn. Kể từ khi được thành lập, Công ty có quyền nhập khẩu tất cả các trang thiết bị máy móc đạt yêu cầu về kỹ thuật phục vụ cho khoáng sản và cả ngoài ngành khi thị trường trong nước cần đến. Về nhập khẩu trong ngành và ngoài ngành của Công ty được trình bầy trong bảng thống kê sau: Bảng 8: Giá trị nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1999 – 2002 Đơn vị: USD Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Trong ngành 1.121.730 434.768 61.000 343.830 Ngoài ngành 121.830 56.802 14.019 301.010 Tổng 1.243.560 491.570 75.019 644.840 Nguồn: Thống kê hoạt động kinh doanh của Công ty (1999 - 2000) Một điều hiển nhiên thấy rõ là năm 1999 có giá trị nhập khẩu khá cao đạt 1.243560 USD một con số vược bậc cả trong ngành và ngoài ngành. Đến năm 2001 thì giá trị nhập khẩu lại giảm xuống rất nhiều chỉ được ở mức 75019 USD. Điều này một phần cũng do có sự biến động giá cả trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa có thể ít sử dụng hơn. Nhưng trên thực tế mặc dù đã đạt được mức độ cao hay thấp Công ty vẫn cố gắng đạt được một mức ổn định và mang lại doanh thu cao cho Công ty. Xét theo khía cạnh từng mặt hàng thì qua các năm sẽ thể hiện rõ hơn những mặt hàng nào được ưa chuộng và những mặt hàng nào đang hạn chế nhập khẩu. Bảng 9: Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1999 - 2002 Tỷ trọng: % Đơn vị: USD Năm Mặt hàng NK 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kẽm 170.700 12,8 Xemáy Honda 1.120.850 84,3 Suzuki 120CC 111.600 22,7 Suzuki 125CC 200.400 40,77 301.255 46,7 Máy thi công 43.830 53,3 Máyxúcbánh lốp 61.000 81.3 Tuyển ôtô 14.019 18,7 Thiết bị thuỷ điện 122.768 24,97 Thiết bị tuyển quặng 56.802 11,56 Vải địa kỹ thuật 10.483 0.8 Quặng nhôm 26.400 2.1 Tổng 1.328.430 100 481.570 100 75.019 100 645.085 100 Nguồn: Tài liệu thống kê hoạt động kinh của Công ty (1999 - 2002). Có thể đánh giá một số nhận định về các mặt hàng nhập khẩu của Công ty như sau : Năm 1999 Do nhu cầu của người tiêu dùng cao nên Công ty nhập khẩu chủ yếu là xe máy Honda chiếm 84.3% đáp ứng được một phần không nhỏ cho thị trường nội địa. Về các phụ tùng máy móc thiết bị phục vụ cho việc khai thác các mặt hàng xuất khẩu đã không được nhập trong năm 1999 có thể do nhu cầu chưa cần thiết và giá thành cao chi phí quá lớn mà vốn Công ty có hạn nên đã không ngập khẩu. Năm 2000 Sang năm nay hàng tiêu dùng vẫn được Công ty chú trọng nhập khẩu nhiều nhất nhưng đã giảm tỷ trong so với năm trước và đạt 63,47%. Tuy nhiên một số mặt hàng phục vụ cho khai thác khoáng sản cũng được nhập khẩu như thiết bị thuỷ điên đạt 24,97%, thiết bị tuyển quặng 11,56%. Đây là một bước tiến của Công ty đã nhập được rất nhiều mặt hàng . Năm 2001. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc tăng lên rất nhiều đạt 81,3% co với năm 2000, và phục vụ cho hàng tiêu dùng lại giảm xuống còn 18,7%. Trong năm nằy Công ty chú trọng tới nhập khẩu các máy móc thiết bị phục vụ cho ngành khoáng sản, mặc dù tổng giá trị nhập khẩu lại giảm xuống ( đạt 75019 USD) chỉ bằng 5,56 lần so với năm 1999. Năm 2002 Vẫn ưu tiên nhập khẩu máy móc nhưng lại giảm chỉ chiếm ở mức 53,3%. Qua các năm 1999 - 2002 Công ty nhập khẩu khá nhiều mặt hàng nhưng lại không đồng đều qua các năm: như năm 1999, 2000 chủ yếu nhập khẩu mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng nhưng đến năm 2001, 2002 thì lại nhập nhiều hàng phục vụ khai thác các sản phẩm xuất khẩu. Nguyên nhân do hai năm gần đây trong nước tự sản xuất được nên thay thế mặt hàng nhập khẩu (với hàng tiêu dùng). Đất nước càng đẩy mạnh công nghiệp hoá thì nhu cầu về thiết bị hiện đại để phục vụ công nghiệp hoá ngày càng tăng, lắm bắt được tình hình đó Công ty đã quyết định chú trọng vào loại sản phẩm này, dựa trên nguyên tắc nhập đúng chất lượng sản phẩm yêu cầu, chánh tình trạng nhập những trang thiết bị quá cũ gây lãng phí cho Nhà nước. Nếu xét tổng gía trị sản phẩm nhập khẩu thì lại không tăng qua các năm đặc biệt năm 2001 lại giảm mạnh cũng có thể do thị trường nhập khẩu biến động trong các năm qua (1999 - 2002) tình hình xuất nhập khẩu của Công ty giảm sút đi rất nhiều đặc biệt là vào năm 2001. Điều này cũng không thể tránh khỏi do có những thay đổi trong nước. Việt Nam ngày càng thúc đẩy quan hệ hợp tác, mở cửa nền kinh tế thông thoáng hơn đây được coi vừa là cơ hội hừa là khó khăn cho Công ty. Trước những khó khăn trên mà điển hình là QĐ 57/CP của chính phủ ban hành với nội dung cho không cho phép các doanh nghiệp không có mỏ được phép xuất khẩu trực tiếp. Trước tình hình đó doanh nghiệp đã chuyển hướng kinh doanh chú trọng sang kĩnh vực đấu thầu cung cấp các trang thiết bị cho các dự án xây dựng và cải tạo nhà máy. Đặc biệt đã mở rộng các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu để phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cho ngành công nghiệp khai thác mở rộng trên lĩnh vực kinh doanh mới, không ngừng nâng cao uy tín với khách hàng. Một điều đặc biệt nữa là Công ty đã tham gia đấu thầu một số công trình kỹ thuật cao như một số dự án sau: Dự án nghiền siêu mịn: với quy mô thuộc nhóm C, Tổng giá trị dự án 20 tỷ VNĐ. Lĩnh vực chế biến khoáng sản tạo ra các sản phẩm dùng trong công nghệ gạch men không nung. Công nghệ chế biến giấy: Giá trọn thầu là 15,7 tỷ VNĐ (cung cấp thiết bị và công nghệ). Dự án xây dựng lò cao luyện gang (23m3) cũng thuộc dự án nhóm C, tổng trị giá dự án là 21 tỷ VNĐ với lĩnh vực như sau: luyện kim (trong đó luyên quạng sắt tạo ra sản phẩm gang đúc. Trị giá 12 tỷ VNĐ, công ty nhận cung cấp thiết bị và công nghệ, thi công xây lắp). Dự án lò luyện thép: quy mô thuộc dự án nhóm C, tổng trị giá dự án 1,5 tỷ VNĐ (cung cấp thiết bị và công nghệ). Chuyên sản xuất ra các loại thép (phi to, vừa, nhỏ). Dự án cung cấp thiêt bị vận tải và thiết bị thi công: tổng trị giá là 3,2 tỷ VNĐ. Lĩnh vực vận tải và thi công mỏ với trị giá 2,5 tỷ VNĐ (cung cấp thiêt bị). Ngoài ra Công ty còn làm dịch vụ cho nước ngoài (nhận làm đại lý). Công ty nhận thay mặt bên nước ngoài kiểm tra chất lượng, giám sát quá trình thanh toán, giao nhận. Tuy nhiên, bước đầu tham gia vào đấu thầu gặp rất nhiều khó khăn nện lượng dự án còn thấp, giá trị gói thầu không cao, sự hạn chế này không thể tránh khỏi do MIMEXCO là một Công ty kinh doanh thương mại không có sản xuất nên việc tiếp cận tìm hiểu công nghệ sản xuất cung cấp cho các dự án khá khó khăn. Bên cạnh đó một số dự án đã không thể thực hiện được, hoặc triển khai chậm do chủ yếu là chủ đầu tư không có năng lực tài chính, điều này đã gây tổn thất cho Công ty. 2. Thị trường xuất nhập khẩu Đối với bất kỳ công ty kinh doanh XNK nào thì thị trường là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. Nhận biết được tầm quan trọng của thị trường và cùng với sự chuyển biến tích cực của hoạt động XNK Việt Nam, công ty MIMEXCO đã đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ làm ăn lâu dài với nhiều khách hàng trên nhiều nước khác nhau. Ngoài các thị trường truyền thống, công ty đã chú trọng tìm hiểu và mởi rộng thị trường mới ở hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới. Có thể kể đến thị trường truyển thống của công ty là Malaixia, Trung Quốc, Nhật Bản... Trong tương lai công ty sẽ hướng ra và thâm nhập vào thị trường khu vực Châu á Thái Bình Dương và khu vực ASEAN. Việc đa dạng hoá thị trường giúp công ty tránh được rủi ro do yếu tố kinh tế chính trị văn hoá biến động đồng thời tận dụng được các thông tin mới nhất về giá cả, thị trường, tăng khách hàng cho sản phẩm của mình. 2.1 Về thị trường xuất khẩu, Ta có thể thấy rõ qua bảng số liệu sau: Bảng 10: Giá trị xuất khẩu trên các thị trường giai đoạn 1999 - 2002 Tỷ trọng : % Đơn vị: USD Năm Thị trường 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Malaysia 3.045.589 32,2 3.057.697 45,15 3.931.380 48,68 2.235.260 46,72 TrungQuôc 3.917.300 41,4 3.382.971 49,95 4.027.215 49,86 2.548.740 53,28 NhậtBản 118.776 1,26 129.293 1,91 UK 111.281 1,64 58.781 0,728 Germany 59.014 0,732 Lào 1.429.366 15,1 Hà Lan 91.261 1,35 HồngKông 103.439 1,09 Anh 320.110 3,38 Nga 317.472 3,38 ý 206.344 2,2 Tổng 9.458.405 100 6.772.504 100 8.076.390 100 4.784.000 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động XNK các năm 1999 – 2002 Bảng trên cho thấy, thị trường xuất khẩu của công ty tập trung chủ yếu ở khu vực Châu á Thái Bình Dương. Đặc biệt tập trung ở hai thị trường Trung Quốc và Malaixia. Từ năm 1999 đến 2002 hai thị trường này luôn chiếm tỷ trọng cao và tăng dần qua các năm. Tại Malaixia năm 1999 chiếm 32,2% nhưng đến năm 2001 đạt 49,55%. Tuy nhiên việc xuất khẩu sang thị trường này biến động không đều đó là năm 2002 chỉ chiếm 46,72% thấp hơn so với năm 2001 các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là Thiếc thỏi 99,75% chiếm trên 50% tổng kim ngạch. Tại Trung Quốc việc xuất khẩu sang thị trường này tăng đều qua các năm từ 41,4% ( năm 1999) lên 53,28% năm 2002. Thị trương này tiêu thụ chủ yếu hàng của công ty là quặng Cromite, quặng sắt, quặng Mangan. Có thể thấy rằng hai thị trường này tương đối ổn định qua các năm và là thị trường truyền thống của Công ty chiếm trên 80% kim ngạch xuất nhập khẩu và các mặt hàng truyền thống. Bên cạnh hai thị trường lớn, công ty còn xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản, UK, Anh, Nga... Tuy tỷ trọng không lớn nhưng cũng là những thị trường có triển vọng lâu dài và đem lại mức doanh thu cao. Nhìn chung năm 1999 là năm mà công ty phát huy đưa tối đa lợi thế thị trường, mặt hàng của công ty đã thâm nhập tới cả thị trường Anh, ý, Nga... làm mức doanh thu tăng trên 9 ngàn USD. Bước sang năm 2002 thì không còn được đa dạng nữa do thiếu hàng hoá hoặc thị trường này không ưu chuộng mặt hàng xuất khẩu nữa do họ tự cung tự cấp được. Trong tương lai, công ty vấn tiếp tục chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu nhiều hơn cùng tham gia vào khu vực toàn câù hoá. 2.2 Về thị trường nhập khẩu. Bảng 11: Thị trường NK của công ty các năm 1999 - 2002. Đơn vị: USD Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng TrungQuốc 26.400 2.18 179.570 36,53 14.019 18,69 80.350 12,46 Korea 81.000 81,31 Lào 1.174.850 96,96 312.000 63,47 165.000 25,58 Thái Lan 10.483 0,86 55.660 8,63 Nhật Bản 343.830 53,33 Tổng 1.211.733 100 491.570 100 75.019 100 644.840 100 Nguồn: Báo cáo hoạt động XNK của Công ty các năm 1999 - 2002 So với thị trường XK thì thị trường nhập khẩu của công ty chủ yếu được giới hạn trong phạm vi một số nước Châu á, Trung Quốc vẫn là thị trường chủ yếu cho công ty vừa XK vừa NK. Năm 1999 là năm đánh dấu sự không ngừng của việc khai thác thị trường Lào. Trên thị trương này tỷ trọng NK chiếm 96.96% tổng kim ngạch NK tương ứng với 1174850 USD. Sang đến năm 2000 và 2002 thì tỷ trọng lại giảm xuống đặc biệt năm 2002 chỉ chiếm 25,58% bằng 26,38% so với năm 1999. Thị trường Trung Quốc tuy NK đều qua các năm nhưng tỷ trọng biến động không đều, cao nhất là vào năm 2000 đạt được 36,53%. Ngoài hai thị trường trên còn có thị trường Korea, Thái Lan là hai thị trường phát triển có hệ thống công nghệ cao nên cùng là bạn hàng đối với công ty trong quan hệ đối tác lâu dài vào năm 2002 xuất hiện thêm thị trường NK Nhật Bản chiếm tỷ trọng 53,33% trong tổng kim ngạch NK. Đây là một bước phát triển lớn trong mối quan hệ bạn hàng cũng chính vì điều đó mà tổng giá trị NK năm 2002 đã tăng lên rất nhiều so với năm 2000, 2001 cụ thể bằng 1,3 lần so với năm 2000; 8,6 lần so với năm 2001. Bất kỳ Công ty kinh doanh nào thì yếu tố đầu ra là rất quan trọng, đó là thị trường nơi diễn ra trao đổi mua bán tiêu thụ hàng hoá. Tuy mới thành lập nhưng phạm vi hoạt động của Công ty rất rộng lớn do có sự tìm hiểu, phân tích thâm nhập thông qua thông tin thu thập được và qua sự giới thiệu môi giới của các bạn hàng truyền thống. Thị trường chủ yếu của Công ty là thị trường Châu á - Thái Bình Dương trong đó nổi bật là một số thị trrường như: Malayxia, Trung Quốc, Lào, Nhật Bản, Thái Lan . Đó là thị trường truyền thống có mức tiêu thụ khá cáo. Khách hàng ở thị trường này rất ổn định và có độ tin cậy cao tạo nên sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong tương lai Công ty từng bước thâm nhập vào một số thị trường Châu Mỹ, EU để phân tán rủi ro khi có sự khủng hoảng ở một thị rường nào đó, đây là bài học được rút ra từ bài học của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á - Thái Bình Dương, đồng thời có sự lựa chọn đối tác thích hợp sao cho có hiệu quả nhất. Có thể nói rằng thị trường tiêu thụ của Công ty khá rộng có mối quan hệ mật thiết với hơn 10 Công ty ở các quốc gia khác nhau tạo thế vững chắc và ổn định cho việc xuất khẩu hàng hoá, đồng thời có thể nhập khẩu từ thị trường đó những trang thiết bị hiện đại phục vu cho công cuộc khai khoáng, xây dựng tiêu dùng trong nước. Đối với thị trường xuất khẩu chủ yếu là Malayxia, Trung Quốc hàng năm xuất khẩu sang thị trường này từ 500 - 800 MT thiếc thỏi và quặng sắt. ngoài ra còn có thị trường Nhật Bản, Hà Lan . . . hàng năm tiêu thụ từ 200 - 3000MT. Về thị trưòng nhập khẩu tập trung chủ yếu là Lào, Nhật Bản, Trung Quốc . . . Hàng năm trung bình đạt trên 75000 USD cải thiện cán cân XNK đồng thời thu được một khoản lợi nhuận khá lớn và phục vụ tốt hơn trong việc khai thác khoáng sản. Có thể nói thị trường hoạt động của Công ty khá rộng và tương đối ổn định đặc biệt là thị trường đầu ra (thị trường xuất khẩu) trong quá trình kinh doanh XNK của Công ty từ đó tạo sự ổn định về doanh thu và số lượng hàng hoá bán ra hàng năm. III. Vài nét đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty MIMEXCO. Hiệu quả kinh doanh thể hiện qua doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả sử dụng vốn... MIMEXCO là công ty XNK thương mại thì chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh được thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản được đánh giá là mức độ thành công của công ty. 1. Cách tính lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh XNK Để biết được chính xác lợi nhuận mà công ty đạt được ta phải có đầy đủ các chi phí được cho là hợp lý hợp lệ. Ta có: 1.1 Lợi Nhuận Trước Thuế = SDT - SCF a) SDT: Tổng doanh thu từ hoạt động XNK với: Xuất khẩu: Là toàn bộ giá trị hợp đồng đã ký. Nhập khẩu: Là doanh thu từ việc bán hàng NK. b) SCF: Tổng chi phí bao gồm Gía vốn hàng hoá Khấu hao tài sản cố định Thuế XK hoặc NK, thuế VAT, thuế môn bài, thuế khác. Lệ phí hải quan, bảo hiểm, cảng bốc, cảng dỡ. Chi phí quản lý bán hàng, tiền lương tiền công. Chi phí bốc xếp, vận chuyển, lưu kho, bảo quản, đóng gói. Cước thuê tàu Một số chi phí hợp lý hợp lệ khác. 1.2 Lợi nhuận ròng (Lợi nhuận sau thuế) (LNR) LNR = (1 - Thuế suất) x LNTT LNTT: Lợi nhuận trước thuế 2. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh XNK Để biết được công ty kinh doanh có hiệu quả hay không phải dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận. Nếu tổng doanh thu lớn hơn tổng chi phí thì kinh doanh đạt hiệu quả, ngược lại công ty đã làm ăn thua lỗ. Với công ty MI

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0090.doc
Tài liệu liên quan