Đề tài Phân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam

Tự do hóa thương mại, đầu tư tạo cảm hứng cho các hãng lớn đổ vốn ra nước ngoài gia công nhằm tận dụng lợi thế so sánh để hạ chi phí đầu vào. Nhưng vấn nạn ca ba khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài nản lòng. Bởi mỗi khi đi gia công (outsourcing), chuyển gánh nặng sản xuất cho các xí nghiệp nước ngoài, thì kèm với đó là việc tiết lộ những chi tiết đặc chủng, bí quyết chế biến và cả bản vẽ thiết kế. Hay nói khác đi là chính hãng phải sẵn sàng từ bỏ quyền kiểm soát trong vấn đề sở hữu trí tuệ, bí kíp nhà nghề. Nhưng rủi thay, lợi bất cập hại, nhiều khi vốn chưa thu về thì tên tuổi đã bị phai nhạt bởi hàng ngoài luồng

doc21 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4843 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất bằng phương pháp thủ công với những cơ xưởng vài mươi nhân công. Việc thành lập ngành da giày Việt Nam cách đây 20 năm là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp da giày sản xuất theo phương thức hiện đại trên dây chuyền công nghiệp, từ đó hình thành những nhà máy có quy mô từ vài trăm đến hàng chục ngàn lao động và tham gia vào việc xuất khẩu giày dép ra thế giới. Vào những năm đầu thập niên 1990, ngành giày Việt Nam chủ yếu gia công sản xuất mũ giày cho các nước Đông Âu theo Hiệp định 19/5, tuy nhiên việc gia công này đã sớm sút giảm do thị trường Đông Âu bị biến động mạnh. Vì vậy, vào giữa những năm 1990, các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam phải tự tìm kiếm thị trường và chuyển dần xuất khẩu sang các nước Tây Âu. Đến cuối năm 2000, số liệu xuất khẩu cho thấy cả ngành da giày lúc bấy giờ đã đạt mức 1.471 triệu đô la Mỹ. Từ đầu những năm 2000 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước giúp cho các doanh nghiệp da giày trong nước cơ hội phát triển, cộng với đầu tư của nhiều doanh nghiệp sản xuất da giày từ Hàn Quốc, Đài Loan... góp phần thay đổi nhanh chóng bộ mặt của ngành da giày Việt Nam. Đến hết năm 2008, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã đạt đến 4.767 triệu đô la Mỹ, tăng 3,2 lần so với năm 2000 và tăng đều đặn với tỷ lệ khá cao, trên 18% mỗi năm. Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử. 2, Thực trang gia công giày dép tại các doanh nghiệp Việt Nam a, Thực trạng chung Da giày là một trong những lĩnh vực đầu tiên đón nhận làn sóng đầu tư nước ngoài từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước với việc hình thành hàng loạt nhà máy gia công, liên doanh, 100% vốn nước ngoài) trải dài trên cả nước. Thế nhưng đến nay, ngành xuất khẩu đứng thứ 3 của Việt Nam với hơn 600.000 lao động vẫn bị đánh giá là lợi nhuận thấp. “Mặc dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng giá trị gia tăng của ngành này chỉ đạt 25%”. Giá trị gia tăng nhỏ nhoi đó chủ yếu nằm ở sức lao động, yếu tố được xem là xem là “lợi thế cạnh tranh” lớn nhất của da giày Việt Nam những năm qua. Song lợi thế về “giá nhân công rẻ” và “nguồn lao động dồi dào” này đang mất dần đi khi người lao động không còn mặn mà với công việc hết sức vất vả, khắc nghiệt mà thu nhập thấp (da giày là một trong những ngành có thu nhập thấp nhất). Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD. Tuy nhiên, đến năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của ngành đã có dấu hiệu chững lại với mức xuất khẩu là 4.067 triệu đô la, giảm 14,6% so với 2008, khiến cho nhiều doanh nghiệp trong ngành và những người quan tâm đến ngành da giày Việt Nam cảm thấy lo ngại. Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da giày. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da giày: gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước ASEAN. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam (Lefaso), bảy tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt 2,75 tỷ USD, tăng 13,8% so cùng kỳ năm trước. Với kim ngạch xuất khẩu này, da giày tiếp tục là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với ngành da giày Việt Nam trong bối cảnh giày mũ da Việt Nam vẫn đang chịu mức thuế xuất khẩu 10% vào EU và không được hưởng cơ chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP. Cùng với sự hồi phục kinh tế thế giới, các đơn hàng xuất khẩu của ngành da giày tăng khoảng 16% so với năm ngoái. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam, chỉ riêng hai tháng 6 và 7 vừa qua, trung bình kim ngạch xuất khẩu da giày đạt 450 triệu USD/tháng. Thị trường tiêu thụ hàng giày dép Việt Nam chính vẫn là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt gần 700 triệu USD, chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong bảy tháng qua chủ yếu là giày thể thao, còn lại là giày thời trang, túi, cặp, giày da, giày vải... Với đà tăng trưởng này, dự kiến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt gần 5 tỷ USD.  Chủ tịch Hiệp hội da giày Việt Nam Nguyễn Đức Thuấn cho biết, từ năm 2010 trở đi, đặc biệt từ năm 2010 đến năm 2015 được coi là thời kỳ "vàng" của ngành da giày nước ta bởi Việt Nam hiện đang có lợi thế cạnh tranh hơn một số nước trong khu vực. Điển hình là chi phí nhân công ở nước ta rẻ hơn. Chẳng hạn, tại Trung Quốc, một trong những nước xuất khẩu giày dép lớn trên thế giới, hiện thu nhập bình quân đầu người đã đạt mức khoảng 3.000 USD/người/năm nên giá nhân công ở Trung Quốc bắt đầu tăng lên. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt khoảng 1.200 USD/người/năm. Đây chính là lợi thế để Việt Nam phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như da giày. Đến nay, phần lớn các sản phẩm da giày và thời trang trên thế giới được tập trung làm chủ yếu ở một số nước châu Á đông dân như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Băng-la-đét... Không những thế, Việt Nam cũng là nước đang có cơ cấu dân số "vàng", tỷ lệ người bước vào độ tuổi lao động hằng năm đang tăng lên, tạo nguồn lao động dồi dào cho các ngành này. Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn Đức Thuấn ví von: "Đơn hàng xuất khẩu da giày đang như dòng thác chảy vào những chỗ có lợi thế, vì vậy thách thức đối với ngành da giày Việt Nam là phải chớp được cơ hội vàng này". Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cơ hội lớn đối với các DN da giày lớn, làm chủ công nghệ nền (vật tư nguyên liệu, thị trường, làm hàng FOB...), còn những DN da giày nhỏ cũng chỉ có thể làm gia công cho các DN lớn. b, Khó khăn. Hiện nay, thu nhập của người lao động trong ngành da giày còn thấp hơn một số ngành khác nên đã xuất hiện tình trạng dịch chuyển lao động sang những ngành sản xuất có thu nhập cao hơn. Mặc dù các DN da giày nhận được rất nhiều đơn hàng xuất khẩu, nhưng khó khăn lớn nhất đối với họ chính là không đủ năng lực sản xuất do thiếu lao động. Nếu DN nhận đơn hàng vượt năng lực sản xuất của mình và  để kịp giao hàng cho đối tác, thì DN  buộc phải tăng lương công nhân, tăng chi phí nhập khẩu nguyên liệu, vận chuyển bằng đường hàng không... Nhiều DN da giày sẽ không chịu nổi một loạt chi phí tăng lên như vậy. Khó khăn về nhân công chính là bài toán nan giải đối với các DN da giày Việt Nam. Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn Đức Thuấn phân tích, để giải bài toán này, DN cần làm sao đưa được đơn hàng về những nơi có lợi thế về lao động để tranh thủ nguồn lao động dồi dào ở các địa phương, tiết kiệm chi phí thuê nhân công. Giải pháp  khắc phục dài hạn là Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các DN xây dựng nhà máy sản xuất da giày tại các vùng có lực lượng lao động, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Có thể quy hoạch thành năm vùng cho phát triển ngành da giày như vùng 1 gồm một số tỉnh phía bắc như Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hoá, Hải Phòng; vùng 2 gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, một phần Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng; vùng 3 gồm các tỉnh Khánh Hoà, Quy Nhơn, Bình Định, Bình Thuận;  vùng 4 gồm các tỉnh Đông Nam Bộ và vùng 5 gồm các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre. Nhà nước có thể ban hành chính sách giảm thuế thu nhập DN, miễn tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chuẩn bị mặt bằng sạch, xây dựng hạ tầng kỹ thuật sẵn... để thu hút các DN da giày vào đầu tư tại những vùng này. Việc quy hoạch các vùng nêu trên sẽ khắc phục được những bất cập về bất ổn xã hội trong thu hút lao động cho ngành da giày tại những khu công nghiệp tập trung như hiện nay. Để nắm được lượng đơn hàng xuất khẩu lớn, tranh thủ thời cơ vàng, các DN da giày Việt Nam cần tăng năng lực sản xuất bằng cách mở rộng sản xuất về các vùng có chi phí lao động rẻ, thay vì tìm cách thu hút nguồn lao động tại các trung tâm lớn. Theo tính toán, DN muốn tăng 15% năng lực sản xuất tại trung tâm thì phải mở rộng 20-30% năng lực sản xuất tại các vùng sâu, vùng xa. Đặc thù của ngành da giày là 60% số lao động tập trung ở khâu may giày. Vì vậy, để giảm chi phí sản xuất, DN có thể thực hiện các khâu may mũi tại các vùng sâu, vùng xa, còn các khâu hoàn thiện công nghệ, chất lượng sản phẩm có thể thực hiện tại các thành phố, khu công nghiệp tập trung, gần cảng... Ngoài ra, DN cần liên kết cùng nhau mua đơn hàng nhập khẩu nguyên liệu có giá trị lớn để giảm chi phí đầu vào đồng thời tránh được việc các nhà cung cấp nguyên liệu ép giá. Không chỉ vậy, Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng trung tâm thuộc da tập trung bởi hiện ngành này vẫn  phải nhập khẩu tới 70% nguyên liệu da và hỗ trợ Hiệp hội da giày Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại. Ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam, cho biết, hiện dung lượng giày thế giới khoảng 17 tỷ đôi mỗi năm. Giày xuất khẩu chiếm  6 - 7 tỷ đôi,  trong đó 70 - 75% năng lực sản xuất tại châu Á. Trung Quốc đứng đầu khu vực, với trên 75% tổng sản lượng, tiếp theo là Việt Nam, 8 - 9%. Tiềm năng tiêu thụ giày dép đang rất lớn. Tuy nhiên, tình hình chung của ngành da giày các nước châu Á nói chung va Việt Nam nói riêng phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu. Chất lượng hàng hoá lại thấp, ít thương hiệu, uy tín có thể tham gia xuất khẩu và nâng cao giá trị gia tăng. Việt Nam là một điển hình. Năm 2009 đạt 4,67 tỷ USD, thu hút gần 700.000 lao động trực tiếp. Nhiều năm liền, ngành da giày Việt Nam đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu. Song, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu, phụ tùng, thiết bị xấp xỉ 50% so với xuất khẩu. Nhiều loại nguyên liệu như nhựa cao su tổng hợp, kim loại chuyên dùng, hoá chất, linh kiện… đều phải nhập khẩu. Hiện tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm da giày xuất khẩu chỉ chiếm 30 - 35%. Trong nước cũng đã sản xuất được một số nguyên phụ liệu với giá thành thấp hơn nguyên liệu nhập khẩu. Song, chất lượng không ổn định, mẫu mã nghèo nàn, chưa sản xuất được chủng loại cao cấp… Hiệu quả kinh tế từ ngành da giày mang lại vì thế hạn chế. Không những vậy, các doanh nghiệp giày da châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, phải chịu sức ép từ vụ kiện chống bán phá giá đối với các loại giày mũ da xuất khẩu sang EU và không được hưởng GSP. Các nhà đầu tư tại Mỹ lại đang hướng đến Mehico và khu vực Nam Mỹ… c, Môt số thực trạng xảy ra trong ngành: Gian dối gia công Không phải là hàng nhái, nhưng những sản phẩm "ca ba" làm thêm ngoài luồng cũng đang gây tổn hại không nhỏ tới sản xuất kinh doanh của nhiều Cty tên tuổi quốc tế. Hầu hết các hãng lớn thường lảng tránh vấn đề này vì e làm khách hàng hoang mang, tổn hại tới uy tín thương hiệu. Nhưng trên thực tế, những sản phẩm ca ba thịnh phát, đè nén cả hàng chính, gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín gia công của những nền kinh tế lao động rẻ. Sâu nở thời tự do Trong thời buổi công nghệ in ấn, scanning và 3D hiện đại như ngày nay thì chẳng khó khăn gì để bắt chước, copy ra những sản phẩm giả ngỡ như thật. Đấy chính là nguyên nhân dẫn đến việc nhiều nhà thầu phụ gia công thừa ra số lượng hàng đặt từ các hãng lớn để tuồn ra ngoài kiếm lời. Bỏ mặc những thiệt hại mà các Cty chính ngạch phải hứng chịu từ việc hàng hóa "ca ba" phá giá trên thị trường. Tuột mất quyền chủ động Tự do hóa thương mại, đầu tư tạo cảm hứng cho các hãng lớn đổ vốn ra nước ngoài gia công nhằm tận dụng lợi thế so sánh để hạ chi phí đầu vào. Nhưng vấn nạn ca ba khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài nản lòng. Bởi mỗi khi đi gia công (outsourcing), chuyển gánh nặng sản xuất cho các xí nghiệp nước ngoài, thì kèm với đó là việc tiết lộ những chi tiết đặc chủng, bí quyết chế biến và cả bản vẽ thiết kế. Hay nói khác đi là chính hãng phải sẵn sàng từ bỏ quyền kiểm soát trong vấn đề sở hữu trí tuệ, bí kíp nhà nghề. Nhưng rủi thay, lợi bất cập hại, nhiều khi vốn chưa thu về thì tên tuổi đã bị phai nhạt bởi hàng ngoài luồng. DN chưa mặn mà với thị trường trong nước Một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Da giày Việt Nam cho thấy, hiện mỗi người dân Việt Nam trung bình sử dụng từ 1,5 - 3 đôi giày/năm, lượng tiêu thụ khoảng 130 - 240 triệu đôi/năm, tập trung 80% vào sản phẩm da - giả da có giá dưới 150.000 đồng/đôi. Do đó, tổng giá trị thị trường giày dép các loại trong nước đạt từ 1 - 1,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 30% so với kim ngạch xuất khẩu và đây là một con số không nhỏ cho ngành da giày. Tuy nhiên, thị trường trong nước lại đang bị hàng nước ngoài “lấn chỗ” mà nhiều nhất là hàng Trung Quốc, rồi đến các loại giày dép nhái, giả, kém chất lượng nhưng giá rẻ, tràn ngập phân khúc thị trường người có thu nhập thấp. Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam nhận định, sở dĩ doanh nghiệp (DN) chưa mặn mà với thị trường trong nước là do hầu hết các DN có vốn nước ngoài (chiếm 80%) làm gia công và bị ràng buộc từ quy định bản quyền (không được đưa sản phẩm gia công ra ngoài). Hơn nữa, DN không mặn mà với thị trường trong nước cũng bởi khi xuất khẩu, giá bán ở thị trường các nước sau khi sản phẩm mang thương hiệu nước ngoài đã tăng 4 - 5 lần. Ngay cả các DN có vốn trong nước cũng “ngại” làm hàng nội do khi chuyển từ làm hàng xuất khẩu sang hàng nội phải thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, một số trang thiết bị… Còn nếu bán hàng xuất khẩu ở thị trường nội thì mẫu mã sản phẩm xuất khẩu thành công ở nước ngoài chưa hẳn đã phù hợp với người tiêu dùng trong nước, mà giá lại cao. Do đó, thị trường trong nước chưa thực sự hấp dẫn họ đầu tư. Ngoài ra, khi quay lại thị trường trong nước, DN lại thiếu kỹ năng nghiên cứu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng nên sản phẩm khó bán dù cũng đã có nhiều sáng tạo, sáng kiến. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất là đối với các DN da giày nếu triển khai bán sản phẩm ở thị trường trong nước là hầu hết DN đều thiếu hệ thống phân phối. Trong khi đó, hệ thống cung ứng bán lẻ tại Việt Nam chưa nhiều, do chỉ tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn và chi phí thuê mặt bằng rất cao, vượt quá khả năng DN vừa và nhỏ. Thừa nhận thực trạng này, bà Nguyễn Thị Tòng, Tổng thư ký Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết thêm, hiện các sản phẩm da giày cũng mới chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu tiêu dùng nội địa. Do vậy, mục tiêu phấn đấu của toàn ngành đến năm 2015 là sẽ nâng tỷ lệ này lên 60 - 70%. Kim ngạch giày da có nguy cơ tiếp tục giảm Bắt đầu từ 3/1/2010, sản phẩm giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục “mắc cạn” 10% "thuế chống bán phá giá". Mặc dù, suốt ba năm qua, việc EU áp thuế mức thuế 10% đối với mặt hàng giày da của Việt Nam, đồng thời quyết định loại bỏ ngành giày da Việt Nam khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009 – 2011 mà EC đưa ra vào tháng 6/2008 đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho ngành công nghiệp giày da của Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã giảm sút rất lớn. Cụ thể những năm bị áp thuế chống bán phá giá, kim ngạch của lĩnh vực này xuất khẩu vào EU trung bình giảm trên 20%/năm. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch giày dép xuất khẩu đã giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2008. Đồng thời cũng làm giảm đi đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm gia dày Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác. “Ngoài ra, đời sống của khoảng 650.000 lao động trong ngành này, chủ yếu là lao động nữ cũng đã và đang phải chịu tác động tiêu cực bởi những quy định “trái ngược” trên của EU”, ông Vĩnh cho biết. Theo ông Bạch Văn Mừng, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), thì việc áp thuế này cũng sẽ gây khó khăn cho các nhà nhập khẩu, phân phối giày gia của châu Âu, vì thuế được áp sẽ tính vào trong giá bán và người tiêu dùng của châu Âu sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Tuy nhiên, theo Mừng, nguy cơ lớn tới đây, trong điều kiện kinh tế thế giới và tiêu dùng của người dân vẫn còn khó khăn, với mức thuế “bị” áp trên, thì các sản phẩm cùng giá, cùng chủng loại của Việt Nam so với sản phẩm giày mũ da của các nước khác giá sẽ cao hơn, như thế các nhà nhập khẩu của châu Âu phải tính toán đến nhập khẩu ở các quốc gia khác không bị áp thuế. “Nên nguy cơ giảm kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam vào thị trường EU so với tiềm năng là rất lớn”, ông Mừng lo lắng. 3, Cơ hội. Nhu cầu tiêu dùng giầy dép của các nước trên thế giới ngày càng gia tăng cùng với sự cải thiện đời sống kinh tế xã hội. Giầy dép là một trong các sản phẩm tiêu dùng thời trang không thể thiếu được, đặc biệt tại các nước có khí hậu lạnh (Người dân không thể không đi giầy). Quá trình hội nhập, các DN ngành Da - Giầy Việt Nam có thêm nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến và được tiếp cận rộng hơn với thị trường quốc tế, có cơ hội hợp tác phát triển tốt và bình đẳng hơn Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực. Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử. Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà. Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt: Giày dép các loại: 680 triệu đôi Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sqft. Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu. Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định cụ thể: Thị trường EU: Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam. Thị trường Mỹ: Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng 25% so với năm 2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ. Thị trường các nước Đông Á: Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2006, xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005. 4, Thách thức. Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn. Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như Brazil, Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%. Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc. Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này. Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu. Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em. Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế. Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia. Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt N

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan