Đề tài Sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5

Việc khai thác bản đồ giáo khoa phải tuân theo các trình tự sau :

Bước 1: Đọc tên bản đồ và bảng chú giải để biết các đối tượng địa lý thể hiện trên bản đồ là gì và tác giả đã thể hiện các đối tượng địa lý đó trên bản đồ như thế nào ( bằng kí hiệu gì ? màu sắc nào ? )

Bước 2: Đọc các đối tượng địa lý biểu hiện trên bản đồ, nêu rõ phân bố các đối tượng địa lý. Thông thường một bản đồ giáo khoa có 4- 5 đối tượng chính để còn nội dung phụ thì tương đối nhiều. Giáo viên phải dựa vào nội dung cụ thể của từng bài học để chọn lọc các nội dung cần khai thác

Bước 3: Phân tích biểu đồ bằng cách dựa vào các kí hiệu, màu sắc để xác định vị trí của các đối tượng địa lý trên bản đồ, thông qua các kí hiệu đó để rút ra nhận xét về tính chất, đặc điểm của các đối tượng địa lý được thể hiện trên bản đồ

Bước 4: Dựa vào bản đồ kết hợp với kiến thức địa lý, vận dụng các thao tác tư duy ( so sánh, phân tích, tổng hợp, ) để phát hiện các mối quan hệ địa lý không thể hiện trực tiếp trên bản đồ ( mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội, ) đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự hiện diện của các đối tượng địa lý cũng như phán đoán sự phát triển hay suy vong của các đối tượng địa lý đó

 

doc54 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6463 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác sâu hơn các kiến thức địa lý và đi vào giải thích, tìm hiểu các hiện tượng địa lý, phạm vi kiến thức cũng rộng hơn nhiều so với lớp học trước. Quá trình nắm kiến thức địa lý của học sinh gồm những giai đoạn sau : - Tri giác Tri giác là quá trình nhận thức cảm tính phản ánh những thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng như: màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị, âm thanh,… Trong nhận thức cảm tính, những thuộc tính bề ngoài của đối tượng địa lý đều được phản ánh. Vì vậy, trong quá trình dạy học địa lý do đặc điểm của các sự vật hiện tượng địa lý không phải lúc nào cũng có thể nhận thức trực tiếp được nên việc sử dụng, khai thác các tranh ảnh, mô hình để hình thành những biểu tượng tưởng tượng cho học sinh là cần thiết. - Hiểu biết Quá trình hiểu biết thể hiện trong việc phát hiện các mối quan hệ khách quan trong việc thấu suốt ý nghĩa của lời nói hay các bài viết, kể cả ý nghĩa của các thuật ngữ địa lý, cũng như các tư tưởng, những ý ẩn bên trong câu chữ. Diễn biến của quá trình hiểu biết gồm có 3 giai đoạn: trước tiên là giai đoạn biết vấn đề, sau đó là giai đoạn hiểu sơ bộ và cuối cùng là một giai đoạn có sự đột biến – sự thông hiểu ý nghĩa của vấn đề bỗng nhiên bật ra. Trong quá trình này, tư duy liên hệ chặt chẽ với các biểu tượng trí nhớ và với ý tưởng tượng sáng tạo. Như vậy ngay từ ban đầu giáo viên phải hình thành biểu tượng địa lý chính xác cho học sinh, một trong những cách nhận thức nhanh nhất là sử dụng kênh hình để hình thành biểu tượng địa lý ban đầu - Ghi nhớ Ghi nhớ là một khâu quan trọng trong quá trình nắm là tái hiện kiến thức. Đó cũng là một trong những tiêu chuẩn được coi là quan trọng trong nhiệm vụ dạy học, biểu hiện ở việc nắm vững kiến thức của học sinh. Trong quá trình học tập ghi nhớ có thể tiến hành dưới nhiều hình thức nhưng hình thức quan trọng nhất là tạo ấn tượng ban đầu. Ấn tượng ban đầu có khuynh hướng ăn sâu vào kí ức đến nỗi nếu như có đúng hay sai có thể ảnh hưởng đến sự ghi nhớ, sự tái hiện kiến thức suốt đời. Nếu trong kí ức ấn tượng ban đầu đúng thì đó là ấn tượng tích cực, còn nếu sai đó là ấn tượng tiêu cực. Một trong những cách gây ấn tượng ban đầu chính là sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động vào quá trình mở đầu bài học giúp tạo ấn tượng mạnh trong trí nhớ học sinh - Khái quát hóa và hệ thống hóa kiến thức Khái quát hóa là hoạt động tư duy tách những thuộc tính bản chất chung của các đối tượng để xếp chúng vào cùng một loại, là sự chuyển từ cái đơn nhất sang cái chung. Hệ thống hóa là quá trình hoạt động tư duy, trong đó các đối tượng được xếp vào một hệ thống nhất định theo những nguyên tắc lựa chọn Cách tốt nhất để giúp học sinh nắm vững được kiến thức và ghi nhớ bền vững là giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết hệ thống hóa kiến thức theo nhiều cách khác nhau. Thí dụ : hệ thống hóa bằng cách lập bảng so sánh, bằng cách vẽ sơ đồ cấu trúc,.. 4. TÌNH HÌNH THỰC TẾ SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 5 HIỆN NAY Thông qua việc tham khảo ý kiến trên địa bàn Thị xã Phú Thọ và thành phố Việt Trì thì hầu hết giáo viên Tiểu học đều hiểu được những phương hướng đổi mới trong mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục Tiểu học và đều cho rằng việc đổi mới phương pháp dạy học là nhân tố quyết định đến việc nâng cao chất lượng dạy học địa lý. Vì vậy việc tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp dạy học mới là yêu cầu thiết yếu. Đối với môn Địa lý nói riêng và các môn học ở Tiểu học nói chung cũng vậy, vì thế đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới phương pháp dạy học của cả nhà trường và giáo viên. Nhận thức được xu thế đổi mới của phương pháp dạy học hướng vào sử dụng ngày càng nhiều các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại nên công tác bồi dưỡng giáo viên luôn được đề cao. Bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vị thì giáo viên hiện nay còn được đào tạo để sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu, soạn giáo án điện tử. Tuy nhiên, ở Tiểu học hiện nay thực trạng giảng dạy là giáo viên dạy học dựa hoàn toàn theo sách giáo khoa. Trong giờ học, giáo viên tóm lược bài giảng dưới dạng kênh chữ, trình bày trên bảng hoặc phát giấy cho học sinh, học sinh học thuộc lòng, phương pháp dạy học chủ yếu là thuyết giảng, đọc chép. Khuynh hướng này phổ biến trong hầu hết các trường Tiểu học hiện nay. Thực tế không phải là những giáo viên đó không yêu nghề, không có ý thức tìm ra những phương pháp dạy học mới mà do điều kiện đồ dùng dạy học tại địa phương còn thiếu thốn. Hơn nữa hiện nay học sinh đã quá quen với hình thức dạy học cũ nên việc đổi mới phương pháp dạy học không thể thực hiện trong một sớm một chiều được mà cần có quá trình lâu lài và sự nghiên cứu cụ thể. Một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là sự chủ quan của người dạy và cả người học đối với việc dạy học địa lý ở Tiểu học. Hầu hết ở Tiểu học học sinh chỉ được chú trọng tập trung vào hai môn học chính là toán, văn, vai trò của các môn học khác hầu như đều rất mờ nhạt. Hơn nữa môn địa lý không được tách thành phân môn riêng nên lại càng ít nhận được sự chú ý đầu tư của cả người dạy và người học. Chính vì điều đó hầu hết ở trường Tiểu học hiện nay không có giáo viên chuyên dạy phân môn địa lý mà vẫn là một giáo viên đảm nhiệm việc dạy nhiều môn học. Vì một người phải dạy quá nhiều kiến thức trên nhiều lĩnh vực như vậy nên sự đầu tư chuyên sâu vào một môn phụ là rất ít. Từ những nguyên nhân khách quan nêu trên nên hiện trạng dạy học bộ môn địa lý ở Tiểu học hiện nay hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết của môn học vì vậy việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết. Mặc dù Bộ giáo dục – Đào tạo đã triển khai việc đổi mới dạy học lấy người học làm trung tâm hoặc tăng cường sử dụng phương tiện dạy học hiện đại nhưng việc áp dụng trong thực tế vẫn chưa đạt được hiệu quả cao. Điều đáng khích lệ là bộ phận giáo viên trẻ hầu hết đều có ý thức đổi mới phương pháp dạy học và có trình độ sử dụng phương tiện kĩ thuật ở mức khá. Do những giáo viên trẻ hiện nay được chú trọng đào tạo ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên họ năng động trong giảng dạy, có kiến thức tương đối vững vàng trong lĩnh vực này. Đây cũng là động lực cho việc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học địa lý nói riêng vì trong tương lai họ sẽ là nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục nước nhà. Qua khảo sát thực tế tại một số trường trả lời theo phiếu khảo sát đối với giáo viên được hỏi thì kết quả như sau : - Kĩ năng sử dụng kênh hình của giáo viên hiện nay nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu tuy nhiên một số giáo viên cho rằng kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin để khai thác kênh hình cần được bồi dưỡng thêm - Quan niệm về vai trò và sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý : 100% giáo viên cho rằng kênh hình không thể thiếu trong dạy học địa lý, 63% giáo viên dùng kênh hình để khai thác kiến thức, 37% giáo viên dùng kênh hình để minh họa cho bài dạy - Về mức độ sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý : 100% giáo viên thường xuyên sử dụng kênh hình trong bài giảng Đa số giáo viên cho rằng kênh hình phục vụ cho dạy học địa lý hiện nay là tương đối đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu giảng dạy tuy nhiên cũng cần được bổ sung thêm để nâng cao hiệu quả dạy học. Như vậy về trang thiết bị kĩ thuật và tinh thần sử dụng kênh hình trong giảng dạy hiện nay hầu hết đều mang chiều hướng tích cực. Tuy nhiên trong bộ phận học sinh hiện nay thì hầu hết các em đều coi môn địa là môn phụ, việc đầu tư thời gian cho môn học này hầu như rất ít. Các em chủ yếu coi đây là môn đọc chép, chỉ cần học thuộc lòng là đủ, khi gặp phải dạng bài đòi hỏi có tư duy địa lý cũng như kĩ năng sử dụng bản đồ thì các em còn lúng túng, nhiều em không đáp ứng được yêu cầu của giáo viên. CHƯƠNG 2: SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5 I. HỆ THỐNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5 1.1. Bản đồ giáo khoa 1.1.1. Khái niệm bản đồ giáo khoa Tất cả các bản đồ địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội dùng trong nhà trường nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được gọi chung là bản đồ giáo khoa U.C. Bilich và A.C. Vasmut đã định nghĩa “ Bản đồ giáo khoa là những bản đồ sử dụng trong mục đích giáo dục, chúng cần thiết cho việc giảng dạy và học tập ở tất cả các cơ sở giáo dục dưới mọi hình thức, tạo nên một hệ thống giáo dục cho tất cả các tầng lớp dân cư từ học sinh đến việc đào tạo các chuyên gia. Những bản đồ đó cũng được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trước hết là địa lý và lịch sử” Lâm Quang Dốc trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng bản đồ, lược đồ trong sách giáo khoa địa lý phổ thông” đã định nghĩa về bản đồ giáo khoa như sau “ Bản đồ giáo khoa là biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa trên cơ sở toán học, bằng ngôn ngữ bản đồ, phương tiện (đồ họa) phản ánh sự phân bố trạng thái mối liên hệ tương hỗ của khách thể - tương ứng với mục đích nội dung và phương pháp của môn học trên những nguyên tắc chặt chẽ của tổng quát hóa bản đồ, phù hợp với trình độ phát tiển trí óc của lứa tuổi học sinh, có xét đến cả yêu cầu giáo dục thẩm mỹ và vệ sinh học đường” Từ các định nghĩa trên ta thấy bản đồ giáo khoa phục vụ cho ngành giáo dục gồm có giáo dục phổ thông và giáo dục đại học. Nó rất cần cho việc dạy học ở các cấp học, bậc học; không có bản đồ giáo khoa thì không thể dạy học địa lý và lịch sử được. Nhiều nhà khoa học bản đồ cho rằng bản đồ giáo khoa trước hết phải là bản đồ địa lý, là mô hình làm chức năng nhận thức khoa học do đó điểm nổi bật của bản đồ giáo khoa là trình bày phải có chọn lọc phương tiện đồ họa, kí hiệu bản đồ và phương pháp phản ánh rõ nhất khách thể, đáp ứng mục tiêu và phương pháp đào tạo phù hợp với chương trình SGK, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và trình độ học sinh 1.1.2. Phân loại bản đồ giáo khoa Các loại hình bản đồ giáo khoa gồm có : + Bản đồ giáo khoa treo tường : là loại bản đồ dùng để giảng dạy và học tập ở trên lớp có kích thước đủ để học sinh ngồi ở bàn cuối cũng nhìn thấy được. Thông thường bản đồ giáo khoa treo tường có kích thước 0,8m x 1,2m; 1,0m x 2,0m, nếu lãnh thổ càng lớn thì tỉ lệ bản đồ càng nhỏ + Lược đồ và bản đồ in trong SGK : do khuôn khổ SGK nhỏ nên bản đồ trong SGK thường có tỉ lệ lớn và nội dung thể hiện hạn chế hơn. Chúng thường chỉ minh họa cho nội dung chính của bài học, giúp cho học sinh tư duy địa lý lãnh thổ và bổ sung những kiến thức và kênh chữ SGK chưa nói hết còn các nội dung chi tiết khác thì chưa được thể hiện. Lược đồ và bản đồ in trong SGK có tác dụng minh họa cho bài giảng của giáo viên, đồng thời giúp giáo viên – học sinh khai thác những tri thức tiềm ẩn trong SGK, làm cho bài học trở nên sinh động, học sinh dễ tiếp thu, khắc sâu được kiến thức qua đó hiệu quả của giờ học địa lý được nâng cao + Bản đồ câm ( bản đồ trống) : trên bản đồ thường chỉ có lưới bản đồ, đường ranh giới của các lãnh thổ, mạng lưới thủy văn, các tuyến đường giao thông và các điểm dân cư quan trọng nhưng không ghi tên địa danh. Bản đồ trống có tỉ lệ lớn hơn thường được giáo viên chuẩn bị trước ở nhà và đến lớp giúp học sinh quan sát tọa độ. Đây là phương pháp giới thiệu kiến thức mới mẻ, độc đáo và hấp dẫn giúp giáo viên thu hút sự chú ý của học sinh. Tương đương với bản đồ câm treo tường dành cho giáo viên và bản đồ câm dùng cho học sinh. Tuy nhiên bản đồ câm của học sinh có kích thước nhỏ hơn được sử dụng như bản đồ bài tập. Trong giờ học học sinh chuyển những kiến thức nhận được từ giáo viên vào bản đồ từ đó nâng cao tính tích cực chủ động của học sinh và giúp các em hình thành biểu tượng và khái niệm địa lý một cách dễ dàng hơn 1.1.3. Phương pháp khai thác bản đồ giáo khoa Việc khai thác bản đồ giáo khoa phải tuân theo các trình tự sau : Bước 1: Đọc tên bản đồ và bảng chú giải để biết các đối tượng địa lý thể hiện trên bản đồ là gì và tác giả đã thể hiện các đối tượng địa lý đó trên bản đồ như thế nào ( bằng kí hiệu gì ? màu sắc nào ? ) Bước 2: Đọc các đối tượng địa lý biểu hiện trên bản đồ, nêu rõ phân bố các đối tượng địa lý. Thông thường một bản đồ giáo khoa có 4- 5 đối tượng chính để còn nội dung phụ thì tương đối nhiều. Giáo viên phải dựa vào nội dung cụ thể của từng bài học để chọn lọc các nội dung cần khai thác Bước 3: Phân tích biểu đồ bằng cách dựa vào các kí hiệu, màu sắc để xác định vị trí của các đối tượng địa lý trên bản đồ, thông qua các kí hiệu đó để rút ra nhận xét về tính chất, đặc điểm của các đối tượng địa lý được thể hiện trên bản đồ Bước 4: Dựa vào bản đồ kết hợp với kiến thức địa lý, vận dụng các thao tác tư duy ( so sánh, phân tích, tổng hợp,…) để phát hiện các mối quan hệ địa lý không thể hiện trực tiếp trên bản đồ ( mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội,…) đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự hiện diện của các đối tượng địa lý cũng như phán đoán sự phát triển hay suy vong của các đối tượng địa lý đó Trong nhà trường hiện nay sử dụng nhiều loại kênh hình khác nhau nhưng quan trọng nhất là bản đồ giáo khoa. Bản đồ giáo khoa không đơn thuần là phương tiện trực quan mà còn được coi là nguồn tri thức quan trọng cần được khai thác. Các nhà sư phạm khẳng định rằng “ học địa lý phải học trên bản đồ” vì vậy học địa lý không thể thiếu bản đồ. Đây là công cụ duy nhất giúp cả thầy và trò có khả năng nhìn bao quát các sự vật hiện tượng diễn ra trên khoảng không gian rộng lớn không thể tri giác trực tiếp được. Trong SGK Lịch sử và địa lý lớp 5 phần địa lý có tất cả 21 bản đồ và lược đồ được sử dụng 1.2. Số liệu thống kê, biểu đồ 1.2.1. Số liệu thống kê - Khái niệm : Số liệu thống kê là các số liệu cụ thể được thống kê đề cập đến một hiện tượng hoặc nhiều hiện tượng từ điều tra cụ thể. Các số liệu thống kê phản ánh mặt số lượng và những mối quan hệ về mặt chất lượng nhiều mặt của hiện tượng Số liệu thống kê kinh tế - xã hội là những số liệu thống kê về số lượng những hiện tượng của đời sống kinh tế - xã hội trong mối quan hệ mật thiết với mặt chất lượng trong những điều kiện, địa điểm và thời gian nhất định. Số liệu thống kê kinh tế – xã hội thường đề cập đến tình hình sản xuất các ngành kinh tế - xã hội, tài nguyên, dân cư,… của các lãnh thổ đã được chọn lọc kĩ càng. Đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm, phù hợp với chương trình bộ môn và trình độ nhận thức của học sinh. - Phân loại số liệu thống kê bao gồm : + Các số liệu thống kê riêng biệt : là những số liệu thống kê dùng riêng rẽ để cụ thể hóa một số đối tượng địa lý kinh tế - xã hội nào đó về mặt số lượng. + Bảng số liệu thống kê : là các số liệu thống kê riêng biệt được tập hợp thành bảng, trong đó các số liệu thống kê trong bảng có mối quan hệ qua lại với nhau. Bảng số liệu thống kê đề cập đến một hoặc nhiều vấn đề kinh tế - xã hội - Ý nghĩa : Số liệu thống kê giúp giáo viên giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho học sinh, dùng để minh họa nội dung bài học. Thông qua sự so sánh, phân tích, đối chiếu các số liệu thống kê giúp cho khả năng cụ thể hóa các khái niệm, quy luật, các hiện tượng địa lý kinh tế - xã hội. Cho học sinh làm quen với phương pháp sử dụng và phân tích các số liệu là một trong những biện pháp làm tăng vốn kiến thức hiểu biết về thực tiễn của các em, vì số liệu không chỉ có trong tài liệu địa lý mà chúng còn được giới thiệu rộng rãi trên các báo, tạp chí, tài liệu thông tin đại chúng. - Phương pháp khai thác bảng số liệu : Bước 1: Đọc kĩ bảng số liệu để khái quát nội dung cơ bản của bảng số liệu đọc tiêu đề của bảng số liệu để nắm được chủ đề của bảng số liệu đó, chú ý đến các đặc trưng không gian và thời gian của các đại lượng được trình bày trong bảng Bước 2: xem xét kĩ từng mục tiêu, từng số liệu cụ thể và các đơn vị kèm theo. Bước 3: Phân tích bảng số liệu : + Phân tích các số liệu tổng quát ( số liệu chung, có tầm khái quát cao trước khi phân tích các số liệu cụ thể chi tiết) + Phân tích số liệu theo hàng ngang, cột dọc, mối quan hệ hàng cột, so sánh, đối chiếu các số liệu theo cột, theo hàng + Chú ý các số liệu thể hiện đến giá trị cực đại, cực tiểu, trung bình, chú ý đến những số liệu mang tính đột biến ( tăng hoặc giảm ) để xem xét sự thay đổi hiện tượng theo thời gian + Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đột biến của hiện tượng thể hiện trên bảng số liệu Bước 4: Rút ra nhận xét 1.2.2. Biểu đồ - Khái niệm : biểu đồ là cấu trúc đồ họa phản ánh một cách trực quan hóa các số liệu thống kê về quá trình phát triển của hiện tượng, mối quan hệ về thời gian và không gian giữa các hiện tượng. - Phân loại : biểu đồ có nhiều cách phân loại : + Nếu dựa vào hình thức có thể chia thành biểu đồ hình cột, biểu đồ miền, biểu đồ hình tròn, hình vuông, các đường biểu diễn, biểu đồ kết hợp,… + Nếu dựa vào nội dung có thể chia biểu đồ thành : biểu đồ cơ cấu, biểu đồ so sánh, biểu đồ động thái, biểu đồ đặt trên bản đồ, biểu đồ thể hiện mối quan hệ,… - Ý nghĩa: khi những số liệu được thể hiện thành biểu đồ bao giờ cũng có tính trực quan làm cho học sinh tiếp thu được tri thức dễ dàng, tạo hứng thú trong học tập. Đồng thời biểu đồ cũng là phương tiện để học sinh rèn luyện kĩ năng địa lý vì trong dạy học địa lý việc yêu cầu học sinh vẽ các biểu đồ là nội dung không thể thiếu trong các bài tập thực hành. Từ đó học sinh mới biết cách phân tích , khai thác những tri thức địa lý từ số liệu và biểu đồ. - Phương pháp khai thác Bước 1: Đọc tên biểu đồ và xác định biểu đồ thuộc loại nào ? Thể hiện bằng hình thức nào ? Bước 2 : Xác định nội dung biểu đồ ( thể hiện bằng chú giải) ? Biểu đồ thể hiện những số lượng nào, của hiện tượng nào ? Bước 3 : Giải thích các số liệu được thể hiện trên biểu đồ nói lên quá trình phát triển của hiện tượng, cơ cấu và mối tương quan của các hiện tượng, chú ý các số liệu nhỏ nhất, lớn nhất Bước 4 : Xác định vị trí, vai trò của các thành phần trong biểu đồ Bước 5: Rút ra nhận xét ( kết luận chung ) 1.3. Tranh ảnh địa lý 1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh ảnh địa lý Tranh là tác phẩm hội họa phản ánh hiện thực bằng đường nét và màu sắc. Ảnh là hình người, vật, phong cảnh thu được bằng khí cụ quang học ( máy ảnh). Tranh ảnh địa lý có thể là ảnh chụp, tranh vẽ mô tả những sự vật, hiện tượng diễn ra trên mặt phẳng nhưng nó phải nội dung kiến thức địa lý. Như vậy tranh ảnh địa lý rất gần gũi trong thực tế và dễ bổ sung, tìm kiếm trong cuộc sống, quan trọng là người giáo viên phải biết cách lựa chọn tranh ảnh một cách hợp lý trong quá trình dạy học Một bức ảnh chụp thường có bố cục theo 3 cảnh sau đây: - Chủ đề : là vật thể hay cảnh trí mà ảnh có thể chụp, chủ thể thường nằm ở trung tâm bức ảnh - Tiền cảnh: là vật thể nằm ở phía trước chủ đề, ở gần ta nhất và nằm ở bên dưới của bức ảnh, tiền cảnh có tác dụng tạo ấn tượng cho chủ đề - Hậu cảnh: là những vật thể, cảnh trí nằm ở phía sau chủ đề, ở xa nhất và ở phần trên của bức ảnh, hậu cảnh được dùng làm nền cho chủ đề Một bức ảnh không nhất thiết phải có bố cục đầy đủ cả 3 cảnh nhưng tối thiểu phải có cảnh chủ đề và hậu cảnh thì mới thể hiện được không gian ba chiều của bức ảnh. Muốn đọc được một bức ảnh địa lý thì học sinh phải biết cách phân tích bố cục của bức ảnh dưới sự hướng dẫn của giáo viên 1.3.2. Phương pháp khai thác tranh ảnh địa lý Tranh ảnh địa lý là nguồn tri thức quan trọng như vậy nhưng mức độ nhận thức của học sinh thông qua tranh ảnh phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của các em cũng như sự định hướng của giáo viên. Thông thường việc phân tích tranh ảnh địa lý phải trải qua 4 bước lần lượt giải đáp các câu hỏi sau: Bước 1: Xác định tranh, ảnh chụp cái gì ? Muốn xác định được điều này thì việc nêu tên của bức ảnh và xác định chủ đề của bức ảnh là rất cần thiết vì một bức ảnh địa lý có thể được chụp gần, chụp xa từ máy bay hay vệ tinh… Tùy theo góc chụp của ảnh hiện tượng, sự vật địa lý không giống nhau nên khó có thể nhận ra nhất là ảnh chụp từ xa. Vì vậy việc quan trọng đầu tiên không thể thiếu là xác định chủ đề của bức ảnh. Bước 2: Xác định ảnh chụp ở đâu ? Học sinh phải xác định được ảnh này chụp ở nơi nào trên Trái Đất, được chụp từ hướng nào ( đông – tây – nam – bắc ), được chụp lúc nào hay chụp vào thời gian nào và chụp vào thời gian nào của quy trình phát triển sự vật, hiện tượng địa lý Bước 3: Mô tả chính xác theo đúng trình tự của các sự vật, hiện tượng địa ký được thể hiện trong bức ảnh. Việc mô tả theo trình tự bố cục bức ảnh nghĩa là phải đi lần lượt từ tiền cảnh đến chủ đề rồi mới đến hậu cảnh. Trong mỗi cảnh học sinh phải mô tả trước tiên các sự vật, hiện tượng địa lý quan trọng nổi bật, những yếu tố còn lại sẽ mô tả sau. Khi mô tả sự vật địa lý trong ảnh lần lượt theo thứ tự các yếu tố tự nhiên trước, các yếu tố có sự tương hỗ của con người sau. Suốt quá trình đó giáo viên nên sử dụng các thuật ngữ địa lý để mô tả các sự vật hiện tượng địa lý trong bức ảnh. Bước 4: Tìm cách giải thích các sự vật, hiện tượng địa lý trong ảnh Đây là bước quan trọng nhất nhưng không phải đối với ảnh địa lý nào cũng có thể nhìn vào là lý giải ngay được một cách dễ dàng. Đối với những ảnh địa lý khó thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đặt ra nhiều giả thiết rồi dùng kiến thức địa lý đã học, xem các loại biểu đồ, bản đồ, đọc các tư liệu địa lý,… để loại bỏ các giả thiết sai và lựa chọn giả thiết đúng. Muốn làm được điều này học sinh phải giải quyết được hai vấn đề là: tại sao vị trí của sự vật hiện tượng địa lý lại ở đó mà không ở chỗ khác và những vấn đề mà sự vật hiện tượng địa lý đó đã đặt ra cho con người là gì ? Như vậy nếu không có tranh ảnh thì học sinh khó có thể mô tả các sự vật, hiện tượng địa lý được. Tuy nhiên, tranh ảnh chỉ có tác dụng giúp học sinh khai thác được một số đặc điểm và thuộc tính nhất định của đối tượng. Vì vậy khi sử dụng tranh ảnh giáo viên phải làm cho học sinh hứng thú, kích thích tính tò mò của học sinh vào bức tranh đó. Sau đó giáo viên định hướng cho học sinh tự mình đánh giá vai trò của bức ảnh thì học sinh mới khắc sâu được kiến thức. Nếu làm được như vậy thì đồ dùng trực quan mới đem lại sức truyền cảm và giáo dục sâu sắc. Tuy nhiên việc sử dụng đồ dùng phải có chọn lọc, tránh làm loãng phần kiến thức trọng tâm của bài học. Tuy nhiên, trong thực tế ta nhận thấy rằng sự tách biệt các bước khai thác nêu trên là thao tác tư duy tổng hợp về mặt lý thuyết. Trong thực tế người giáo viên cần vận dụng linh hoạt các thao tác trên trong quá trình dạy học cũng như trong quá trình soạn bài. Các bước khai thác trên cần thiết cho quá trình tư duy của giáo viên khi soạn bài nhưng một giáo viên giỏi phải biết linh hoạt, nhạy bén áp dụng trong từng điều kiện vật chất cụ thể, trong từng loại kênh hình khác nhau cũng như trình độ của học sinh. Nếu học sinh có trình độ khá giỏi cần nâng cao yêu cầu cũng như lược bỏ một số bước không cần thiết, ngược lại đối với học sinh yếu hơn thì các bước hướng dẫn phải cụ thể, rõ ràng. Như vậy có thể nhận thấy, có sự khác biệt trong tư duy và thực tế mà người quyết định hiệu quả phải là người giáo viên trực tiếp giảng dạy. 2. CÁC NGUYÊN TẮC TRONG KHAI THÁC KÊNH HÌNH 2.1. Sử dụng đúng mục tiêu Sử dụng đồ dùng dạy học theo mục đích mà môn học đặt ra và được cụ thể ở từng bài học. Các đồ dùng dạy học được sử dụng phải phù hợp với các hoạt động dạy học (phương tiện dành cho trình diễn trên lớp cần có kích thước lớn, còn dùng cho học sinh học tập cá nhân chỉ cần kích thước vừa và nhỏ) Như chúng ta đã biết mỗi quá trình dạy học cũng như trong từng bài học đều đặt ra mục đích học tập nhất định. Tất cả các hoạt động trong tiết học đều hướng tới mục tiêu ấy và việc sử dụng kênh hình không nằm ngoài tổng thể nói trên. Vì vậy sử dụng kênh hình trong dạy học phải đúng mục đích của bài học. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung của từng bài học, tìm hiểu sách giáo khoa, các sách tham khảo sau đó mới lựa chọn kênh hình phù hợp với yêu cầu bài, tránh tìm các hình ảnh không liên quan hoặc ít liên hệ đến nội dung của bài. Mục đích của việc sử dụng kênh hình là cung cấp kiến thức và nâng cao hứng thú học tập cho học sinh vì vậy kênh hình nào không đáp ứng được những yêu cầu này thì không thể được sử dụng. Cụ thể trong một tiết học cũng cần sử dụng các loại kênh hình khác nhau sao cho phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu giờ học. Khi giáo viên cần giảng bài cho cả lớp thì ưu tiên hàng đầu là sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường có kích thước vừa đủ để học sinh trong lớp có thể dễ dàng quan sát được kể cả các em ngồi cuối lớp hoặc trong góc lớp. Ngược lại, với các tiết bài tập hoặc giờ thảo luận nhóm, hoạt động cá nhân thì bản đồ trong sách hoặc tập bản đồ bài tập, bảm đồ câm lại chiếm ưu thế. Nguyên nhân là do những bản đồ này có kích thước nhỏ, học sinh có thể dễ dàng mang theo và khai thác ở mức độ cá nhân dễ dàng hơn nhiều so với bản đồ có kích thước lớn. Từ ví dụ trên ta thấy chỉ riêng việc sử dụng bản đồ trong giờ học đã phải có sự cân nhắc, lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung và mục đích bài giảng. Vì vậy nguyên tắc sử dụng kênh hình đúng mục đích mang ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó không đáp ứng mục tiêu của bài dạy thì nó không còn là phương tiện dạy học nữa 2.2. Sử dụng đúng mức độ và cường độ Nội dung và phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học phải phù hợp với yêu cầu của tiết học và trình độ tiếp thu kiến thức của học sinh. Theo những nghiên cứu của bộ môn Tâm lý học về tâm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSử dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5.doc