Đề tài Những vấn đề chính của chính sách tiền tệ

MỤC LỤC

 

I. KHÁI QUÁT CHUNG 1

II. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH 3

1. Tìm hiểu khái quát về tiền tệ 3

2. Các hình thái tiền tệ 7

3. Các chức năng của tiền tệ 11

4. Cầu tiền tệ 15

5. Mức cung tiền tệ 17

6. Tác động của tiền tệ đối với hoạt động kinh tế 19

7. Cân bằng trên thị trường tiền tệ 22

8. Tìm hiểu khái quát về ngân hàng 24

9. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương 29

10. Phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ 36

11. Chính sách tiền tệ 2010 minh bạch và ổn định 37

 Bài học 2009 38

 Hướng tới 2010 và những năm tiếp theo 40

III. KẾT LUẬN 42

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề chính của chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y thuộc vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng hàng hóa mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy, để tiền thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. Phương tiện thanh toán Trong một nền kinh tế không có một chuẩn mực đo giá trị chung (thí dụ như là tiền) thì một giao dịch thành công giữa 2 vật trong kinh tế đòi hỏi các nhu cầu trao đổi phải phù hợp với nhau. Một thí dụ: Một người nông dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ. Một thợ thủ công muốn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa 2 người này sẽ không bao giờ có một cuộc mua bán trao đổi vì ý định bán của người nông dân không phù hợp với ý định mua của người thợ thủ công. Cả hai người có thể phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một người có ý định giao dịch phù hợp. Cùng với tiền quá trình này được đơn giản hóa đi rất nhiều: Người nông dân có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được dể đổi lấy dụng cụ tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền thu được mua thịt tại một người thứ tư. Tiền tệ thế giới Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội. CTóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cầu tiền tệ Việc nghiên cứa cầu tiền tệ luôn được nhà kinh tế quan tâm, và nó có thể cho những gợi ý về hoạch định chính sách của những người chịu trách nhiệm điều hành nền kinh tế. Các loại tài sản tài chính Tài sản giao dịch (thanh khoản) không tạo ra thu nhập, nhưng được dùng để thanh toán khi mua hàng hóa và dịch vụ… Các tài sản tài chính khác tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm…) nhưng không thể dùng trực tiếp để mua hàng hóa. Hầu hết các hộ gia đình và doanh nghiệp giữ của cải của họ dưới dạng kết hợp cà 2 loại tài sản này. Trong phần này, mọi tài sản giao dịch được gọi là tiền và mọi tài sản khác có thu nhập được gọi chung là trái phiếu. Mức cầu về tiền Khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và kinh doanh sản xuất…gọi là mức cầu về tiền (giao dịch). Khi giá cả tăng lên, mức cầu về tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua đủ khối lượng hàng hóa cần thiết đã dự định, như vậy, thực chất của mức cầu tiền tệ là cầu về cán cân tiền tệ thực tế. Mứa cầu tềin thực tế phụ thuộc vào hai nhân tố: Thu nhập thực tế: con người giữ một phần tài sản ở dạng tiền để có thể mua được hàng hóa, dịch vụ. Khi thu nhập tăng, tiêu dùng cũng sẽ tăng và theo đó cầu tiền củng tăng lên. Lãi suất: chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền và thu nhập từ lãi suất mà các tài sản có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất chính là chi phí cơ hội củ việc giữ tiền. Quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi là hàm cầu về tiền (hàm ưa thích tiền thanh khoản). Hàm này có dạng: LP = kY – hi Trong đó: LP: mức cầu về tiền thực tế Y: thu nhập i : lãi suất k,h : các hệ số phản ánh dộ nhạy cảm của mưc cầu tiền đối với thu nhập và lãi suất. Mức cầu tài sản Mức cầu về tài sản là mức cầu các loại tài sản chính có sinh lợi dưới dạng trái phiếu. Các loại trái phiếu tuy sinh lợi nhưng chịu nhiều rủi ro, vì giá cả của chúng được quyết định trên thị trường, khó dự báo trước. Giữ tiền không tạo ra lãi, nhưng không bị rủi ro trừ trường hợp gặp lạm phát. Nhiều người chỉ định giảm mức rủi ro của họ bằng cách đa dạng hóa các dạng tài sản vừa để tài sản ở dạng tiền, vừa để ở dạng trái phiếu. Vì vậy, trong thực tế có thể có sự chuyển hóa mức cầu từ trái phiếu sang tiền hoặc ngược lại. Mức cung tiền tệ Để cung ứng cho nhu cầu sử dụng tiền tệ trong nền kinh tế, một số tổ chức như NHTƯ, các ngân hàng thương mại cung ứng tiền ra lưa thông. Cung ứng tiền của Ngân hàng Trung ương NHTƯ phát hành tiền mặt chủ yếu dưới hình thức giấy bạc ngân hàng. Quá trình này được thực hiện khi NHTƯ cho vay đối với các tổ chức tín dụng, cho vay đối với kho bạc Nhà nước, mua vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối hoặc mua chính khoáng trong nghiệp vụ thị trường mở khối lượng tiền phát hành của NHTƯ được gọi là tiền mặt hay cơ số tiền (MB) bao gồm hai bộ phận: tiền mặt trong lưa hành (C) và tiền dự trữ của các ngân hàng kinh doanh (R) trong đó chỉ có bộ phận tiền mặt ngoài ngân hàng mới được sữ dụng, đáp ứng cho nhu cầu về tiền. Cung ứng tiền của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác tạo tiền chuyển khoản (D) theo cơ chế tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Khối lượng tiền do các tổ chức này cung ứng được tạo ra trên cơ sở lượng tiền dự trữ nhận từ NHTƯ và các hoạt động nhận tiền gửi cho vay và thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống ngân hàng. Khi NHTƯ phát hành tiền đưa vào hệ thống ngân hàng, các ngân hàng thương mại sử dụng số tiền dự trữ này để cho vay. Khi các doanh nghiệp hoặc dân cư vay khoản tiền đó nó được sử dụng để thanh toán chi trả và có thể một phần hoặc toàn bộ được kí gửi trở vào một ngân hàng với hinh thức tiền gửi không kì hạn,ngân hàng lại tiếp tục có vốn để cho vay. Như vậy, từ lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng thông qua các hoạt động của mình có thể làm hình thành lượng tiền gửi không kì hạn rất lớn. số tiền này được các doanh nghiệp, dân cư sữ dụng để thanh toán qua ngân hàng, vì vậy nó được tính là một bộ phận của khối tiền giao dịch trong nền kinh tế, được sữ dụng để đáp ứng nhu cầu về tiền. Mức cung tiền tệ Khối lượng tiền giao dịch do NHTƯ và các tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đáp ứng cho nhu cầu sữ dụng tiền bao gồm hai bộ phận chính là tiền mặt trong lưa hành (C) và tiền gửi không kì hạn (D) . Tiền dự trữ của các ngân hàng kinh doanh (R). NHTƯ với chứa năng là ngân hàng phát hành thực hiện viện kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế nhằm đảm bảo sự ổn định thị trường, nó trực tiếp điều chỉnh khối lượng tiền mặt đang tồn tại và kiểm soát gián tiếp việc tạo ra các khoản tiền gửi không kì hạn của các ngân hàng thương mại. Toàn bộ khối lượng tiền cung ứng được xác định theo hệ số tạo tiền so với lượng tiền cơ bản do NHTƯ phát hành theo công thức : MS = MB.m Trong đó: MS : mức cung tiền giao dịch MB: cơ số tiền m : hệ số tạo tiền m= (1 + C/D)/ (rD + rE + C/D) Với : C/D: Tỉ lệ tiền mặt trong lưa hành so với tiền gửi không kì hạn rD :Tỉ lệ dự trữ bắt buộc rE : Tỉ lệ dự trữ dư thừa của các NHTM Mặc dù có rất nhiều chủ thể có tác động tới mức cung ứng tiền nhưng NHTƯ vẩn có thể sữ dụng các công cụ của mình để điều chỉnh mức cung tiền theo ý muốn chủ quan để thực hiện chính sách tiền tệ. Tác động của tiền tệ đối với hoạt động kinh tế Sự phân tích cung cầu tiền tệ cho thấy, trong cơ chế thị trường bất kì sự thay đổi nào của mức cung tiền tệ cũng sẽ được thị trường điều tiết để có sự cân đối giữa mức cung tiền tệ và mức cầu tiền tệ. Sự điều chỉnh đó không chỉ đơn thuần gây ra những thay đổi trong mức giá chung mà còn có tác động tới nhiều hoạt động của nền kinh tế. Để thấy rõ hơn vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế, chúng ta đi vào xem xét tác động của tiền tệ tới các hoạt động kinh tế. Theo mô hình tổng cung-tổng cầu (AD - AS), sự thay đổi của AD dẩn đến sự thay đổi của sản lượng và giá cả. Khi tổng cầu tăng sẽ làm tăng sản lượng và mức giá cả, ngược lai việc giảm AD có thể dẩn tới sự sụt giảm sản lượng và làm lạm phát giảm. Sự tác động của tiền tệ tới hoạt động kinh tế được thể hiện thông qua sự tác động tới các bộ phận của tổng cầu bao gồm những tác động tới chi tiêu đầu tư, chi tiêu tiêu dùng và buôn bán quốc tế. Chi tiêu đầu tư Sự thay đổi của Ms tác động tới I thông qua: - Chi phí đầu tư. Việc thu hẹp của mức cung tiền tệ của NHTƯ (Ngân hàng Trung ương) sẽ đẩy lãi suất tăng lên, chi phí tài trợ cho các hoạt động đầu tư có thể tăng lên dẩn tới giảm lượng đầu tư, AD suy giảm làm giảm sản lượng và giá cả. Ngược lại khi NHTƯ mở rộng tiền tệ, lãi suất cân bằng của thị trường giảm đi, chi phí đầu tư rẻ hơn có thể mở rộng đầu tư, tổng cầu tăng làm tăng sản lượng và giá cả. Tuy nhiên lãi suất không thể đại diện đầy đủ cho chi phí đầu tư nên những tác động này có thể không rỏ ràng. - Sự sẳn có của các nguồn vốn Khi chính sách tiền tệ là thắt chặt, mức cung tiền giảm, mặc dù lãi suất có thể thay đổi rất ít nhưng khả năng cho vay của các ngân hàng có thể giảm (rD tăng). Việc hạn chế tín dụng của các ngân hàng thương mại làm cho chi tiêu đầu tư giảm xuống dẩn tới AD giảm. Khi NHTƯ mở rộng tiền tệ, có thể làm tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại, làm cho chi tiêu đầu tư tăng lên. Sự tác động này được thể hiện rỏ ở sơ đồ: Ms ↑ → khả năng cho vay ↑ → I ↑ → AD ↑ → thu nhập và giá cả ↑ Tuy nhiên khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại được mở rộng không đồng nghĩa với việc nguồn vốn này sẽ được tận dụng ngay, nó còn tùy thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Việc hạn chế khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng có tác dụng tốt hay không còn tùy thuộc gới hạn của viẽc kiểm soát vốn quốc tế. Ngoài ra, sự thay đổi của cung tiền tệ có tác dụng đến giá cổ phiếu, khi dân chúng giữ nhiều tiền hơn họ muốn chẳng hạn, chi tiêu vào thị trường cổ phiếu có thể tăng lên làm tăng giá cổ phiếu. Giá trị ròng của các hãng tăng lên có nghĩa là những người cho vay sẽ được đảm bảo nhìêu hơn cho các khoản vay của mình, như vậy khuyến khích cho vay để tài trợ cho chi tiêu đầu tư, tổng cầu tăng thúc đẩy sự gia tăng sản lượng và giá cả. Chi tiêu tiêu dùng - Ảnh hưởng đối với lãi suất Do chi tiêu tiêu dùng hàng ngày lâu bền thường được tài trợ một phần bằng đi vay, do vậy lãi suất thấp hơn sẽ khuyến khích người tiêu dùng tăng chi tiêu tiêu dùng lâu bền. Sự ảnh hưởng của tiền tệ đối với tổng cầu như sau: M ↑ → I ↓ → chi tiêu dùng lâu bền ↑ → AD ↑ → thu nhập và giá cả ↑ Cũng tương tự như đối với ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư, sự ảnh hưởng của lãi suất đến chi tiêu tiêu dùng lâu bền có thể là nhỏ. - Ảnh hưởng tới thị trường cổ phiếu Chi tiêu tiêu dùng cho hàng hóa lâu bền và dịch vụ của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập cả đời của họ chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại. Khi giá cổ phiếu tăng lên, giá trị tài sản tài chính tăng lên làm thu nhập cả đời của người tiêu dùng và tiêu dùng sẽ tăng lên. Cơ chế tác động này như sau: M ↑→ giá cổ phiếu ↑→ thu nhập cả đời ↑→ tiêu dùng ↑→ AD ↑→Y,P ↑ Mặt khác, khi giá cổ phiếu tăng, giá trị tài sản tài chính tăng, người tiêu dùng có khả năng tài chính đảm bảo hơn sẽ đánh giá những khó khăn tài chính ít xảy ra hơn. Việc chi tiêu về hàng hóa lâu bền của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi những khó khăn tài chính có thể xảy ra trong tương lai. Khi những khó khăn này xảy ra, họ sẽ phải bán các tài sản của mình để tăng thên tiền mặt, việc bán các tài sản tài chính như cổ phiếu sẽ thuận lợi cho việc bán các hàng hóa tiêu dùng lâu bền như vật dụng tiêu dùng, phương tiện đi lại, nhà ở…Do vậy, giá cổ phiếu tăng có thể khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn cho hàng tiêu dùng lâu bền. Cơ chế tác động sẽ là: M ↑→ giá cổ phiếu ↑→ giá trị tài sản tài chính ↑→ khả năng khó khăn tài chính ↓ → chi tiêu nhà ở, hàng tiêu dùng lâu bền ↑→ AD ↑→ Y,P ↑ Xuất khẩu ròng Trong bối cảnh nền kinh tế mở của các quốc gia và việc áp dụng chế độ tỉ giá thả nổi, sự ảnh hưởng này thông qua tác động vào tỉ giá hối đoái. Khi lãi suất trong nước giảm (lạm phát chưa thay đổi) tiền gửi bằng nội tệ sẽ hấp dẫn hơn so với tiền gửi ngoại tệ, kết quả là nhu cầu về ngoại tệ cao hơn so với nội tệ làm cho giá đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ và làm cho hàng hóa nội địa rẻ hơn so với hàng ngoại, xuất khẩu ròng tăng lên vì vậy tổng cầu tăng lên. C Như vậy: Sự thay đổi của mức cung tiền tệ có tác động tới các hoạt động kinh tế thông qua các tác động tới những bộ phận của tổng cầu như chi tiêu đầu tư, chi tiêu tiêu dùng, xuất khẩu ròng. Tuy nhiên, sự tác động này mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào sự phản ứng của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển và linh hoạt thì chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn. Trong trường hợp nền kinh tế trì truệ, các nguồn tài chính được tạo ra có thể không được tận dụng đầy đủ và chính sách tiền tệ ít có hiệu quả hơn. Cân bằng trên thị trường tiền tệ Công cụ để phân tích là đường cung và đường cầu về tiền. Đường cung tiền là đường thẳng đứng (cung cố định) trên cơ sở cho rằng NHTƯ sữ dụng các công cụ của nó đã cung ứng cho thị trường một sức cung tiền theo dự kiến. Đó là khối lượng tiền xác định cho mọi mức lãi suất i (với giả định cho rằng giá cả không thay đổi nên lãi suất danh nghĩa cũng chính là lãi suất thực tế của nó). Đường cầu về tiền là đường dốc nghiên đi xuống, biến thiên giãm theo lãi suất. I MS Io E Lp M Cân bằng của thị trường tiền Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định lãi suất cân bằng gọi là lãi suất thị trường. Đó là giao điểm E. E là điểm cân bằng của thị trường tiền. Tại mức lãi suất cân bằng Io mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung tiền. Ở mức lãi suất thấp hơn Io sẽ có mức dư cung trái phiếu tương ứng làm cho giá trái phiếu giảm xuống, lợi tức trái phiếu tăng lên và đẩy lãi suất thị trường lên tới Io . Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng của thị trường tiền tệ. Khi NHTƯ tác động đến mức cung tiền, giả sữ là bán trái phiếu hoặc tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc dẩn đến lượng cung tiền giảm xuống. Việc kiểm soát tiền tệ trong thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô thật không đơn giản. Có hai cánh kiểm soát, hoặc là kiễm soát mức cung tiền thì lãi suất thị trường sẽ giãm xuống bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát lãi suất (ổn định lãi suất) thì buộc phải để lực lượng thị trường quyết định mức cung tiền. Cả hai cách điều gặp những khó khăn nhất định như kiểm soát lượng tiền cơ sỡ (H) thì vấp phải vấn đề hạn chế tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động NHTM và các hoạt động giao dịch, khi kiểm soát lãi suất lại gặp khó khăn trong nhận biết chính xác đường cầu tiền và sự dịch chuyển của nó… Việc lựa chọn kiểm soát mức cung tiền hay kiểm soát lãi suất tùy thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi nước. Tìm hiểu khái quát về ngân hàng Hệ thống ngân hàng nước ta là hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó ngân hàng nhà nước làm nhiệm vụ của NHTƯ, còn các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng hoạt động như là các ngân hàng trung gian thực hiện chức năng kinh doanh. Ngân hàng Trung ương Ngân hàng thương mại Ngân hàng Trung ương à Định nghĩa Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ. à Bản chất của NHTƯ Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành, là nơi tập trung các quyền lực của nhiều ngân hàng vào một ngân hàng, là một bộ máy quyền lực to lớn có khả năng chi phối cả về mặt kinh tế và chính trị trong nước. Ngân hàng Trung ương dù được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: ngân hàng nhà nước, ngân hàng quốc gia, ngân hàng dự trữ, …nhưng điều thể hiện là một trung tâm tài chính tiền tệ lớn của quốc gia, đóng vai trò rất lớn trong hệ thống tín dụng và ngân hàng ở các nước. à Chức năng của NHTƯ Phát hành tiền tệ Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự Trữ Liên Bang./ Ngân hàng của các tổ chức tín dụng Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất. Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường. Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh). Ngân hàng của Chính phủ Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm. Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chinh phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối Ngân hàng thương mại (NHTM) à Định nghĩa Ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiển gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. à Chức năng của ngân hàng thương mại Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…). Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay. Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại  trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng. Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt. Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh tóan trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau: Tên các ngân hàng Tiền gửi mới Thanh toán cho vay mới       Dự trữ bắt buộc Ngân hàng A 1.000.000   900.000  100.000       Ngân hàng B       900.000     810.000    90.000       Ngân hàng C       810.000      729.000      81.000 ... ... ... Tiền toàn hệ thống ngân hàng        10.000.000   9.000.000 1.000.000 Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.  Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng Đây là chức năng đặc trưng của NHTM, nó có ýa nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thực hiện chức năng này, NHTM đã huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rổi của các tổ chức kinh tế, cơ quan, đoàn thể, tiền tiết kiệm của dân cư,… và sữ dụng cho vay nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng có điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp, nên có thể thực hiện thêm một số dịch vụ khác kèm theo như: tư vấn tài chính, đầu tư, giữ hộ giấy tờ, chứng khoán, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp, …để được hưởng hoa hồng, sẽ vừa tiết kiệm được chi phí, vừa đạt hiệu quả cao. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Vai trò của NHTƯ trong điều tiết vĩ mô Điều tiết khối lượng tiền trong lưa thông cho phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế. Ngân hàng Trung ương giữ vai trò quyết định khối lượng tiền trong lưa thông qua các công cụ của nó như chính sách về lãi suất, về dự trữ pháp định nhằm đảm bảo khối lượng tiền trong lưa thông đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế. Ổn định đồng tiền nội địa Sức mua của đồng tiền chịu tác động từ nhiều phía, cung cầu về tiền tệ, giá vàng, tỉ giá ngoại hối …NHTƯ phải tìm mọi biện pháp để ổn định sức mua của đồng tiền nội đụa nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách kinh tế và quan hệ quốc tế. Ngoài ra, NHTƯ còn can thiệp để ổn định giá vàng và giá ngoại tệ, tạo cơ sở cho ổn định tiền. Điều tiết sản xuất thiết lập cơ cấu kinh tế hợp lí Là việc NHTƯ sữ dụng các biện pháp cần thiết để phân phối tài nguyên của xã hội cho các ngành, lĩnh vực, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng và cân đối thể hiện trên hai mặt: NHTƯ tham gia vào việc xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế, vì vậy ngay từ đầu đã góp phần vào việc hình thành cơ cấu kinh tế. Tham gia thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế qua việc cung cấp tín dụng cho ngành này hoặc hạn chế tín dụng ở một ngành khác để đảm bảo sản xuất ổn định và cân đối Vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng Thể hiện qua việc kiểm soát khối lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng cung cấp cho nền kinh tế , đồng thời củng nắm được khối lượng tín dụng đã và sẽ cung cấp cho nền kinh tế. Chính sách tiền tệ NHTƯ là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, tăng trưởng GNP, giảm thất nghiệp. Tùy đặc điểm kinh tế của mỗi thời kỳ cụ thể, cần phải ưa tiên mục tiêu nào đó. Vì chính sách tiền tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó qua đó tác động đến tổng cung và sản lượng nên việc kiểm soát tiền tệ của NHTƯ tập trung vào một trong hai công cụ chủ yếu: mức cung tiền hoặc lãi suất. Trừ những tình huống đặc biệt (như đang có lạm phát cao …) việc gia tăng cung tiền thực tế sẽ làm tăng sản lượng cân bằng và làm giảm lãi suất cân bằng (chú ý rằng mức cung tiền thực tế vẩn có thể bị suy giảm nhiều ngay cả khi NHTƯ không có tác động nào đến mức cung tiền danh nghĩa). Tring quản lý, chính sách tiền tệ thường phải theo dõi chặt chẽ sự chuyển biến của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ để xác định những biện pháp, chính sách phù hợp. Vd, khi thị trường hàng hóa có sự biến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTaichinh (51).doc
Tài liệu liên quan