Đề tài Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập một thị trường chứng khoán ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU 2

Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TTCK 3

I- TTCK và vai trò của nó. 3

II - Các công cụ của TTCK 5

III- Sở giao dịch chứng khoán 10

Chương II: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TTCK Ở VIỆT NAM 12

 THỰC TRẠNG VÀI GIẢI PHÁP.

1. Về yếu tố con người và bộ máy quản lý TTCK. 12

2. Về hàng hoá của TTCK 13

3. Đổi mới công nghệ quản lí và phát triển các dịch vụ 16

4. Triển khai công tác kiểm toán, kế toán theo thông lệ quốc tế 17

5. Việc trang bị hệ thống thông tin kinh tế 18

6. Về hệ thống pháp luật 19

7. Về tổ chức quản lý của Nhà nước đối với TTCK 20

8. Thành lập các quỹ đầu tư và cải cách hệ thống thanh toán 22

9. Ổn định nền kinh tế vĩ mô và xã hội. 22

10. Tổ chức hệ thống quản lý và môi giới chứng khoán 24

 

KẾT LUẬN 26

 

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập một thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng được hưởng. 3. Các kiểu phát hành cổ phiếu: Có ba kiểu phát hành cổ phiếu: - Phát hành khi mới thành lập công ty: Việc phát hành này nói chung không dễ dàng bởi vì vấn đề chính không phải là các thủ tục mà do công ty mới nói chung chưa đủ uy tín để thu hút cổ đông. - Phát hành để tăng vốn: Đây là hình thức phổ biến nhất trên thị trường phát hành cổ phiếu. Điểm cần lưu ý nhất là khi đưa ra các cổ phiếu mới sẽ ảnh hưởng đến thị giá của các cổ phiếu cũ. Giải pháp này ở đây là cần phải bù đắp chênh lệch giá cho các cổ đông thông qua các “phiếu lợi tức chia thêm” có thể chuyển nhượng được tỷ lệ thuận với số cổ phiếu họ nắm giữ. Thường thì giá của các cổ phiếu mới là thấp hơn giá thị trường. - Phát hành khống: Đây là kiểu phát hành không làm tăng thêm vốn mà công ty thông qua hình thức “phiếu lợi tức chia thêm” cấp không cho các cổ đông của mình các cổ phiếu mới tỷ lệ với số lượng cổ phiếu họ nắm giữ. Các cổ phần mới này được tạo ra từ khoản dự trữ vốn của công ty. Thực chất đây là chuyển đổi bản chất vốn trong tài khoản nợ của công ty theo hướng có lợi cho các cổ đông. III- Sở giao dịch chứng khoán (trung tâm dịch vụ chứng khoán). Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán gắn liền với hoạt động của các trung tâm giao dịch khác như giao dịch tiền tệ, giao dịch hàng hoá.... Sở giao dịch chứng khoán chịu sự giám sát của Chính phủ mà trực tiếp nhất là Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Mỗi Sở giao dịch đều phải có một qui định giao dịch và được Uỷ ban chứng khoán quốc gia chấp nhận. Cơ cấu của sở giao dịch bao gồm: - Hội đồng quản trị - Trung tâm tiếp nhận chứng khoán - Hội đồng môi giới. - Uỷ ban giao dịch và hội đồng trọng tài 1. Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị của Sở giao dịch chứng khoán là do các thành viên chính thức của sở bầu ra trên nguyên tắc bỏ phiếu kín hoặc do Chính phủ cử ra. Số thành viên của hội đồng quản trị tuỳ thuộc vào quy mô của sở giao dịch và ghi trong điều lệ của Sở. Nhiệm vụ của hội đồng quản trị là: - Hướng dẫn của sở giao dịch. - Ban hành quy chế giao dịch. - Ban hành quy chế lệ phí giao dịch. - Chuẩn y tiếp nhận thành viên của Sở. - Xác nhận giá trị giao dịch công khai. - Tiếp nhận chứng khoán và kinh doanh. 2. Trung tâm tiếp nhận chứng khoán: Trung tâm tiếp nhận chứng khoán là nơi quyết định việc thu nhận chứng khoán vào kinh doanh, giao dịch. Trung tâm sẽ xem xét các khía cạnh về mặt pháp lý cũng như kinh tế của các loại chứng khoán nhằm mục đích đưa các loại chứng khoán đó vào danh sách chính thức hay không chính thức hoặc không được phép lưu hành taị Sở giao dịch. 3. Hội đồng môi giới. Hội đồng môi giới có nhiệm vụ đưa ra những quy định về môi giới giá chứng khoán, giám sát hoạt động của những người môi giới chứng khoán, kiểm soát việc định giá công khai và dàn xếp các vụ tranh chấp giữa những người mối giới giá. Có hai loại môi giới là môi giới chính thức và môi giới tự do. - Những người môi giới chính thức thường do Chính phủ chỉ định, những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Họ có nhiệm vụ xác định giá chứng khoán cho ngày giao dịch. - Những người môi giới tự do thường là các thương gia. Họ xác định giá và kinh doanh chứng khoán theo cách tính toán riêng người môi giới tự do có nhiệm vụ xác định giá cho những loại chứng khoán không được tiếp nhận vào sở giao dịch nhưng vẫn được lưu thông tại đó. Người môi giới là người bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và là “chất xúc tác” giúp cho quá trình mua bán diễn ra một cách trôi chảy. 4. Uỷ ban giao dịch và Hội đồng trọng tài. Uỷ ban giao dịch của sở có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các thành viên tham gia Sở giao dịch. Uỷ ban có thể xử lý bằng nhiều hình thức tuỳ theo mức độ vi phạm của các thành viên như phạt tiền, ngừng tham gia một thời gian... Hội đồng trọng tài do hội đồng quản trị của Sở lập ra, có nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh. Chương II Điều kiện hình thành thị trường chứng khoán ở việt nam - thực trạng và giải pháp. Sau gần 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ quản lí kinh tế quan liêu báo cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là về kinh tế. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói như một số nước đang phát triển khác gặp phải, chúng ta đang cố gắng hết sức mình để tìm ra đường lối phát triển kinh tế đúng đắn tránh sa lầy vào “vết xe đổ”như những nước đó. Là một nước nghèo nàn, lạc hậu với nguồn vốn đầu tư quá ít ỏi, chúng ta phải làm gì để tạo được nguồn vốn đủ để cung cấp cho việc phát triển kinh tế? Làm thế nào để hệ thống quản lý vốn hoạt động có hiệu quả? Sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ trả lời những câu hỏi đó. Thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng để hoàn chỉnh cấu trúc của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường, nó tạo cơ hội thuận lợi cho mọi đối tượng trong nền kinh tế thực hiện ý định biến tiết kiệm thành đầu tư. Sự ra đời của TTCK như một chất xúc tác tạo nên mối liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa các trung gian tài chính ở Việt Nam hiện nay và tạo nên những dòng dẫn vốn trực tiếp cũng như gián tiếp không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng ra thế giới. Dưới góc độ của một người sinh viên, qua quá trình tìm hiểu những vấn đề về TTCK và những yếu tố mà Việt Nam đang chuẩn bị cho việc hình thành TTCK, em xin nêu thực trạng và các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa cho việc chuẩn bị đó. 1. Về yếu tố con người và bộ máy quản lý TTCK. Để điều hành hoạt động của TTCK mà trực tiếp là tại Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng như các tổ chức tham gia phát hành, quản lý và môi giới mua bán chứng khoán thì cần phải có một đội ngũ cán bộ thật thông thạo về nghiệp vụ quản lý kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Muốn vậy, chúng ta cần phải xây dựng một kế hoạch đào tạo cụ thể dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ mà trực tiếp là Uỷ ban phụ trách về TTCK do Chính phủ lập ra. Chúng ta cần phải phân loại cụ thể nhiệm vụ, công việc của các cán bộ cũng như nhân viên tại trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc tại các cơ quan quản lý TTCK, tại các ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. Các tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ, khả năng nắm bắt và xử lý thông tin của những người quản lý phải cụ thể, rõ ràng và phù hợp với yêu cầu. Bên cạnh đó cũng cần phải đào tạo các nhân viên cho TTCK thông qua các trường đại học với công việc ban đầu là trang bị các kiến thức sơ đẳng nhất và sau đó là mở rộng và chuyên sâu,đồng thời sử dụng lực lượng này để phổ biến sâu rộng đến các tầng lớp dân cư trong xã hội. Việc đào tạo cán bộ phải tuỳ thuộc vào công việc mà có những hình thức đào tạo cụ thể, tránh việc đào tạo với số lượng quá lớn trong khi chất lượng nghiệp vụ lại non kém. Chúng ta cũng cần phải đào tạo thông qua hình thức gửi đi học tập, huấn luyện ở nước ngoài và mời các chuyên gia kinh tế của nước ngoài tới nước ta để tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo về TTCK và thông qua đó bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thành những chuyên gia lành nghề quản lý và điều hành TTCK có hiệu quả. Thực tế trong thời gian qua cho thấy rằng Nhà nước ta cũng rất quan tâm tới vấn đề chuẩn bị một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực để điều hành TTCK khi nó được thành lập. Tháng 7 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lậpBan chuẩn bị tổ chứcTTCK (gọi tắt là Ban chứng khoán). Ban này có nhiệm vụ soạn thảo nghị định trình lên Chính phủ để phê duyệt việc thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia và qui chế hoạt động của Uỷ ban đó. Đồng thời, được sự tài trợ của một số các tổ chức quốc tế, một số cán bộ của ngành ngân hàng - tài chính và các cơ quan quản lý của Chính phủ đã được gửi đi học tập, nghiên cứu, khảo sát về TTCK ở các nước phát triển. Song thực tế cho thấy việc tạo cán bộ trong lĩnh vực này vẫn còn mang tính chắp vá, chưa thực sự chủ động trong việc chuẩn bị các kiến thức sơ đẳng về TTCK, do vậy chưa đạt được kết quả cao trong việc nắm vững các nội dung và qui định về TTCK. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải chọn đúng đối tượng có trình độ nghiệp vụ tốt, phân công một cách cụ thể, có kế hoạch các công việc cần nghiên cứu và chuyên sâu thì mới đảm bảo được yếu tố con người trong việc thành lập TTCK. TTCK ra đời và hoạt động có hiệu quả hay không cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào những con người - yếu tố chủ thể - tham gia điều hành nó. 2. Về hàng hoá của TTCK Bất kỳ thị trường nào cũng phải có loại hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của thị trường đó, do vậy việc chuẩn bị hàng hoá cho TTCK là nội dung cơ bản có tính chất quyết định đối với việc thành lập TTCK. Quá trình hình thành TTCK đòi hỏi phải song song với nó là quá trình tạo lập và đa dạng hoá các loại chứng khoán để đáp ứng ý định đầu tư và phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Việc đa dạng hoá các loại hàng hoá của TTCK cũng đòi hỏi phải có nhiều công ty cổ phần được hình thành và từng bước đưa chứng khoán của các công ty này vào lưu thông ở những phạm vi và qui mô khác nhau. TTCK sẽ hoạt động có hiệu quả hơn khi các chứng khoán được mua bán tự do theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và được phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Trước đây, ở nước ta đã phát hành các loại tín phiếu kho bạc Nhà nước, kỳ phiếu ngân hàng, cổ phiếu công ty, nhưng các loại chứng khoán này đều là chứng khoán ghi danh và chưa có khả năng chuyển nhượng. Đó là một hạn chế rất lớn. Thời gian gần đây, do nhu cầu cấp bách về việc huy động vốn để phát triển kinh tế, chúng ta đã phát hành chứng khoán với các chủng loại phong phú và đa dạng hơn. Cụ thể là: - Cổ phiếu các doanh nghiệp: Bao gồm cổ phiếu của trên 100 doanh nghiệp cổ phần, trong đó có 52 ngân hàng thương mại cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần với tổng giá trị là 914 tỷ đồng; 2 công ty bảo hiểm và các công ty kinh doanh thương nghiệp với tổng trị giá lên tới 1.000 tỷ đồng. Năm 1994, có 3 doanh nghiệp được cổ phần hoá là: Công ty liên hiệp vận chuyển với tổng giá trị tài sản là 6,2 tỷ đồng; Xí nghiệp cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh với tổng trị giá tài sản là 16 tỷ đồng và nhà máy giấy An Hiệp với tổng trị giá tài sản là 4,7 tỷ đồng. - Các loại trái phiếu: Chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước theo chương trình cổ phần hoá của Nghị định 388/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT và Quyết định 202/CP với chính thức đa dạng hoá các loại chứng khoán của các doanh nghiệp này, chúng ta đã đạt được một số kết quả sau: Trái phiếu nhà máy xi măng Hoàng Thạch phát hành đạt 44,4 tỷ đồng; trái phiếu xây dựng đô thị đường Nguyễn Tất Thành (TP. HCM) phát hành đạt 24,7 tỷ đồng; trái phiếu của ngân hàng đầu tư và phát triển phát hành đạt 200 tỷ đồng và 1 triệu USD; Trái phiếu Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đạt 500 tỷ đồng; trái phiếu Ngân hàng Công thương đạt 200 tỷ đồng. Ngoài ra còn có trái phiếu KBNN với lãi suất cao và trái phiếu tài trợ cho đường dây 500KV được bảo đảm bằng vàng đạt hơn 100 tỷ đồng. Ngân hàng Thương mại cũng phát hành trái phiếu quốc tế ra nước ngoài theo Nghị định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 139/QĐ-NH ngày 18/05/1995. Bên cạnh đó, hình thức tín dụng nhân dân vẫn được duy trì và có chiều hướng phát triển mạnh lên và đặc biệt những năm gần đây đã xuất hiện việc mua bán các loại công trái Nhà nước để hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên, các loại chứng khoán ở nước ta hiện nay cũng bộc lộ rất nhiều điểm hạn chế: - Công trái Nhà nước cho phép chuyển nhượng nhưng lại rất phiền hà bởi các thủ tục pháp lý. - Các loại trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng mới chỉ là các khoản vay với số lượng có hạn và mức huy động thấp. - Chưa có các tổ chức đứng ra môi giới và kinh doanh chứng khoán, thông tin về giá cả chưa chuẩn xác, môi trường kinh doanh và thủ tục pháp lý chưa đảm bảo. Hơn nữa, một số công cụ có khả năng phổ biến sâu rộng về việc kinh doanh chứng khoán trong quần chúng nhân dân vẫn chưa được phát hành. Sự hình thành và phát triển của TTCK phải được đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ những hàng hoá ban đầu cho đến nhiều chủng loại hàng hoá phong phú theo sự phát triển khách quan và đòi hỏi của thị trường. Để có được những hàng hoá phục vụ tốt cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam, theo em chúng ta cần phải làm những việc sau đây: - Thúc đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã đủ điều kiện theo chỉ thị 204/TTCK. Không thực hiện được quyền Nhà nước và không thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô quá nhỏ. - Hàng hoá của thị trường chứng khoán trong thời gian đầu thì chủ yếu phải là trái phiếu Nhà nước, bao gồm cả trái phiếu của Chính phủ trung ương và trái phiếu của chính quyền địa phương bởi vì các loại trái phiếu này ít rủi ro, có khả năng khuyến khích đầu tư. - Trong các chứng khoán thì trái phiếu ngắn hạn cần phải phát hành sao cho chiếm được một tỷ trọng. Đề nghị này được xuất phát từ ba lý do sau: + Nền kinh tế nước ta chưa phát triển, năng suất lao động còn thấp, thu nhập của dân cư chưa cao nên vốn tích luỹ trong nền kinh tế nói chung và của dân cư nói riêng còn hạn hẹp; vốn dư thừa ít và cũng chỉ là tạm thời cho nên không thể đầu tư dài hạn được. + Dân cư chủ yếu cho vay và vay vốn thông qua “thị trường ngầm” tức là cho vay và vay trực tiếp mà chưa có thói quen thông qua việc mua bán chứng khoán. + Tình trạng làm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi nhưng nguy cơ tái lạm phát vẫn còn, vì thế ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người đầu tư là đầu tư dài hạn sẽ gặp nhiều rủi ro. - Các chứng khoán phải được mua bán tự do dưới sự bảo đảm của pháp luật. Các doanh nghiệp có đủ điều kiện có thể phát hành trái phiếu như công ty TNHH chỉ có thể phát hành trái phiếu thế chấp; công ty quốc doanh có thể phát hành trái phiếu thông thường nhưng có sự bảo trợ của Bộ Tài chính và ngân hàng Đầu tư. - Các loại chứng khoán đều phải được giao cho các tổ chức của Nhà nước in ấn để tránh hiện tượng làm giả, đảm bảo an toàn cho người có vốn đầu tư và chống rối loạn trên thị trường. 3. Đổi mới công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ của ngân hàng và các trung gian tài chính khác: Các tổ chức tài chính bao gồm: Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng Cổ phần, Hợp tác xã tín dụng, các công ty tài chính, các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động trên nước ta.... đây là các chủ thể chủ yếu tham gia vào thị trường và mang tính cạnh tranh rất cao. Xây dựng và phát triển các loại hình tổ chức tài chính là tạo điều kiện làm cho TTCK hoạt đồng nhộn nhịp, đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong các chủ thể tài chính thì ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng Thương mại phải là các đơn vị tham gia chính trên TTCK, là trung tâm môi giới và điều tiết các nguồn vốn. Việc hiện đại hoá công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ của hệ thống ngân hàng - tài chính sẽ đảm bảo hiệu lực vững chắc về quản lý theo một chính sách tiền tệ và tín dụng đúng đắn, nâng cao tính năng động và hiệu quả của việc kinh doanh tiền tệ, tín dụng, hoàn thiện công tác thanh toán, phân tích kinh tế, giám sát và phòng ngừa rủi ro,ổn định thu chi ngân sách và cán cân thanh toán quốc tế, chấm dứt được phát hành bù đắp nhu cầu chi ngân sách bằng các biện pháp khơi tăng nguồn thu từ thuế, bảo hiểm, tín dụng trong nước và quốc tế. Hệ thống ngân hàng - tài chính là công cụ vững chắc của Nhà nước pháp quyền trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nếu như người ta ví TTCK là khía cạnh sắc bén của thị trường tài chính quốc gia thì ngân hàng và các tổ chức tài chính khác sẽ vừa là nền móng, vừa là chất kết dính tạo nên TTCK. Một chính sách tiền tệ đúng đắn được thực thi bởi một hệ thống ngân hàng mạnh dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng trung ương với vai trò là người quản lý, giám sát mọi hoạt động tiền tệ - tín dụng và thanh toán bằng nhiều công cụ hữu hiệu chắc chắn sẽ tạo nên một môi trường cực kỳ thuận lợi cho các hoạt động của TTCK; nó sẽ tạo ra “mảnh đất lý tưởng” đối với việc thực hiện các ý định tìm kiếm lợi nhuận cao và ít rủi ro cho các nhà đầu tư chứng khoán. Trong thời gian qua, hệ thống tổ chức các ngân hàng và các trung gian tài chính khác ở nước ta đã có những bước biến chuyển căn bản mà thể hiện rõ nét nhất là sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp (từ tháng 5 năm 1988), hệ thống KBNN, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và sự xuất hiện của các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh các ngân hàng thương mại quốc doanh đã xuất hiện 52 ngân hàng cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần đã tạo nên một mạng lưới hệ thống các trung gian tài chính khá đa dạng ở nước ta. Ngân hàng trung ương đang từng bước thực hiện tốt vai trò điều tiết vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, đồng thời các ngân hàng cũng như các trung gian tài chính khác đang tích cực đổi mới công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ để đáp ứng tốt các nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia IFC (tổ chức tài chính quốc tế - The International Finance Corporation) thì hệ thống các tổ chức tài chính ở Việt Nam mới chỉ kiểm soát được 10% nguồn vốn của nền kinh tế, phần còn lại thuộc các cơ cấu tài chính không chính thức. Các hình thức huy động vốn thông qua các chứng khoán như trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng... đến nay mới chỉ đạt khoảng 5,8% GDP, trong khi đó ở các nước phát triển thì tỷ lệ này là 40 - 50% (ví dụ như ở Mỹ, trong năm 1991 thì nguồn vốn vay của chính phủ thông qua các hình thức chứng khoán là 3.200 tỷ USD, chiếm 52% GDP). Bên cạnh đó, nghiệp vụ đang áp dụng tại các ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn rất đơn giản, kỹ thuật còn hạn chế; việc trang bị máy móc mới chỉ dừng lại ở mức thay thế cho các công việc thủ công và sự đổi mới công nghệ quản lý, phát triển dịch vụ ở một số ngân hàng cũng chỉ là hình thức, chưa thực sự có hiệu quả. Trước những thực tại đó, để tạo được một hệ thống các trung gian tài chính mà đặc biệt là hệ thống các ngân hàng nhằm phục vụ đắc lực cho hoạt động của TTCK khi nó ra đời, em cho rằng ngay từ bây giờ chúng ta cần phải thực hiện các công việc sau: - Các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính khác phải tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các nghiệp vụ mới nhằm phục vụ trực tiếp cho đơn vị phát hành chứng khoán và những người đầu tư có điều kiện cần thiết để tham gia TTCK. - Các tổ chức tài chính mà trước hết là các ngân hàng thương mại, dưới sự chỉ đạo của NHTW cần phải có kế hoạch triển khai nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ của TTCK gắn liền với các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. - Đào tạo cho cán bộ và nhân viên những kiến thức cơ bản và chuyên sâu theo chương trình của quốc tế; đồng thời Nhà nước cũng nên hỗ trợ để trang bị những phương tiện cần thiết cho các hoạt động nghiệp vụ, thông tin của các tổ chức này như hệ thống máy vi tính hiện đại, máy fax... 4. Triển khai công tác kiểm toán, kế toán theo thông lệ quốc tế. Bất kỳ nhà đầu tư chứng khoán nào trước khi ra quyết định đầu tư trong nước cũng như ở nước ngoài đều phải thu thập các thông tin cần thiết và các loại chứng khoán, đặt biệt là về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mà mình có ý định đầu tư. Nhà đầu tư cũng như các chuyên gia về chứng khoán phải phân tích tình hình tài chính của công ty đó thông qua các con số báo cáo trong thời gian gần nhất. Báo cáo tài chính của công ty phát hành chứng khoán phải được xây dựng trên một cơ sở của một chế độ hoạch toán thống nhất và tuân theo các thông lệ quốc tế. Các báo cáo này không phải chỉ do công ty tự kê khai hoặc do một công ty kiểm toán nào đó cung cấp mà phải có sự xác nhận của hai công ty kiểm toán độc lập. Vì vậy, công tác kiểm toán, kế toán đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin một cách chính xác, đầy đủ, trung thực về các công ty phát hành chứng khoán. Trên cơ sở của các số liệu kế toán, kiểm toán đó mà Uỷ ban chứng khoán quốc gia có thể đưa ra quyết định là các chứng khoán của doanh nghiệp nào sẽ được phép đưa ra phát hành, mua bán trên TTCK và các cơ quan quản lý và điều hành TTCK cũng có được con số chính thức để công bố cho nhà đầu tư tại TTCK. Hiện nay ở Việt Nam đã có 3 công ty kiểm toán là: Công ty kiểm toán Việt Nam (viết tắt là VACO) được thành lập năm 1991; Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kiểm toán và kế toán (AASS) được thành lập năm 1993; Công ty kiểm toán và dịch vụ tin học được thành lập năm 1994. Ngoài ra còn có một số các công ty kiểm toán với 100% vốn nước ngoài như: E&Y; KPMG; Price Water House; Deloit Touche Tohmatsu; Copper... và các văn phòng đại diện khác của các công ty kiểm toán quốc tế. Thời gian trước đây, hệ thống kiểm toán cũng như kế toán của chúng ta hoạt động chưa thực sự có hiệu quả vì một số điều khoản chưa phù hợp với quy định kiểm toán, kế toán quốc tế. Trước tình hình đó và các yêu cầu của quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng đa dạng hóa, ngày 01/11/1995 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành văn bản “Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp” theo Quyết định số 1141 TC/CĐKT. Sau khi văn bản này được ban hành, nó đã được áp dụng ngay trong năm 1995 và tỏ ra là một văn bản có tính khoa học, chính xác. Tuy vậy, để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho việc thành lập một TTCK ở Việt Nam thì chúng ta cần phải: - Nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ cũng như nhân viên ngành kiểm toán, kế toán để bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời. - Các công ty kiểm toán, kế toán phải trang bị một hệ thống xử lý thông tin hiện đại, phải thường xuyên cập nhật các báo cáo tài chính của các công ty phát hành chứng khoán. Cần phải công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh và các tài liệu có liên quan tới việc phát hành chứng khoán. 5. Về việc trang bị các hệ thống thông tin kinh tế. Thông tin kinh tế không phải là một bộ phận của các cơ quan tổ chức, điều hành và quản lý TTCK nhưng lại là một công tác rất cần thiết và quan trọng cho các công tác của TTCK, bởi vì các nhà đầu tư và các chuyên gia về chứng khoán đều phải dựa vào các thông tin về tình hình hoạt động, kinh doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp mới dám đầu tư mua cổ phiếu hoặc trái phiếu. Ngay cả UBCKQG khi quyết định cho phép hay đình chỉ việc phát hành chứng khoán đối với một doanh nghiệp cũng phải dựa vào các nguồn thông tin. Bên cạnh đó, TTCK cũng bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố khác như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội... trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, do vậy cũng cần phải cập nhật và xử lý thông tin một cách liên tục mới có được các quyết định đúng đắn khi tham gia vào TTCK. Người ta ví trung tâm giao dịch chứng khoán như một cái kho xuất và nhập thông tin. Hệ thống máy tính ở đây được nối mạng với nhau và với các trung tâm tài chính khác. Việc giao dịch mua bán các chứng khoán được diễn ra trực tiếp bằng máy tính và bên cạnh đó thì hệ thống xử lý và cập nhật thông tin khác như điện thoại, máy nhắn tin, máy fax cũng được sử dụng rất có hiệu quả. ở Việt Nam hiện nay, theo con số thống kê mới nhất thì cả nước mới chỉ có khoảng 29.000 máy vi tính, trong đó 75% dành cho các cơ quan thuộc khối hành chính, 20% dành cho các xí nghiệp sản xuất và chỉ có 5% là của các hộ gia đình. Đây là con số rất nhỏ so với tổng số dân nước ta là hơn 78 triệu người. Theo nhận xét của ông Tổng thư ký Hội tin học Việt Nam thì máy tính ở ta chưa có nhiều máy hiện đại mà vẫn chủ yếu là những máy đã lạc hậu so với các máy đang sử dụng trên thế giới và hệ thống máy này cũng vẫn chưa được nối mạng quốc tế nên nhiều nguồn thông tin chưa được thu thập và xử lý nhanh được. Về hệ thống quản lý thông tin ngân hàng, nhiều ngân hàng ở nước ta đã có các chương trình phần mềm khác nhau mà có khả năng xử lý nhanh, chính xác các thông tin trong phạm vi nội bộ nhưng lại thiếu khả năng thích ứng, hoà nhập với mạng thanh toán của các ngân hàng khác cho nên chưa có sự nối kết, thông suất bình thường giữa các ngân hàng và kết quả là tạo nên sự phiền phức, chậm trễ trong việc xử lý thông tin và việc thanh toán giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin khác như điện thoại vẫn chưa được phổ biến trong dân cư mặc dù có rất nhiều hãng thông tin nổi tiếng thế giới đầu tư và lắp đặt như NTT (Nhật Bản), Motorola (Mỹ)... Để thông tin trở thành cánh tay đắc lực phục vụ cho sự ra đời của một TTCK, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải: - Xây dựng mạng lưới thông tin rộng, chất lượng cao. - Trang bị hệ thống máy tính hiện đại với các chương trình xử lý đa dạng, có khả năng đáp ứng được tất cả các nghiệp vụ của TTCK. - Nhà nước cần lập kế hoạch trang bị kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, đảm bảo các thiết bị có khả năng sử dụng lâu dài, mở rộng nghiệp vụ và hoà nhập vào hoạt động của TTCK trên phạm vi quốc tế. - Thực hiện chiến lược phát triển thông tin quốc gia mà vai trò tích cực là của ngành bưu điện và ngân hàng. 6. Về mặt hệ thống pháp luật. Hoạt động của TTCK là hoạt động của một thị trường cao cấp, phức tạp vì vậy nó có liên quan tới nhiều đối tượng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; nó đòi hỏi một trình độ nghiệp vụ cao và chịu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34974.doc
Tài liệu liên quan