Đề tài Quy trình kiểm toán trong kiểm toán nội bộ ở Việt Nam

 Cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, kiểm toán đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Tuy mới xuất hiện ở nước ta một quãng thời gian chưa lâu song kiểm toán cũng đã có được một địa vị pháp lý vững chắc, được Nhà nước ta bảo hộ, tạo điều kiện cho hoạt động kiểm toán phát triển.

 Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải tự vươn lên bằng chính sức lực của bản thân mình, kiểm toán nội bộ giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà từ đó ra các quyết định quản lý, đảm bảo kinh doanh một cách có lãi. Sự phát triển của kiểm toán nội bộ diễn ra rộng khắp xuất phát từ quá trình hoạt động của các bộ phận kiểm toán nội bộ tại từng doanh nghiệp và tổ chức Chính phủ. Những hoạt động này là cơ sở cho sự thành công của các tổ chức đó. Sự tiến triển trong tương lai của kiểm toán nội bộ cũmg sẽ lớn hơn qua những nỗ lực nghề nghiệp trên một phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên về cơ bản, thành công của kiểm toán nội bộ bắt nguồn từ những kết quả trong các hoạt động cụ thể của doanh nghiệp, các tổ chức.

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy trình kiểm toán trong kiểm toán nội bộ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ian của đối tượng kiểm toán. Đó là việc xác định những phương pháp kiểm toán và cùng với việc xác định mục tiêu hướng tới những nghiệp vụ cụ thể. Xác định trọng tâm của việc kiểm toán: Căn cứ vào những vấn đề còn tồn đọng trong kết quả kiểm toán năm trước (nếu có) và tình thực tế của công ty năm nay để xác định trọng tâm của cuộc kiểm toán. Đồng thời chú trọng đến những vấn đề còn gặp nhiều sai phạm trong nghiệp vụ kiểm toán. Kỹ thuật kiểm toán áp dụng: Tuỳ vào từng công việc cụ thể và tình hình, điều kiện của công ty để áp dụng kỹ thuật kiểm toán thích hợp nhất. Yêu cầu về nhân lực: Bố trí kiểm toán viên có trình độ chuyên môn thích hợp với từng công việc cụ thể. Cuối cùng là chuẩn bị cơ sở vật chất và phương tiện đi lại để chuẩn bị thực hiện. 2. Thực hiện cuộc kiểm toán. Thực hiện cuộc kiểm toán là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế hoạch, chương trình kiểm toán. Trong bước công việc này, tính nghệ thuật trong tổ chức bao trùm suốt quá trình. Và ở giai đoạn này đã có sự tiếp cận và kiểm toán viên đã thu thập đủ thông tin về tổ chức và chương trình cần được thẩm tra. Lúc này nhiệm vụ của kiểm toán viên là phải chỉ đạo và kiểm soát cuộc kiểm toán nhằm đạt được kết quả như mong muốn. Tuy nhiên việc thực hành kiểm toán phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản: Thứ nhất: Kiểm toán phải tuyệt đối tuân thủ chương trình kiểm toán đã được xây dựng. Trong mọi trường hợp, kiểm toán viên không được thay đổi chương trình. Thứ hai: Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thường xuyên ghi chép những phát giác, những nhận định về các nghiệp vụ, các con số, các sự kiện...nhằm tích luỹ bằng chứng, nhận định cho những kết luận kiểm toánvà loại trừ những ấn tượng, nhận xét ban đầu không chính xác về nghiệp vụ, các sự kiện thuộc đối tượng kiểm toán. Thứ ba: Định kỳ tổng hợp kết quả kiểm toán để nhận rõ mức độ thực hiện so với khối lượng công việc chung. Thông thường cách tổng hợp rõ nhất là dùng các bảng kê chênh lệch hoặc bảng kê xác minh. Thứ tư: Mọi điều chỉnh về nội dung, phạm vi kiểm toán, trình tự kiểm toán...đều phải có ý kiến thống nhất cử người phụ trách chung công việc kiểm toán (chủ thể) và người ký thư mời và hợp đồng kiểm toán (khách hàng)- nếu có. Mức độ pháp lý của những điều chỉnh này phải tương ứng với tính pháp lý trong lệnh kiểm toán hoặc hợp đồng kiểm toán. - Phát hiện sớm các vấn đề: Điều quan trọng là các vấn đề phải được phát hiện và giải quyết sớm. Ví dụ, khó khăn trong việc hợp tác giữa các nhân viên của một bộ phận có thể làm chậm công việc trong lĩnh vực đó. Thảo luận vấn đề với giám đốc ngay khi vấn đề phát sinh sẽ giúp cuộc kiểm toán có thể hoàn thành đúng thời hạn. - Trợ giúp kỹ thuật: Những vấn đề phức tạp cần có những quyết định về kỹ thuật có thể phát sinh trong cuộc kiểm toán. Những vấn đề đó thường đòi hỏi việc nghiên cứu, bàn luận sâu rộng với nhân viên nghiệp vụ và sự phối hợp của các giám sát viên cấp trên, và kiểm toán trưởng nếu cần. Những vấn đề này sẽ được kiểm toán viên chú ý và trợ giúp khi cần thiết. - Gặp gỡ chỉ đạo: Các cuộc gặp mang tính giám sát tại địa điểm kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, nhằm kiểm tra tiến độ thực hiện và chỉ đạo về mặt kỹ thuật cho cuộc kiểm toán. Những ý kiến sau khi kiểm tra phải viết thành văn bản, bao gồm những công việc cần bổ sung, những giải thích cần có, những vấn đề đặt ra, và những việc cần thay đổi. Và dựa vào đó để có hướng chỉ đạo tiến hành những công việc tiếp theo. - Chỉ dẫn kiểm toán: bất cứ khi nào kiểm toán viên nội bộ có chỉ dẫn kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ nên soạn ra bản tóm tắt những thiếu sót có thể xảy ra, còn gọi là “bản chỉ dẫn”. Điều quan trọng là bản chỉ dẫn này được lập ngay khi kiểm toán viên chỉ ra vấn đề quan trọng còn tồn tại. Điều này làm cho tất cả các cấp giám sát chú ý tới các vấn đề như vậy ngay khi bắt đầu cuộc kiểm toán. Điều này cũng được coi là một kiểm tra để dảm bảo rằng tất cả các chỉ dẫn đều được tuân thủ. Giám sát viên cũng phải đảm bảo rằng có tài liệu chứng minh cho sự sắp đặt cuối cùng của ban chỉ dẫn trước khi hoàn thành cuộc kiểm toán. - Kỹ thuật kiểm toán chuyên môn hoá: Nhân viên kiểm toán được khuyến khích sử dụng các biện pháp kỹ thuật như chọn mẫu thống kê, các phần mềm kiểm toán khi có thể. Khi những kỹ thuật này có thể áp dụng cho việc trắc nghiệm, thì việc chọn mẫu và các kế hoạch khác phải được xem xét một cách cẩn thận để đảm bảo kết quả tốt nhất với hao phí các nguồn lực ít nhất. - Báo cáo định kỳ: trong những cuộc kiểm toán lớn hơn, hoặc những cuộc kiểm toán tiến hành cùng một lúc ở nhiều địa điểm khác nhau thì yêu cầu báo cáo về tiến độ hàng tuần, hoặc mỗi tuần hai lần là rất hữu ích. Những báo cáo này cung cấp những thông tin có ích cho giám sát viên cũng như việc kiểm soát cho kiểm toán viên đang phụ trách. Những báo cáo này bao gồm những thông tin về thời gian dự kiến và thời gian thực tế, thời gian ước tính để hoàn thành, số lượng, nội dung của các chỉ dẫn và phát hiện. Đây là một báo cáo được lập hàng tháng của mỗi văn phòng cơ sở dể cung cấp cho kiểm toán trưởng thông tin về hiện trạng các cuộc kiểm toán đang tiến triển hoặc chương trình hoạt động trong quý sau. Báo cáo được sử dụng để kiểm soát đối với những cuộc kiểm toán đã lập kế hoạch và đang thực hiện để đảm bảo rằng các cuộc kiểm toán đã bắt đầu và hoàn thành đúng thời hạn. -Điều chỉnh: Trong quá trình thực hiện kiểm toán, thường cần có những thay đổi trong kế hoạch kiểm toán. Do đó cần có sự linh hoạt trong các kế hoạch để đáp ứng những yêu cầu bất thường. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn công ty, kiểm toán viên có thể gặp phải những tình huống, sự kiện bất ngờ, yêu cầu sửa đổi hoặc bỏ đi một phân đoạn kiểm toán, phát hiện một lĩnh vực mới phải thẩm tra, và những thay đổi trong nhân sự kiểm toán. Trong một số trường hợp có thể không giữ đúng thời hạn, phải dùng thêm giờ công để hoàn thành một phân đoạn công việc. Trong những tình huống này, sửa đổi kế hoạch là cần thiết và phải được chấp nhận phù hợp. Việc chỉ đạo này chỉ ra những kỹ thuật chưa được lập kế hoạch hoặc diễn giải. Trong một số trường hợp, vấn đề này có thể làm ngân sách không chính xác., trong các trường hợp khác có thể có các vấn đề đang được thực hiện. Việc kiểm tra chặt chẽ của kiểm toán sẽ ngăn ngừa được sự sai lệch thời hạn do thiếu nhân viên, chậm giải quyết các vấn đề, giám sát không đầy đủ và quá chú ý đến chi tiết. - Những phát hiện có ý nghĩa: Bản chất của những phát hiện phải được thẩm tra trong thời gian kiểm toán để xác định chúng có ích gì không? Có nhiều phát hiện chỉ có tính chất thủ tục thứ yếu không? Những phát hiện có liên quan đến hiệu quả nghiệp vụ không? Các viên chức điều hành có cho rằng những phát hiện này là có ích không? Trả lời những câu hỏi này sẽ cho biết những phát hiện đã triển khai có ý nghĩa hay không. - Đánh giá sau kiểm toán: Khi lúc kết thúc mỗi công việc, kiểm toán viên phụ trách đánh giá nhiệm vụ được giao về các yêú tố như: phương pháp tiếp cận, thời gian hao phí, các lĩnh vực trọng điểm, bố trí nhân viên và những đề xuất cho những lần kiểm toán sau. Những đánh giá được coi là bài học tốt cho nhân viên, đồng thời là cơ sở lập kế hoạch cho lần kiểm toán sau. Những đánh giá này được dùng để trình bày các biện pháp kỹ thuật đã được chứng tỏ một cách thành công, cũng như những cố gắng không mang lại hiệu quả. Những đánh giá sau kiểm toán, cũng như những đánh giá tổng kết khác cũng là thông tin có ích trong việc tự kiểm toán công việc đã thực hiện. 3.Kết thúc kiểm toán Để kết thúc kiểm toán, cần đưa ra kết luận kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán hoặc biên bản kiểm toán. Và trong giai đoạn kết thúc kiểm toán kiểm toán viên phải tiến hành hàng loạt công việc cụ thể: xem xét các khoản nợ ngoài dự kiến, xem xét các sự kện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ, xem xét giả thuyết về tính liên tục trong hoạt động của đơn vị, thu thập thư giải trình của Ban giám đốc đơn vị, tổng hợp kết quả kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán. Nội dung và hình thức của kết luận hay báo cáo kiểm toán có thể khái quát chung như sau: Kết luận kiểm toán là sự khái quát kết quả thực hiện các chức năng kiểm toán trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Vì vậy, kết luận kiểm toán phải đảm bảo yêu cầu cả về nội dung cũng như tính pháp lý. -Về nội dung: Kết luận kiểm toán phải phù hợp, đầy đủ. Sự phù hợp của kết luận kiểm toán là sự nhất quán giữa kết luận nêu ra với mục tiêu kiểm toán. Sự đầy đủ của kết luận là sự bao hàm toàn bộ yêu cầu, phạm vi kiểm toán đã xác định và đã điều chỉnh (nếu có); mọi khía cạnh khác nhau về nội dung đã xác định trong yêu cầu và mọi bộ phận thuộc phạm vi kiểm toán đã nêu trong kế hoạch kiểm toán hoặc được điều chỉnh đều phải bao hàm trong kết luận kiểm toán. - Tính pháp lý của kết luận trước hết đỏi hỏi những bằng chứng tương xứng theo yêu cầu của các quy chế, chuẩn mực, pháp luật. Đồng thời tính pháp lý cũng đỏi hỏi các kết luận phải chuẩn xác trong từ ngữ và văn phạm. Để đảm bảo các yêu cầu pháp lý, kết luận kiểm toán được quy định thành chuẩn mực với 4 loại phù hợp các tình huống cụ thể: 1.ý kiến chấp nhận toàn bộ được sử dụng trong tình huống các bảng khai tài chính trung thực, rõ ràng và lập đúng chuẩn mực kế toán. 2. ý kiến loại trừ được sử dụng khi có những điểm chưa xác minh được rõ ràng hoặc còn có những sự kiện, hiện tượng chưa thể giải quyết xong trước khi kết thúc kiểm toán. 3. ý kiến bác bỏ được sử dụng khi không chấp nhận bảng khai tài chính. 4. ý kiến từ chối được đưa ra khi không thực hiện được kế hoạch hay hợp đồng kiểm toán do điều kiện khách quan đưa lại, thiếu điều kiện thực hiện, thiếu chứng từ, tài liệu kế toán... Báo cáo kiểm toán là thể hiện chức năng kiểm toán và kết luận kiểm toán. Và một trong những giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ quá trình kiểm toán nội bộ là lập và gửi các báo cáo. Báo cáo là phương tiện chủ yếu giúp nhiều người (trong và ngoài công ty) biết được công việc của kiểm toán viên nội bộ và đánh giá sự đóng góp của anh ta. Báo cáo cũng là bằng chứng trải dài nhất về đặc tính nghề nghiệp trong hoạt động kiểm toán nội bộ của anh ta. Một công việc kiểm toán có thể tốt nhưng sẽ bị vô hiệu hoá bởi một báo cáo tồi. Báo cáo kiểm toán phản ánh: các mục tiêu nền tảng, các chiến lược ủng hộ và chính sách chủ yếu, các trình tự bao trùm công việc kiểm toán, phẩm chất và thành tích của nhân viên kiểm toán. Như vậy, báo cáo kiểm toán phối hợp toàn bộ nỗ lực kiểm toán nội bộ và tạo ra một căn cứ cho việc đánh giá chung, do vậy có nhiều chức năng quan trọng đối với cả kiểm toán viên và ban quản lý. - Kết luận dựa vào kiểm toán: Báo cáo dùng để tổng kết bằng chứng đã thu thập trong thời gian kiểm toán, có trình bày những phát hiện và kết luận. Nó thể hiện kết quả làm xong của kiểm toán viên. - Nêu rõ tình trạng: Báo cáo cung cấp cho tổ chức một bảng tóm tắt các lĩnh vực cần phải cải tiến. Nó có thể coi là một công cụ thông tin cho quản lý về các nghiệp vụ của tổ chức. Nó cũng phần nào được coi như một việc đánh giá thành tích, nêu ra những lĩnh vực tốt xấu, và phạm vi có thể cải tiến. - Khuôn khổ của hành động quản lý: Những kiến nghị trong báo cáo đại diện cho những kết luận của kiểm toán viên về những hành động phải có của quản lý. Dựa vào tình hình đã nêu ra và những nguyên nhân đã nhận thức, các kiến nghị đã được sử dụng như một khuôn khổ cho hành động sửa chữa những thiếu sót và cải tiến các nghiệp vụ. - Làm sáng tỏ cách nhìn được kiểm toán: Người muốn kiểm toán thường muốn nói rõ những tình tiết giảm nhẹ hoặc muốn làm sáng tỏ các vấn đề bất đồng. Việc trình bày rõ ràng quan điểm của người được kiểm toán, có ý kiến nhận xét của kiểm toán viên, sẽ giúp xác định các vấn đề cho quản lý và cung cấp cơ sở đi đến những quyết định về những hành động cần thiết. Hình thức và nội dung báo cáo cũng rất khác nhau. Chúng ta có thể nêu ra cách tiếp cận chung và đánh giá ngắn gọn về giá trị của chúng: - Nội dung toàn diện: Một số báo cáo kiểm toán nội bộ cố gắng trình bày một lượng lớn thông tin đã được thẩm tra. Mục tiêu có thể là cung cấp một tài liệu tham khảo cho người sử dụng báo cáo kiểm toán. Thông tin này có thể thuộc về tình hình đã qua hoặc tình hình hiện tại. Có thể bao gồm công việc và kết quả của các nghiệp vụ hoặc thông tin tài chính. - Mô tả công việc kiểm toán: Các bước kiểm toán, cũng như phạm vi đối chiếu và trắc nghiệp cụ thể đều được miêu tả. Trong một chừng mực nào đó cách làm này có phần chồng chéo với quy định về trình tự nói chung trong cẩm nang kiểm toán. Vấn đề ở đây là người đọc báo cáo quan tâm như thế nào đến chi tiết của trình tự, và mục đích phục vụ của báo cáo là gì. - Giải thích chi tiết những phát hiện kiểm toán: Một cách tiếp cận có liên quan chặt chẽ của một số kiểm toán viên nội bộ là đi vào khối lượng chi tiết rất lớn xung quanh kết quả của nhiều loại công việc kiểm toán. Người đọc báo cáo có thể bỏ qua những chi tiết rất quan trọng, do đó nếu có thể thì chúng ta nên ra sức tổng kết những phát hiện của kiểm toán. - Tập trung vào những vấn đề quan trọng: Cách tiếp cận thường dùng trong các báo cáo viết là tập trung vào những vấn đề quan trọng- tức là loại vấn đề mang nặng tính chất chủ trương, các phương pháp nghiệp vụ, việc sử dụng các nguồn lực, thành tích của lực lượng lao động và những kết quả đạt được. Cũng có khi những vấn đề có ý nghĩa đó liên quan đến hành động đã hoàn thành, nhưng trong trường hợp này, vấn đề có ý nghĩa là tương xứng với việc lập báo cáo cụ thể. Ưu điểm đặc biệt của việc tập trung vào những vấn đề là các nhà quản lý nhận được những thông tin mà họ cần., không phải vất vả đọc quá nhiều chi tiết. Đó là cách tiếp cận mà những người lãnh đạo kiểm toán nội bộ rất muốn theo. III. Khái quát quy trình kiểm toán hàng tồn kho tại công ty Điện lực I. Do kết quả kiểm toán chủ yếu phục vụ cho quá trình quản trị nội bộ và không có giá trị pháp lý cao như các cuộc kiểm toán do kiểm toán độc lập hay kiểm toán nhà nước tiến hành, vì vậy quy mô và quá trình thực hiện cuộc kiểm toán nội bộ cũng đơn giản hơn nhiều so với các loại kiểm toán khác. Tuy nhiên kiểm toán nội bộ của công ty cũng thực hiện kiểm toán đầy đủ các khoản mục và tuân thủ tương đối đầy đủ các bước theo quy định. Trong phạm vi bài viết, em chỉ nghiên cứu về kiểm toán hàng tồn kho – là phần hành rất được chú trọng trong quy trình kiểm toán tại công ty điện lực I. 1. Chuẩn bị kiểm toán. Bước 1: Xác định các mục tiêu và trọng tâm cuộc kiểm toán. Mục đích của cuộc kiểm toán là cung cấp thông tin giúp Giám đốc công ty và các đơn vị có biện pháp điều hành, quản lý hoạt động của đơn vị. Giúp cho các đơn vị được kiểm toán chấn chỉnh công tác kế toán tài chính của mình. Do lực lượng nhân sự của Phòng Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ là có hạn nên không thể thực hiện quy trình kiểm toán đầy đủ cho tất cả các khoản mục. Vì vậy, Phòng sẽ lựa chọn trọng tâm kiểm toán cho từng năm. Ví dụ: Năm 2000 trọng tâm kiểm toán là khoản mục tài sản cố định. Năm 2001 trọng tâm kiểm toán là khoản mục hàng tồn kho. Năm 2002 trọng tâm kiểm toán là khoản mục công nợ. Để xác định được trọng tâm này phải căn cứ vào những vấn đề còn tồn đọng trong kết quả kiểm toán năm trước và tình hình thực tế của các đơn vị và Công ty. Ví dụ năm 2001, trọng tâm kiểm toán là khoản mục hàng tồn kho. Do hàng tồn kho của các đơn vị thường có giá trị không cao so với tổng giá trị tài sản lưu động nhưng có rất nhiều chủng loại và được lưu ở nhiều kho, địa điểm khác nhau. Đồng thời các chương trình máy tính về quản lý và hạch toán hàng tồn kho mới đưa vào sử dụng cuối năm 2000, các đơn vị thực hiện áp dụng chương trình này còn nhiều lúng túng, nên việc phản ánh kịp thời, chính xác giá trị hàng tồn kho còn nhiều vấn đề đặt ra. - Đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát: Công ty có quy mô lớn, có rất nhiều đơn vị thành viên và phân tán ở các đơn vị phía Bắc. Hơn nữa, mỗi đơn vị ở các tỉnh có những kho riêng, với nhiều loại hàng tồn kho phục vụ cho cả hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động xây dựng cơ bản. Làm cho công tác quản lý, hạch toán hàng tồn kho là rất khó khăn, phức tạp. Vì vậy, rủi ro kiểm toán đặc biệt đối với khoản mục hàng tồn kho được đánh giá tương đối cao. . Bước 2: Ước lượng và sắp xếp thời gian hợp lý. Công tác lên lịch trình kiểm toán và sắp xếp thời gian kiểm toán đã được trưởng phòng Phòng Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ lập vào đầu năm. Thời gian kiểm toán thường là vào giữa năm từ tháng 5 đến tháng 11. Niên độ kế toán kiểm tra là theo các quý hoặc theo các tháng đầu năm. Thời gian này đảm bảo cho kiểm toán viên có thể vừa thực hiện kiểm toán vừa góp ý cho các đơn vị để giải quyết ngay các sai sót. Nên tốc độ kiểm toán nhanh hơn, đây cũng là một ưu điểm lớn so với loại hình kiểm toán khác. Dựa trên các nội dung trên, trưởng phòng Phòng Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ lập bản kế hoạch sơ bộ và trình lên Giám đốc phê duyệt để có kế hoạch gửi thông báo xuống cho các đơn vị được kiểm toán. Bước 3: Lựa chọn đơn vị kiểm toán và nhân viên thực hiện kiểm toán. Để thực hiện việc kiểm tra vật tư, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá đơn vị đã thành lập hội đồng kiểm kê và chỉ đạo xử lý kiểm kê gồm có Giám đốc xí nghiệp, đại diện Phòng Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ của Công ty, Kế toán trưởng, trưởng phòng kỹ thuật, trưởng phòng vật tư, thủ kho, trưởng phòng tài chính và một số nhân viên khác thực hiện kiểm tra ở từng kho, phản ánh giá trị hiện có trong kho. Đối với vật tư đã xuất dùng, xác định rõ người, đơn vị sử dụng ký xác nhận. Đối với sản phẩm dở dang kiểm kê, khối lượng thực hiện ở từng công đoạn, xác định giá trị theo giá kế hoạch và phân rõ theo khoản mục. Bước 4: Thu thập thông tin, nghiên cứu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Các đơn vị trực thuộc phải thường xuyên gửi các báo cáo quyết toán để Phòng Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ kiểm tra trước khi trình Công ty duyệt quyết toán và các báo cáo về tình hình hoạt động của đơn vị mình khi có yêu cầu của Phòng. Do đó, kiểm toán viên có thể nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả của hệ thống kiểm soát của các đơn vị một cách thường xuyên. Ví dụ như ở đơn vị trực thuộc là Xí nghiệp Cơ điện vật tư- đơn vị hạch toán phụ thuộc, có tư cách pháp nhân, hệ thống kinh doanh theo phân cấp tài chính của công ty Điện lực I và Tổng Công ty Điện lực Việt Nam và các chính sách chế độ tài chính được quy định cho các doanh nghiệp nhà nước. Xí nghiệp Cơ điện vật tư thực hiện chức năng và nhiệm vụ sau: + Sửa chữa, cải tạo, phục hồi và chế tạo máy biến áp. + Sản xuất, chế tạo các cấu kiện và thiết bị đo đếm cho lưới điện phân phối. + Sữa chữa cơ điện và các thiết bị động lực. + Kinh doanh, cung ứng và bảo quản vật tư thiết bị điện. + Xây lắp và sửa chữa đường dây, trạm biến áp từ 110Kv trở xuống. Các chính sách chủ yếu liên quan đến hệ thống hàng tồn kho của Công ty mà xí nghiệp phải thực: + Lập các sổ kế toán theo từng quý. + Hạch toán kế toán tổng hợp hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. + Công tác hạch toán chi tiết hàng tồn kho theo phương pháp thẻ song song. + Giá thực tế vật tư xuất kho trong các đơn vị thực hiện theo phương pháp “tính giá thực tế bình quân gia quyền”. Trường hợp vật tư thiết bị chuyên dùng cho xây dựng cơ bản, tính giá số vật tư thiết bị này là: “giá thực tế đích danh”. + Đối với sản phẩm dở dang được tính theo giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. + Phương pháp phân bổ chi phí: chi phí sản xuất chung được phân bổ theo sản phẩm, chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ theo doanh thu. Với chức năng và nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động của mình đơn vị chứa đựng một lượng hàng tồn kho khá lớn, chủng loại đa dạng. Hàng tồn kho của xí nghiệp chủ yếu gồm: thành phẩm dây cáp điện, hòm công tơ, máy biến áp, thiết bị, sản phẩm dở dang,vật tư, hàng hoá... Một số tồn tại kiểm toán báo cáo tài chính đối với hàng tồn kho mà kiểm toán viên cần kiểm tra: + Đơn vị chưa áp dụng đầy đủ chương trình quản lý hàng tồn kho bằng máy vi tính. + Quy trình lập, luân chuyển chứng từ chưa phù hợp với quy định. + Hàng tồn kho còn tồn đọng nhiều. ** Trên cở đó kiểm toán viên đưa ra những phương pháp áp dụng kỹ thuật kiểm toán. + Nội dung kiểm toán: Khắc phục những tồn tại kiểm toán năm trước. + Phạm vi kiểm toán: Đối với hàng tồn kho dùng phương pháp chọn mẫu để kiểm tra. + Xác địng trọng tâm kiểm toán: Chú ý các mặt hàng tồn kho chủ yếu, có giá tri lớn, dễ có nhiều sai sót theo quan điểm của kiểm toán viên, những nghiệp vụ phát sinh bất thường. + Yêu cầu về nhân lực: Bố trí kiểm toán viên thực hiện kiểm toán, xuống một số kho hàng trọng điểm thực hiện quan sát vật chất, kiểm tra thủ tục kiểm kê. + Kỹ thuật kiểm toán được áp dụng: Nội dung công việc Người thực hiện Thời gian 1 2 3 1-Kiểm tra sự chấp hành các thủ tục kiểm soát nội bộ hàng tồn kho Xác định hệ thống Tiến hành kiểm tra hệ thống 2- Khảo sát nghiệp vụ hàng tồn kho Thiết kế phạm vi kiểm toán: Khảo sát những nghiệp có giá trị lớn, sát ngày báo cáo, những nghiệp vụ nghi ngờ. Tiến hành khảo sát và lập bảng khảo sát nghiệp vụ. 3- Kiểm tra chi tiết 3.1- Kiểm tra khối lượng hàng tồn kho Thực hiện kiểm tra hồ sơ kiểm kê Chọn một số mặt hàng kiểm kê lại. Chú ý những lô hàng để riêng, thùng chứa rỗng, hàng kém, mất phẩm chất. Thực hiện đối chiếu kết quả kiểm kê của kiểm toán viên với kết quả kiểm kê của đơn vị tại thời điểm đầu năm. 3.2- Kiểm tra giá trị hàng tồn kho 3.2.1. Kiểm tra chi tiết tài khoản nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ. Chọn một số mặt hàng: thực hiện đối chiếu sổ chi tiết với thẻ kho, bảng tổng hợp nhập xuất tồn và sổ tổng hợp. Chọn một số phiếu nhập, phiếu xuất kiểm tra chi tiết. Thực hiện tính toán lại số dư nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ. 3.2.2.Kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh dở dang Chọn một số mặt hàng để kiểm tra chi tiết. Kiểm tra quá trình tập hợp chi phí. Kiểm tra quá trình đánh giá chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Thực hiện kiểm toán: Dựa trên cơ sở chương trình kiểm toán đã lập, kiểm toán viên tiến hành thực hiện kiểm toán hàng tồn kho qua các bước cơ bản sau: 2.1.Khảo sát các quá trình kiểm soát chu trình hàng tồn kho và nghiệp vụ hàng tồn kho. Trước hết kiểm toán viên tiến hành kiểm tra tính đầy đủ về số lượng báo cáo tài chính, sự trình bày của sổ sách kế toán, qua đó đánh giá nề nếp công tác kế toán của đơn vị kiểm toán. Để đảm bảo tính pháp lý của tài liệu kế toán, kiểm toán viên chỉ thực hiện khi báo cáo kế toán và các sổ sách liên quan đã có ký duyệt của Giám đốc đơn vị, Kế toán trưởng và những người có liên quan.Vì vậy trước khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên phải chú ý tới yếu tố pháp lý đầy đủ của báo cáo kế toán cũng như sổ sách liên quan như sổ cái, bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn... Kiểm toán viên thông qua việc quan sát, phỏng vấn, điều tra xem xét hệ thống hàng tồn kho có được hạch toán chi tiết cho từng mặt hàng không. Có thực hiện đối chiếu và xử lý chênh lệch giữa kết quả kiểm kê với sổ sách chưa. Xem xét việc quy định các chức năng, nhiệm vụ của từng người trong quản lý hàng tồn kho đã phù hợp với quy định chưa. 2.1.1.Thực hiện các khảo sát quá trình kiểm toán chu kỳ hàng tồn kho ** Kiểm soát quá trình tiếp nhận, nhập kho và xuất kho Kiểm toán viên thực hiện các thủ tục quan sát, điều tra phỏng vấn để kiểm tra cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của từng phòng, từng bộ phận và quy trình luân chuyển hàng tồn kho có phù hợp với quy định của Công ty hay không. Đối với các khảo sát này, kiểm toán viên thường mô tả thành các sơ đồ để tiện đối chiếu, kiểm tra. * Đối với quá trình tiếp nhận và nhập kho: Phải có kế hoạch cung ứng hàng tồn kho. Các hợp đồng mua bán phải hợp lệ. Khi hàng về phải được kiểm nghiệm, thủ kho ký nhận vào phiếu nhập kho, ghi thẻ kho. Sau đó chuyển phiếu nhập kèm chứng từ gốc cho kế toán hàng tồn kho để ghi sổ và lưu trữ. Kiểm tra các phiếu nhập kho có được đánh số thứ tự không để phát hiện sự trùng lặp, các phiếu nhập kho có đầy đủ các chữ ký hay không? * Kiểm soát quá trình xuất kho: Phải có phiếu yêu cầu xuất kho có chữ ký của thủ trưởng, kế toán trưởng đơn vị qua việc kiểm tra sự đính kèm giữa phiếu xuất kho với lệnh xuất, phiếu xin lĩnh vật tư hàng hoá với các lệnh sản xuất. Quy trình luân chuyển chứng từ có theo quy định hạch toán của Tổng công ty hay không? Qua việc kiểm tra các quy trình thực hiện trên, xem xét sự độc lập giữa người bảo quản tài sản với kế toán, giữa người có trách nhiệm điều hành với người ghi sổ, giữa người mua hàng, có nhu cầu hàng với người bảo quản tài sản và kiểm tra cách ly quyền phê chuẩn. ** Khảo sát quá trình sản xuất và chi phí sản xuất: Khảo sát này thực hiện khi kiểm toán các đơn vị sản xuất vật tư, thiết bị phục vụ cho ngành điện Khi khảo sát cơ cấu kiểm soát sản xuất và chi phí sản xuất, kiểm toán viên có thể tiến hành xem xét một số vấn đề sau: + Việc tổ chức quản lý và theo dõi sản xuất ở các phân xưởng hoặc tổ, đội, quy trình và cách thức làm việc,ghi chép của nhân viên thống kê phân xưởng, tổ, đội, cũng như giám sát của Quản đốc phân xưởng hoặc tổ trư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1233.doc
Tài liệu liên quan