Đề tài Phát triển mô hình cửa hàng tiện ích ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH CỬA HÀNG TIỆN ÍCH 3

I. Khái quát về kinh doanh bán lẻ 3

1. Khái niệm 3

2. Bản chất của kinh doanh bán lẻ. 3

3. Các loại hình kinh doanh bán lẻ. 4

3.1. Các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại. 4

3.2. Loại hình kinh doanh bán lẻ truyền thống. 5

II. Mô hình cửa hàng tiện ích 5

1. Khái niệm 5

2. Đặc trưng 6

3. Những ưu, nhược điểm của cửa hàng tiện ích so với các loại hình bán lẻ khác 6

3.1. Những ưu điểm 6

3.2. Nhược điểm. 8

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hoạt động và phát triển của cửa hàng tiện ích 8

4.1. Các nhân tố về khách hàng. 8

4.2. Những yếu tố về môi trường. 9

4.3. Những yếu tố xuất phát từ doanh nghiệp 10

5. Điều kiện ứng dụng mô hình cửa hàng tiện ích 11

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG KINH DOANH CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở VIỆT NAM 12

I. Khái quát thị trường bán lẻ Việt Nam 12

1. Thực trạng phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam hiện nay. 12

2. Các loại hình kinh doanh bán lẻ ở Việt Nam 17

II. Thực trạng kinh doanh cửa hàng tiện ích tại Việt Nam. 21

1. Khái quát về kinh doanh cửa hàng tiện ích ở Việt Nam. 21

2. Một số hệ thống cửa hàng tiện ích tiêu biểu 23

2.1. Hệ thống cửa hàng tiện ích G7mart. 23

2.1.1. Ý tưởng của G7mart. 23

2.1.2. Hoạt động của G7 mart 24

2.2. Chuỗi cửa hàng speedy 26

III. Đánh giá hoạt động của mô hình cửa hàng tiên ích 28

1. Những thành tựu đạt được. 28

2. Hạn chế 28

3. Nguyên nhân hạn chế 29

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31

I. Cơ hội và thách thức đối với việc kinh doanh cửa hàng tiện ích trong thời điểm hiện nay. 31

1. Cơ hội 31

2. Thách thức 33

II. Phương hướng phát triển. 35

III. Các giải pháp phát triển mô hình cửa hàng tiện ích ở Việt Nam hiện nay. 36

1. Về phía nhà nước 36

2. Về phía doanh nghiệp 38

2.1. Giải pháp về vốn 38

2.2. Giải pháp về chiến lược 39

2.3. Giải pháp về quản lý 39

2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ 40

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9391 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển mô hình cửa hàng tiện ích ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng chưa cao. Do đó thị trường bán lẻ Việt Nam là một thị trường hết sức tiềm năng và có sức hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư. Thứ năm, các loại hình kinh doanh đa dạng, song thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn còn quá nhỏ lẻ, manh mún, không đáp ứng hết nhu cầu, hình thức kinh doanh bán lẻ truyền thống vẫn là chủ yếu, lượng hàng hóa được lưu thông tại các ngôi chợ và cửa hàng tạp hóa năm 2007 là 90%, năm 2008 là 68%. Năm 2005, thị trường bán lẻ Việt Nam có khoảng 9063 chợ ở nông thôn, 2275 chợ ở thành thị, hơn 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và 1000 cửa hàng tiện ích hoạt động trên 32 tỉnh thành, ngoài ra còn khoảng 9000 cửa hàng tạp hóa hoạt động trên cả nước. Đến năm 2008, số siêu thị đã tăng lên 400, 60 trung tâm thương mại, 2000 cửa hàng tiện ích, và hàng ngàn cửa hàng tiện ích được nâng cấp từ cửa hàng tạp hóa. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, thị trường bán lẻ Việt Nam được dự báo đến 2009 thương mại hiện đại sẽ tăng trưởng nhanh và chiếm gấp đôi so với hình thức chợ. Tuy nhiên, có một vấn đề hết sức cấp bách đối với ngành bán lẻ Việt Nam hiện nay là vấn đề thiếu mặt bằng. Để đưa sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng, các doanh nghiệp bán lẻ phải thông qua hệ thống riêng của mình, vì vậy vấn đề mặt bằng, địa điểm bao giờ cũng rất quan trọng và là ưu tiên số một của các nhà bán lẻ Việt Nam. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam đang rất khó khăn trong việc đi tìm vị trí kinh doanh. Thực tế là vừa qua, dù 4 đại gia bán lẻ lớn trong nước là: Sai Gon Coop, Phú Thái, HapPro và Satra đã bắt tay thành lập Cty cổ phần VDA với tham vọng sẽ chiếm lĩnh 60% thị phần trong nước và góp phần điều tiết giá cả, nhưng khó khăn lớn nhất mà họ đang gặp phải vẫn là việc tìm kiếm, xin được vị trí thuận tiện để kinh doanh tại các tỉnh, thành trên toàn quốc. Theo một công bố mới nhất vào cuối năm 2008 của CB Richacrt Eliss Việt Nam (CBRE) - một trong những Cty tư vấn và quản lý bất động sản có tiếng cho thấy: tại Hà Nội, nguồn cung diện tích sàn cho các nhà bán lẻ trong và ngoài nước thuê hiện có khoảng 100.000 m2, thấp hơn nhiều so với nhu cầu. Mức giá thuê tại khu vực trung tâm thường dao động khoảng từ 65 - 150 USD/m2/tháng, tại các vị trí xa hơn khoảng 25 - 60 USD/m2/tháng. Nếu so sánh với giá thuê mặt bằng bán lẻ đắc địa tại một số thành phố lớn của châu Á thì mức giá thuê trung bình tại Hà Nội cao hơn tại thủ đô Bangkok (Thái Lan), Manila ( Philipin), Jakarta (Indonesia). Tuy giá cả không “dễ thở” chút nào, nhưng ở cả 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thì mặt bằng cho thuê đều không còn nữa, hoặc nếu có thì cũng không đáp ứng đủ diện tích và vị trí mà các DN bán lẻ cần. Nhìn chung, thị trường bán lẻ Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm yếu kém về quy mô, mặt bằng thiếu thốn, thị trường còn lộn xộn, thiếu tính tổ chức. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong nước vấn đề về vốn và trình độ quản lý, tính liên kết còn rất kém, khó có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài nếu như không có chiến lược kinh doanh hợp lý và những cải cách kịp thời. Trong khi đó, với những con số ấn tượng về tốc độ tăng trưởng, mức độ chi tiêu cho bán lẻ của người dân… đã giúp thị trường Việt Nam trở thành miếng bánh ngọt mà bất kỳ đại gia bán lẻ nào trên thế giới cũng phải thèm thuồng. Cũng chính vì thế mà theo tập đoàn tư vấn hàng đầu thế giới AT Kearney đánh giá Việt Nam xếp hàng thứ 4 thế giới về chỉ số về chỉ số phát triển bán lẻ và đến năm 2008, Việt Nam đã vượt qua Ấn Độ để vươn lên đứng thứ nhất. Thông tin này đã khiến cho thị trường bán lẻ Việt Nam trở nên sôi động hơn bao giờ hết, các “gã khổng lồ” bán lẻ nước ngoài khẩn trương xúc tiến vào Việt Nam sớm hơn, còn các doanh nghiệp trong nước cũng khẩn trương xúc tiến các hoạt động tranh thủ chiếm lĩnh thị trường. Tình hình cạnh tranh trở nên gay gắt hơn giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các kênh phân phôi truyền thống với kênh phân phối hiện đại. Ngày 1.1.2009 vừa qua, Việt Nam đã chính thức mở cửa cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vào hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, trong lĩnh vực bán lẻ theo đúng lộ trình đã cam kết ở WTO. Trong khi các nhà bán lẻ khổng lồ trên thế giới đang lăm le bước chân vào thị trường Việt Nam như: Tessco, Wal-mart, Carrefour… thì các doanh nghiệp vẫn còn đang rất loay hoay và lúng túng trong việc tìm ra giải pháp chính xác và cụ thể để tồn tại và phát triển. Các loại hình kinh doanh bán lẻ ở Việt Nam Tuy thị trường bán lẻ Việt Nam còn rất nhỏ lẻ, manh mún, xong cũng được nhận xét là “ thế giới có cái gì thì Việt Nam có cái đó”. Các loại hình bán lẻ của Việt Nam cũng bao gồm loại hình hiện đại và loại hình kinh doanh truyền thống. Thứ nhất: Loại hình đại siêu thị là một loại hình phân phối hiện đại, chưa được hình thành rõ rệt ở Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam chỉ tồn tại duy nhất Big C Đồng Nai là mang dáng dấp của đại siêu thị, tuy nhiên quy mô vẫn còn nhỏ hơn rất nhiều so với các đại siêu thị ở nước ngoài. Hiện nay, loại hình kinh doanh đại siêu thị cũng rất có tiềm năng phát triển ở nước ta, song có một vấn đề hết sức khó khăn là về mặt bằng và tiền vốn. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có hệ thống các trung tâm của tập đoàn Metro Cash and Carry mang dáng dấp như một đại siêu thị, tuy nhiên lại không phải là đại siêu thị vì đối tượng khách hàng chính mà Mêtro nhắm tới là các tổ chức, các doanh nghiệp sản suất hay những người kinh doanh mua hàng hóa là để bán chứ không phải là người tiêu dùng cuối cùng, hay nói cách khác đó là các trung tâm bán buôn chứ không phải bán lẻ như các đại siêu thị. Thứ hai: Loại hình siêu thị, ở Việt Nam hiện nay có khoảng trên 400 siêu thị rải khắp các tỉnh thành kể cả siêu thị trong nước lẫn siêu thị của nước ngoài. Ví dụ: siêu thị Hapromart, Fivi-mart, Co.op mart, Big C, … Tuy nhiên, các siêu thị này thường có quy mô rất nhỏ mà theo các chuyên gia đánh giá thì nó chỉ tương đương với những cửa hàng bách hóa ở các nước khác, và mới chỉ dừng ở mức độ các cửa hàng tự chọn chứ chưa phải là tự phục vụ, đúng với nghĩa của "Supermarket". Đa số các siêu thị có danh mục hàng tương đối phong phú song xét về chủng loại thì vẫn còn nghèo nàn. Chất lượng hàng hóa trong siêu thị nhìn chung tốt. Tuy nhiên, vẫn còn hiện tượng người tiêu dùng mua phải hàng quá hạn sử dụng hay chất lượng chưa đảm bảo... Việc quản lý và trưng bầy hàng hóa trong các siêu thị vẫn còn nhiều vấn đề, rất ít siêu thị mà toàn bộ hàng hóa được quản lý theo mã vạch. Nhiều hàng hóa được gắn mã số, có nơi mã số được viết bằng tay. Quản lý hàng bằng mã số gây cản trở rất nhiều trong việc tính toán, lưu giữ số liệu, vừa mất thời gian lại rất dễ có sai sót...Đặc biệt có một điều trái ngược mà ta có thể thấy rõ là trong khi các siêu thị ở các nước thường bán với mức giá thấp và trung bình thì giá hàng hoá trong các siêu thị Việt Nam thường cao hơn so với giá ở bên ngoài của các cửa hàng bách hoá hay giá chợ. Nguyên nhân của sự chênh lệch này được lý giải theo nhiều cách. Siêu thị phải chịu chi phí lớn như: tiền thuê mặt bằng, cải tạo và xây dựng thành cửa hàng, trang thiết bị, tiền điện nước, lương nhân viên, thuế...Còn về nguồn nhân lực kinh doanh siêu thị ở Việt Nam (kể cả các nhà quản lý và nhân viên siêu thị) thì chưa có kinh nghiệm và thiếu tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực hoạt động này. Đặc biệt, thái độ phục vụ của nhân viên siêu thị đối với khách hàng còn rất kém, có nơi còn bị phàn nàn là cư xử thiếu văn hóa. Thứ ba, đối với các trung tâm thương mại. Do xu thế đô thị hóa được đẩy nhanh, tại Việt Nam trong những năm gần đây đã tiến hành phá bỏ các chợ truyền thống cũ kỹ và xây dựng các trung tâm thương mại trên địa điểm cũ để tận dụng lợi thế thương mại của các địa điểm này. Tuy nhiên, số lượng loại hình này cũng vẫn còn ít, cả nước hiện nay ước tính chỉ có khoảng xấp xỉ 60 trung tâm thương mại. Chẳng hạn như: Parkson, Diamond plaza…Trên thực tế, có nhiều trung tâm thương mại không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định như: diện tích kinh doanh chưa đạt mức tối thiểu; bảo quản hàng hoá không đúng quy trình; thiếu các điều kiện cần thiết để phục vụ khách hàng (khu vệ sinh, khu giải trí)... Trung tâm mua sắm, hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ có duy nhất Lotte Mart thành lập vào ngày 18/12/2008 được xem là na ná với shopping mall. Trung tâm thương mại có diện tích kinh doanh gần 33.400 m2, vốn đầu tư 75 triệu đô la Mỹ này là liên doanh giữa Lotte Mart và doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Minh Vân. Hai bên lên kế hoạch sẽ mở 30 trung tâm thương mại khắp các thành phố lớn của Việt Nam trong vòng 10 năm tới với tổng vốn đầu tư lên đến 5 tỉ đô la Mỹ. Trước đó, vào đầu năm 2008, Công ty Cổ phần đầu tư phát triển Saigon Co.op (SCIC) cũng ký hợp tác xây dựng khu phức hợp thương mại dịch vụ Tân Phong cùng 2 đối tác là Tập đoàn Mapletree (Singapore) và Tổng công ty Cơ khí giao thông vận tải Sài Gòn (SAMCO). Khu phức hợp Tân Phong (Tân Phong Shopping Complex) đặt tại quận 7 - TP.HCM với diện tích hơn 4,2 ha tương đương 42000m2, cùng tổng vốn đầu tư khoảng 200 triệu USD. Bao gồm khu kinh doanh thương mại, siêu thị Coopmart, cao ốc văn phòng và nơi vui chơi, giải trí của người dân, nhất là giới trẻ. Tuy nhiên, đây mới chỉ là dự án và chưa được hoàn thành. Đối với loại cửa hàng tiện lợi: loại mô hình này ở Việt Nam bắt đầu bùng nổ từ năm 2006. Trước đó, Massan cũng đã từng kinh doanh nhưng đã thất bại. Hiện nay, có khoảng 2000 cửa hàng tiện ích đang hoạt động ở khắp các tỉnh thành, bên cạnh đó là hàng ngàn các cửa hàng mới được nâng cấp lên từ các cửa hàng tạp hóa trước đây. Các cửa hàng tiện ích tiêu biểu nhất như: G7mart, Speedy, co.op, shop$go …riêng về cửa hàng tiện ích sẽ được phân tích cụ thể trong phần II. Bên cạnh sự phát triển của các cửa hàng tiện ích. Các cửa hàng chuyên doanh hiện nay cũng đang được các doanh nghiệp chú ý đến như: chuyên doanh cửa hàng thực phẩm, chuyên doanh cửa hàng điện thoại, chuyên doanh cửa hàng điện tử, các cửa hàng bán quần áo…ví dụ như cửa hàng thực phẩm co.op food... Hiện nay, loại hình kinh doanh này đang được coi là phù hợp và có tiềm năng phát triển do thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng trẻ tuổi Việt Nam. Thị phần loại hình kinh doanh này tại Việt Nam hiện chiếm khoảng 14,4% thị trường bán lẻ. Về loại hình chợ: là loại hình phân phối truyền thống, chợ Việt Nam hết sức phong phú. Hiện nay, khó có thể có một con số thống kê chính xác Việt Nam có bao nhiêu chợ. Tuy nhiên, cũng có thể đưa ra một con số ước lượng khoảng trên 10.000 chợ lớn nhỏ bao gồm chợ theo quy hoạch của nhà nước và chợ không theo quy hoạch. Mặc dù, trong mấy năm trở lại đây, trước sự xuất hiện và phát triển có phần lấn lướt của các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại khác, thì chợ đã và đang phải đối mặt với một nguy cơ lớn, nguy cơ mất thị phần vào tay các kênh phân phối hiện đại. Ví dụ, ở TP.HCM, có hơn 65% số chợ trên địa bàn bị xuống cấp về cơ sở hạ tầng, không đảm bảo vệ sinh môi trường, hiệu suất sử dụng chợ kém đến mức chỉ có 43% hoạt động hết công suất, tuy nhiên, chợ vẫn đóng vai trò là kênh phân phối bán lẻ chủ yếu của Việt Nam chiếm khoảng trên 40% tổng mức bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam. Mỗi vùng miền khác nhau thì chợ lại có những đặc trưng khác nhau. Chợ đã có từ rất lâu đời, đã gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam và đã trở thành một nét văn hóa đặc biệt. Tuy nhiên, cùng với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa, chợ Việt Nam đã phát triển một cách tự do, không có quy hoạch dẫn đến việc chợ cóc nổi lên lấn chiếm cả đường đi, các chợ mới được xây dựng với vốn đầu tư lớn lên đến hàng tỷ đồng lại không thể hoạt động vì không có người mua kẻ bán dẫn đến chết yểu. Thực trạng chợ tự phát không những gây nên cảnh mất trật tự giao thông, ô nhiễm vệ sinh môi trường, không chỉ đe dọa đến sức khoẻ, tính mạng người tiêu dùng, mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các chợ xây dựng theo quy hoạch trong cùng khu vực . Chợ tự phát mọc lên như nấm đã mang lại không ít tiện ích nhưng vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm không thể đảm bảo được. Loại hình cửa hàng tạp hóa: đây cũng là loại hình kinh doanh truyền thống chủ yếu và rất phát triển ở Việt Nam. Ở Việt Nam, loại hình cửa hàng tạp hóa chiếm khoảng hơn 20% doanh thu bán lẻ của cả nước (năm 2008). Về số lượng thì loại hình cửa hàng này có một số lượng khổng lồ, năm 2005, có khoảng 9000 cửa hàng và đến năm 2008 con số này đã vượt qua con số 10.000 cửa hàng. Tuy nhiên, loại hình cửa hàng này ở nước ta cũng phát triển một cách tự phát, mạnh ai nấy làm, thiếu tính quy hoạch và thiếu tính liên kết do đó sẽ khó có thể cạnh tranh được với trình độ quản lý và công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp nước ngoài khi họ vào kinh doanh. Ngoài ra, còn có rất nhiều gánh hàng rong, xe đẩy hàng, là những loại hình rất điển hình ở Việt Nam, nhờ mang tính thuận tiện cao, nên các loại hình này cũng rất được khách hàng ưa chuộng. Tuy nhiên, việc các loại hình này phát triển một cách tự do có thể làm nguyên nhân gây ra mất an ninh, mất cảnh quan, gây ảnh hưởng đến an toàn giao thông…đòi hỏi phải có sự tính toán và quy hoạch phù hợp. Thực trạng kinh doanh cửa hàng tiện ích tại Việt Nam. 1. Khái quát về kinh doanh cửa hàng tiện ích ở Việt Nam. Loại hình cửa hàng tiện ích bắt đầu bùng nổ ở Việt Nam từ năm 2006 với sự mở đầu là quyết định và hành động táo bạo của Trung Nguyên trong dự án xây dựng chuỗi cửa hàng tiện ích G7 mart. Nếu như cuối năm 2005 Việt Nam có khoảng 1000 cửa hàng tiện lợi hoạt động thì hiện nay con số đó là 2000 cửa hàng với khoảng 10 hệ thống, đa số được ra đời trong khoảng 2-3 năm trở lại đây như : Hapromart, best and buy, co.op, small mart 24/7, 365 days, V-24h, shop$go, speedy…và tình hình cạnh tranh đang diễn ra hết sức sôi động. Mỗi hệ thống lại có một điểm khác biệt riêng: Co-op Mart coi cửa hàng Co-op là cánh tay nối dài. Tận dụng hệ thống cửa hàng của các hợp tác xã thành viên, Co-op đào tạo bán hàng, bày hàng, quản lý và phân phối hàng với giá rẻ để nâng cấp thành cửa hàng Co-op có người phục vụ, bán hàng chất lượng theo đúng giá. Hiện nay, chuỗi cửa hàng co.op có khoảng 34 cửa hàng hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Công ty G7 cũng làm tương tự với hệ thống tiệm tạp hóa, cộng thêm việc đem lại lợi nhuận cho các cửa hàng này bằng hệ thống biển quảng cáo cho các hãng sản xuất, dịch vụ ngân hàng... Phạm Trang lại chọn cách tự đầu tư từng cửa hàng, với số vốn từ 800 triệu đến 1 tỷ đồng. Sự khác biệt của Small Mart 24h/7 là dịch vụ giao báo, sữa và bánh ngọt buổi sáng cho các hộ gia đình, giao hàng tận nhà cả ngày lẫn đêm, trong bán kính cách cửa hàng 5 km. Shop&Go đã có 29 cửa hàng tại TP.HCM. Ngoài các sản phẩm tiêu dùng thông thường, các cửa hàng này còn được trang bị khá đầy đủ các dịch vụ như máy rút tiền, thẻ điện thoại, tạp chí... Hiện cùng với việc hoạt động 24 giờ mỗi ngày và suốt 7 ngày trong tuần, Shop&Go còn khuyến mãi giảm giá nhiều loại sản phẩm từ 10%- 30% hay mua 1 tặng 1... Cửa hàng tiện lợi V-24h ở TP HCM đưa các loại hình dịch vụ tiện ích khác vào phục vụ khách hàng như bán báo, xôi, dịch vụ thẻ ATM, thanh toán chi phí dịch vụ như điện thoại, điện nước, bán bảo hiểm, thanh toán thẻ tín dụng... Tuy nhiên, hầu hết các hệ thống đều đang trong tình trạng: chấp nhận chịu lỗ để đón cơ hội. Biểu đồ 1: Nguồn: bài “người tiêu dùng thích sự tiện lợi”-báo Sài Gòn tiếp thị (14.1.2009) Theo số liệu từ kết quả các cuộc điều tra thị trường do báo Sài Gòn Tiếp Thị thực hiện trong 3 tháng cuối năm 2008 thì cho thấy, thì thị phần của loại hình cửa hàng tiện lợi đang ở mức thấp nhất với 0,8%, trong khi của siêu thị là 48,2%, cửa hàng chuyên là 14,4%, tiệm tạp hóa là 22,1 %, chợ là 13,1% và các kênh khác như hàng rong, trung tâm thương mại…chiếm 1,4%. Người dân Việt Nam dường như chưa quen với loại hình kinh doanh này. Đặc biệt ở thời điểm sau 12h đêm, các cửa hàng tiện ích dường như vắng tanh, không có khách, có chăng chỉ là khách nước ngoài. Để có thấy rõ được tình hình hoạt động kinh doanh của loại hình kinh doanh này, sau đây sẽ là một số phân tích về một vài hệ thống cửa hàng cụ thể. 2. Một số hệ thống cửa hàng tiện ích tiêu biểu 2.1. Hệ thống cửa hàng tiện ích G7mart. 2.1.1. Ý tưởng của G7mart. Trong xu thế hội nhập, việc mở cửa thị trường bán lẻ là tất yếu, trong khi đó, thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn còn rất nhỏ lẻ manh mún, cần phải được tổ chức, sắp xếp lại, hiện đại hóa các hình thức kinh doanh, liên kết lại thành một hệ thống phân phối nội địa hiện đại, có như vậy mới có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong hoàn cảnh đó, năm 2006 công ty trách nhiệm hữu hạn G7 được thành lập với số vốn đầu tư 395 triệu USD để trở thành hệ thống cửa hàng tiện ích đầu tiên do doanh nghiệp trong nước thực hiện nhằm hỗ trợ và phát triển thương hiệu Việt dựa trên ý tưởng “ kết hợp và tối ưu hóa phân phối với hệ thống bán lẻ với lưu lượng hàng hóa luân chuyển từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng lớn nhất Việt Nam hiện nay là các cửa hàng tạp hóa”. Ý tưởng khác biệt của G7 là xây dựng chuối cửa hàng tiện lợi dựa trên nền sản xuất sẵn có của các cửa hàng tạp hóa cũ, nhân lực tại chỗ là chủ và gia đình chủ cửa hàng. Theo đó, các cửa hàng tạp hóa sẵn có sẽ được nâng cấp, điều chỉnh và thống nhất nguyên tắc hoạt động và công nghệ phục vụ, bán hàng sau đó sẽ cho gắn nhãn hiệu G7mart. Như vậy sẽ vừa tiết kiệm được chi phí công sức, vừa phù hợp với mức sống, tập quán cửa người Việt Nam là quen mua sắm ở các cửa hàng tạp hóa. Như vậy, G7 đã đánh vào thị trường nhỏ lẻ, gần khu dân cư, và theo hình thức này, G7 sẽ liên kết với cả các nhà phân phối, các nhà sản xuất trong nước, tạo nên một hệ thống phân phối thống nhất hoàn chỉnh. Tham vọng của G7 là hệ thống G7 mart sẽ hỗ trợ mạnh mẽ chiến lược thương hiệu Việt và sẽ trở thành một hệ thống phân phối địa phương đối trọng với các tập đoàn phân phối nước ngoài. 2.1.2. Hoạt động của G7 mart Bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2006, chỉ trong vòng 2 tháng, G7 mart đã đưa vào hoạt động chuỗi cửa hàng gồm 500 cửa hàng chuẩn và 9500 cửa hàng thành viên và theo dự kiến số cửa hàng chuẩn sẽ là 10.000 vào cuối năm 2008. Tuy nhiên, mục tiêu đó của G7 Mart đã ngày càng trở nên xa vời, số lượng các cửa hàng tiện lợi mang thương hiệu G7 Mart đã không "bùng nổ" như kế hoạch và sự thật là G7mart đã không thể hoàn thành kế hoạch đặt ra. Hoạt động của G7mart cũng không thành công như dự kiến. Từ khi đi vào hoạt động, đối với các cửa hàng chuẩn G7mart, việc khai trương diễn ra khá tưng bừng nên thu hút được một lượng khách hàng tương đối đông, tuy nhiên sau khi đi vào hoạt động một thời gian, cửa hàng cứ vắng khách dần. Theo như tính toán, để một cửa hàng tiện lợi làm ăn có lãi thì doanh thu của cửa hàng phải đạt từ 10 đến 12 triệu một ngày, 350- 400 triệu một tháng. Tuy nhiên, trên thực tế, các cửa hàng này luôn trong tình trạng thu không đủ bù chi, doanh thu mỗi ngày chỉ đạt từ 5- 7 triệu đồng thậm chí có những nơi chỉ đạt từ 1- 2 triệu đồng một ngày. Nhiều cửa hàng làm ăn không hiệu quả đã phải đóng cửa hoạt động, ra đi một cách lặng lẽ. Đối với các cửa hàng thành viên, sau một thời gian hoạt động, bên cạnh những cửa hàng làm ăn tốt, thu hút thêm được nhiều khách mới thì có không ít những cửa hàng lượng khách còn ít hơn cả khi là cửa hàng tạp hóa, và cứ giảm dần theo thời gian, không thu hút được khách mới mà chủ yếu là khách hàng thân quen từ trước thậm chí một số khách hàng thân quen cũng dần dần chuyển đi mua ở những nơi khác, nhiều cửa hàng đã phải quay trở về với hình thức cửa hàng tạp hóa trước kia. Vậy thì ngyên nhân dẫn đến việc một ý tưởng hay, khởi động hoàn hảo, rầm rộ rồi cuối cùng ra đi một cách lặng lẽ là gì? Thứ nhất, thói quen tiêu dùng của người dân Việt Nam, chủ yếu vẫn là thích đi chợ, nó được định hình như một nét văn hóa rất khó thay đổi. Nếu muốn kinh doanh tốt, G7 mart phải làm gì đó để có thể thay đổi được thói quen đó. Tuy nhiên, G7 mart đã chưa làm được điều này. Thứ hai: G7mart không chủ động được nguồn hàng. Việc G7mart được tách từ một bộ phận của Trung Nguyên đã gây ra hiện tượng xung đột về lợi ích, các nhà phân phối các sản phẩm cạnh tranh với Trung Nguyên đương nhiên sẽ không thể hết lòng hợp tác với Trung Nguyên được. Do vậy, tại hầu hết các cửa hàng của Trung Nguyên vắng bóng hầu hết các đại gia như: Vinamilk, Nestle, Vinacafe…Thêm vào đó, về phía các nhà sản xuất, họ đã xây được hệ thống phân phối chính cho mình hàng chục năm, hầu hết họ đã có nhà phân phối riêng hơn nữa G7 Mart đã không cam kết được một năm doanh số là bao nhiêu trong khi những hãng khác họ làm được cho nên các nhà cung cấp đã không sẵn lòng xuất hàng cho G7 Mart. Bởi thế nỗ lực của G7 mart trong việc đàm phán với các đại gia sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng của Việt Nam là một cuộc chiến cân não vô cùng khó khăn đối với G7 mart. Thứ ba, các mặt hàng bày bán tại G7mart rất hạn chế, không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân, đặc biệt là các loại rau, củ, quả,… thực phẩm tươi sống và các đồ gia dụng. Thứ tư, vấn đề trang trí cửa hàng: G7 mart trang trí bằng những màu mát mắt và tươi trẻ (xanh, trắng), tạo nên cảm giác đối tượng phục vụ của cửa hàng là các khách hàng trẻ tuổi, trong khi đó đối với hơn 30% dân số thuộc độ tuổi từ 18 đên 35 lại là những người có xu hướng tiêu dùng ở những cửa hàng chuyên doanh, siêu thị, không ngại xa gần, không kể thời gian. Thứ năm, cách quản lý G7mart cũng cần xem xét lại: hàng hóa ban đầu cũng được nhập từ G7mart nhưng sau đó hàng trôi nổi trên thị trường được nhập từ các chủ cửa hàng cũng rất nhiều, dẫn đến hàng hóa tràn lan, chất lượng không kiểm soát được. Chủ cửa hàng là những tiểu thương với thói quen kinh doanh tự phát kiểu cũ, dẫn đến sự không thống nhất giữa các G7 mart trong khi việc tổ chức quản lý kênh vẫn rất yếu kém và không được chú ý đúng mức. Thứ sáu, giá cả ở cửa hàng tiện ích cao hơn chợ và cửa hàng tạp hóa, yếu tố dịch vụ tiện ích không đủ thuyết phục người tiêu dùng sẵn sàng bỏ thêm chi phí cho các yếu tố tiện ích đó. Do vậy, hàng hóa tại cửa hàng tiện ích G7mart kém tính cạnh tranh. Từ những bất hợp lý trên, cuối năm 2007, G7 mart đã đưa ra kế hoạch hoạt động mới với những chuyển biến tích cực: Tiến hành ký lại hợp đồng với các chủ cửa hàng tại thành phố Hồ Chí Minh để dành quyền kiểm soát 50% diện tích quầy kệ, loại bỏ những chủ cửa hàng bất hợp tác, đầu tư các cửa hàng chính chủ, cấp thẻ khách hàng thân thiết trong vòng bán kính 2km quanh cửa hàng, tung trương trình khuyến mãi ‘cào và trúng’…Đặc biệt ngày 9/8/2007, Trung Nguyên đã ký hợp tác với đối tác chiến lược Microsoft trong việc sử dụng hệ thống phần mềm để quản lý cửa hàng. Tuy nhiên, những cải cách đó cũng không mấy thành công, doanh thu cửa hàng cải thiện không đáng kể lý do là đối với các thương hiệu nổi tiếng như Uilever, P$G, Dutch Laydy, Kinh Đô…đều đã có hệ thống phân phối bài bản và chuyên nghiệp, họ hầu như chiếm tất cả các mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống. Khi G7 mart ra đời lại không thiết lập được mối quan hệ với các hệ thống phân phối cũng như nhà cung cấp, do đó trong các G7mart hàng hóa kém phong phú, không có đủ thứ mà người tiêu dùng cần. Mô hình G7 mart khi mới xuất hiện đã trở thành một tia hy vọng cho bán lẻ Việt Nam, tất cả những ai đặt niềm tin vào tương lai của các doanh nghiệp nội địa đều kỳ vọng rất lớn và tin tưởng vào sự thành công của G7 mart. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mô hình này không thành công như mong đợi. Chuỗi cửa hàng speedy SPEEDY là chuỗi cửa hàng tiện lợi của Công ty MAVISA đầu tư trên địa bàn TP.HCM. Hệ thống cửa hàng tiện lợi Speedy, mở tại các chung cư mới. Ra đời đầu năm 2007, hiện Speedy phát triển được 10 cửa hàng, bán cả ngày đêm với đủ loại thức ăn nhanh, rau củ quả thịt tươi, đồ uống, chăm sóc sắc đẹp, sách báo, đồ chơi... giao hàng tận nhà bất kể giờ nào. Trong 2 năm 2007-2008, công ty đã mở chuỗi cửa hàng tiện lợi với 13 thành viên, tuy nhiên cũng đã phải đóng cửa tới 3 cửa hàng. Hiện tại, hệ thống cửa hàng này vẫn kinh doanh trong tình trạng thu đủ bù chi. Song, trong các mô hình cửa hàng tiện lợi đang kinh doanh tại Việt Nam, Speedy vẫn là một trong số ít những mô hình được coi thành công với lượng khách hàng đến mua đông hơn so với các hệ thống khác và rất có triển vọng phát triển. Nguyên nhân là do: Thư nhất, sự đa dạng hóa mặt hàng: chỉ trong vòng chưa đầy 50m2, Speedy bày bán khoảng hơn 2000 mặt hàng, cung cấp đầy đủ các loại mặt hàng phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân mà thế mạnh là các loại mặt hàng thực phẩm tươi sống. Speedy còn bày bán cả những thực phẩm dành riêng cho người ăn kiêng, người bị tiểu đường…Ngoài ra, ở mỗi cửa hàng khác nhau, cửa hàng còn cung cấp những sản phẩm khác nhau, phù hợp với nhu cầu khác nhau của người dân ở từng khu vực. Chẳng hạn như, tại trung cư Sky Garden, nơi có nhiều người nước ngoài sinh sống đặc biệt là người Hàn Quốc cho nên, các cửa hàng ở đây có bày bán rất nhiều sản phẩm xuất sứ từ Hàn Quốc: kem, mì, rong biển… Giá cả cạnh tranh, chiến lược giá ở cửa hàng là chiến lược giá ổn định, duy trì gần ngang bằng với các siêu thị Co.op mart. Đồng thời, có tính linh hoạt tham khảo giá của khách hàng và các cửa hàng lân cận để có mức giá phù hợp mà người mua dễ chấp nhận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111278.doc
Tài liệu liên quan