Đề tài Sử dụng mô hình Kinh tế lượng để phân tích sự ảnh hưởng của một số yếu tố tới doanh thu tiêu thụ của Công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp Hà Tây

Lời nói đầu 2

PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM 4

I. VAI TRÒ CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 4

1. Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm. 4

2. Vai trò công tác tiêu thụ sản phẩm. 5

II. NỘI DUNG CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM. 7

1. Nghiên cứu thị trường. 7

2. Xây dựng chiến lược sản phẩm. 8

3. Xây dựng các điều kiện xây dựng sản phẩm. 9

4. Các hoạt động xúc tiến bán hàng. 12

5. Tổ chức công tác tiêu thụ. 14

6. Tổ chức thanh toán. 15

III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ CỦA DOANH NGHIỆP. 15

1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp. 15

2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp. 17

PHẦN II: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY MÁY KÉO VÀ MÁY NÔNG NGHIỆP HÀ TÂY 19

I. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 19

1. Tên gọi, trụ sở và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. 19

2. Quá trình hình thành và phát triển. 19

3. Đặc điểm về bộ máy quản lý của công ty. 22

4. Đặc điểm quy trình công nghệ: 23

5. Các phân xưởng sản xuất. 24

6. Mạng lưới tiêu thụ của công ty 25

II. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY MÁY KÉO VÀ MÁY NÔNG NGHIỆP 26

1.Tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp. 26

2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Máy kéo và Máy Nông nghiệp. 26

III. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2004-2010 26

1. Mục tiêu tổng quát. 26

2. Chiến lược sản phẩm. 27

3. Tổ chức quản lý. 27

4. Chiến lược kinh doanh 28

5. Các biện pháp đồng bộ khác 28

6. Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch sản xuất kinh doanh 29

PHẦN III. MÔ HÌNH PHÂN TÍCH DOANH THU TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY MÁY KÉO VÀ MÁY NÔNG NGHIỆP HÀ TÂY 30

SỐ LIỆU 30

1. Biến phụ thuộc trong mô hình. 32

2. Xây dựng mô hình. 33

3. Kiểm tra các khuyết tật của mô hình: 40

 4. Dự báo .43

Kết luận 44

 

doc44 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1059 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng mô hình Kinh tế lượng để phân tích sự ảnh hưởng của một số yếu tố tới doanh thu tiêu thụ của Công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao hàng để đưa hàng đến giới thiệu và bán trực tiếp cho người mua hàng. Chào hàng có vị trí quan trọng, nó sử dụng lao động dư thừa của xã hội và có đưa sản phẩm đi rất xa khỏi nơi sản xuất. Muốn chào hàng có kết quả nhân viên chào hàng phải đáp ứng hai điều kiện sau: - Hiểu rõ sản phẩm mà công ty đem ra chào hàng (Vị trí của sản phẩm, sự khác biệt của nó với các sản phẩm cạnh tranh tương tự,). - Biết nghệ thuật trình bày sản phẩm cho khách hàng để thuyết phục người tiêu dùng mua sản phẩm. 4.3. Yểm trợ. Là một hoạt động rất quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Hoạt động yểm trợ thường diễn ra dới hình thức sau: - Hiệp hội kinh doanh: Ra đời trên cơ sở của sự phát triển của kinh doanh trên thị trường cạnh tranh, các nhà kinh doanh tự nguyện hợp tác, giúp đỡ nhau và đó là cơ sở quan trọng để hình thành hiệp hội. Sự hình thành hiệp hội là xu hướng chống lại độc quyền trên thị trường. - Cửa hàng giới thiệu sản phẩm: Loại của hàng này vừa có chức năng bán hàng và giới thiệu sản phẩm. Yêu cầu giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ làm người mua biết sản phẩm đó mà qua đó gợi mở nhu cầu. Địa điểm của cửa hàng phải đảm bảo yêu cầu quảng cáo, địa điểm mua bán thuận tiện. - Hội chợ triển lãm: Đó là nơi trưng bày sản phẩm của nhiều doanh nghiệp trong nước, khu vực và Thế giới. Hội chợ là nơi gặp gỡ của các nhà sản xuất kinh doanh với nhau và với khách hàng. Nó cũng là nơi giới thiệu, quảng cáo, mua bán sản phẩm, tham quan tìm kiếm mặt hàng mới, ký kết họp đồng mua bán, tìm kiếm thị trường mới. 4.4. Xúc tiến bán hàng: Là hoạt động của người bán hàng để tiếp tục tác động vào tâm lý của người mua để nắm bắt cụ thể hơn nhu cầu thông qua sự phản ánh của khách hàng với doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp thoả mãn tốt hơn nhu cầu thị trường. Các bước chủ yếu trong xác tiến bán hàng: Thăm dò, điều tra và chuẩn bị điều kiện Thăm dò ý kiến bước đầu Tiếp cận Trình bày và giới thiệu chương trình Xử lý ý kiến phản hồi Kết thúc Kiểm tra giám sát Để xác lập đựoc các bước chủ yếu trên phục vụ cho công việv bán hàng, xúc tiến bán hàng cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Xây dựng mối quan hệ với quần chúng để tạo ra lòng tin của hộ đối với doanh nghiệp, tranh thủ sự ủng hộ và tạo sự sự ràng buộc của họ với doanh nghiệp. Những biện pháp thường được sử dụng để xây dựng các mối quan hệ với quần chúng là: Hội nghị khách hàng, hội thảo, quà tặng, - In ấn và phát hành tài liệu: Những tài liệu phải in ấn và phát hành là: Nhãn mác, hướng dẫn sử dụng, catalog, công dụng sản phẩm, - Bán thử: Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà công ty quyết định có tổ chức bán thử hay không, những mặt hàng mới thường được công ty tổ chức bán thử. 5. Tổ chức công tác tiêu thụ. 5.1. Hoạt động giao dịch, ký kết hợp đồng. a. Đàm phán và ký kết hợp đồng tiêu thụ Trước khi ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, bên mua và bên bán thường gặp nhau để đàm phán về những điều kiện mua, bán, thanh toán,Trong quá trình ký kết hợp đồng doanh nghiệp cần khéo léo, linh hoạt khi thoả thuận về các điều khoản sao cho tạo được không khí thoải mái, tin cậy và cố gắng thu thập được thêm nhiều thông tin về nhu cầu trong tương lai của khách hàng. b. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Sau khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cần tổ chức thực hiện hợp đồng sao cho đúng thời hạn. Các bước thực hiện hợp đồng: - Chuẩn bị giao hàng: Hàng hoá theo hợp đồng phải bảo đảm đúng chất lượng đã ký kết. - Kiểm tra hàng hóa: Doanh nghiệp cần tổ chức kiểm tra trung thực và chính xác. - Quyết định phương tiện vận tải: Sử dụng phương tiện vận tải nào sao cho chi phí là thấp nhất, đảm bảo chất lượng và đúng thời hạn. - Giao hàng và làm thủ tục thanh toán. - Khiếu nại (nếu có) khi có một bên vi phạm hợp đồng. 5.2. Tổ chức mạng lưới phân phối. Doanh nghiệp dựa trên cơ sở đặc tính sản phẩm, quy mô doanh nghiệp, đặc điểm môi trường,để lựa chọn hình thức phân phối hợp lý đảm bảo chi phí thấp nhất, thông tin nhanh, kiểm soát được kênh phân phối hàng hóa. 5.3. Tổ chức các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng. Các dịch vụ trước khi bán hàng là các dịch vụ về giới thiệu, chào hàng, quảng cáo, tham gia hội chợ triển lãm, thực hiện các dịch vụ trước khi bán hàng nhằm giới thiệu sản phẩm, để gợi mở nhu cầu của người tiêu dùng và thuyết phục người tiêu dùng để sử dụng sản phẩm của mình. Các dịch vụ trong khi bán hàng là các dịch vụ giao tiếp giữa khách hàng và doanh nghiệp. Nó bao gồm việc giới thiệu hàng hóa, hướng dẫn lựa chọn hàng hóa, ký kết hợp đồng, thanh toán, bốc xếp hàng hóa, chuyên chở hàng hóa tới nơi yêu cầu, Dịch vụ này nhằm tác động vào tâm lý của người tiêu dùng về sự tin cậy của doanh nghiệp, chất lượng, giá cả hợp lý, và điều quan trọng là doanh nghiệp cho người tiêu dùng thấy họ thực sự là “thượng đế” và sự lựa chọn của họ là sáng suốt. Các dịch vụ sau khi bán hàng là các hoạt động bao gồm việc lắp đặt, sửa chữa, bảo hành, tư vấn tiêu dùng, thay thế, bảo dưỡng, thu mua hàng cũ,Dịch vụ này nhằm nâng cao uy tín doanh nghiệp, củng cố lòng tin của người tiêu dùng khi mua và sử dụng hàng hóa của doanh nghiệp. 6. Tổ chức thanh toán. Trong hoạt động tiêu thụ thì nghiệp vụ thu tiền là quan trọng. Mặc dù hàng hóa đã được phân phối hết cho các kênh tiêu thụ hoặc đã giao xong cho người mua, song chưa thu được tiền thì hoạt động tiêu thụ vẫn chưa kết thúc. Đối với các hoạt động thanh toán, tuỳ thuộc và kênh tiêu thụ của công ty mà xây dựng phương thức thanh toán hợp lý giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh hơn, làm cho hoạt động tiêu thụ diễn ra hiệu quả hơn. III. Đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Các nhân thố ảnh hưởng: 1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp. a. Môi trường vĩ mô. Môi trường kinh tế: Là môi trường có tác động lớn và nhiều mặt đến môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng, chủng loại và cơ cấu nhu cầu thị trường. Các nhân tố thuộc môi trường nàu bao gồm: Thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, chính sách tiền tệ Môi trường Chính trị- Pháp luật: Đó là chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước nhằm quản lý nền kinh tế như: Các quy định về chống độc quyền, các loại thuế, các luật bảo vệ môi trường, các ưu đãi của chính phủ, Môi trường công nghệ: Môi trường công nghệ có ảnh hưởng ngày càng lớn đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học công nghệ làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt, doanh nghiệp nào không có khẳ năng ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ thì doanh nghiệp dó càng có ít khẳ năng cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp đều phải cố gắng hiện đại hoá trang thiết bị sản xuất và ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất. Môi trường văn hoá xã hội: Có thể nói các nhân tố thuộc nhóm này có tác động mạnh đến quy mô của thị trường. Các nhân tố thuộc nhóm này bao gồm: Phong tục tập quán, phong cách sống, cơ cấu giới tính, trình độ dân trí Các nhân tố văn hoá xã hội có sự biến đổi hoặc tiến triển chậm nên đôi khi khó nhận biết và phân tích. b. Môi trường tác nghiệp. Môi trường tác nghiệp bao gồm: Các nhân tố trong nội bộ ngành và các nhân tố ngoại cảnh có tác động quyết định đến tính chất và mức độ cạnh tranh trong nghành. Các đối thủ cạnh tranh: Các đối thủ cạnh tranh bao gồm các doanh nghiệp có mặt trong nghành và các đối thủ tiềm ẩn có khả năng tham gia vào nghành trong tương lai. Đối thủ cạnh tranh sẽ là người chiếm một phần thị trường trên thị trường sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh và luôn có ý định mở rộng thị trường, thậm chí lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp. Khách hàng: Khách hàng và nhu cầu của khách hàng quyết định quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường của doanh nghiệp. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp phải quan tâm, phân tích sự biến động của tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp phải duy trì và phát triển các mối quan hệ với khách hàng cũ, lôi cuốn tạo niềm tin với khách hàng mới. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải quan tâm, phân tích sự biến động của nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của khách hàng và tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó. Các nhà cung cấp: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải quan hệ tiếp xúc với 5 thị trường cơ bản: thị trường nguyên vật liệu, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường thông tin. Số lượng các nhà cung ứng các yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến khả năng lựa chọn tối ưu đầu vào cho doanh nghiệp. Điều này nói lên rằng số lượng các nhà cung ứng một loại đầu vào nào đó có quan hệ chặt chẽ với sự khan hiếm của yếu tố đầu vào đó. Càng nhiều nhà cung ứng với mức độ tập trung không cao thì doanh nghiệp càng có khẳ năng lựa chọn tối ưu đầu vào. 2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc điểm nội tại của sản phẩm được xác địng bằng những thông số kỹ thuật có thể đo được hoặc so sánh là phù hợp với những điều kiện hiện tại và thoả mãn nhu cầu nhất định của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm cao làm tốc độ tiêu thụ nhanh hơn, tạo khẳ năng cạnh tranh mạnh, tạo sự tin tưởng và ấn tưọng tốt với khách hàng. Từ đó, doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang sản phẩm khác, củng cố mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng, củng cố vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Giá cả sản phẩm: Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, đồng thời biểu hiện tổng hợp các quan hệ kinh tế như: quan hệ cung- cầu, tích luỹ và tiêu dùng. Giá cả là thông số ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu trên thị trường, là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại sản phẩm. Mức giá mỗi mặt hàng cần có sự nghiên cứu điều chỉnh trong suốt quá trình sống của sản phẩm, tuỳ theo quan hệ cung cầu và sự thay đổi của thị trường. Việc xác lập giá cả cần được đảm bảo cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối đa hoặc lợi nhuận bình quân, thấp nhất cũng đạt được lợi nhuận tối thiểu. Nghĩa là giá cả của một đơn vị hàng hoá luôn phải lấy tổng chi phí sản xuất ra nó và chi phí tiêu thụ làm cơ sở. Tổ chức công tác tiêu thụ: bao gồm hàng loạt công việc khác nhau từ việc quảng cáo, chào hàng, giới thiệu sản phẩm đến với khách hàng, tổ chức mạng lưới tiêu thụ, ký kết hợp đồng, hợp đồng vận chuyển, cuối cùng là việc khẩn trương thu hồi tiền hàng đã bán. Nếu công tác tổ chức tiêu thụ không được phối hợp nhịp nhàng, ăn ý thì sẽ ảnh hưởng không chỉ đến hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình kinh doanh. Ngược lại, nếu tổ chức tốt công tác tiêu thụ thì doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được nhièu sản phẩm, doanh thu lớn, tốc độ vòng quay vốn nhanh, chi phí lưu thông giảm, Muốn vậy doanh nghiệp phải lựa chọn và tổ chức các kênh tiêu thụ hợp lý dựa trên đặc thù của nghành, đặc tính sản phẩm và quy mô sản xuất. Tóm lại: Công tác tiêu thụ sản phẩm có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải quản lý hoạt động tiêu thụ một cách chặt chẽ từ khâu khảo sát, nghiên cứu thị trường đến tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ, thường xuyên phân tích đánh giá hoạt động tiêu thụ để thấy được những mặt còn hạn chế để từng bước khắc phục. Phần II: Giới thiệu chung về công ty máy kéo và máy nông nghiệp hà tây I. Khái quát quá trình hình thành và phát triển 1. Tên gọi, trụ sở và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Tên gọi: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên máy kéo và máy nông nghiệp . Ngày thành lập: 22-10-1960. Trụ sở: Số 4 đường Chu Văn An- Phường Yết Kiêu -Thị xã Hà Đông- Tỉnh Hà Tây. Ngành nghề kinh doanh: Công nghiệp sản xuất máy móc trang thiết bị phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trong toàn quốcvà cơ khí sản xuất phụ tùng máy nông nghiệp. 2. Quá trình hình thành và phát triển. Để đáp ứng nhu cầu trang bị cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp của đất nước, ngày 19 -10 -1959, Ông Lê Thanh Nghị- Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng đã ký quyết định cho xây dựng một xí nghiệp cơ khí chế tạo dụng cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp trên cơ sở tiếp quản 2000 m nhà xưởng do nhà máy thuốc lá Thăng Long bàn giao lại tại khu Yết Kiêu( nay là phường Yết Kiêu) thị xã Hà Đông- Tỉnh Hà Tây. Đó là nhà máy Cơ khí nông cụ. Sau hơn 10 tháng xây dựng, ngày 22-10-1960 khánh thành và bàn giao đưa vào sản xuất “Nhà máy cơ khí nông cụ” nay là “ Công ty Máy kéo và máy nông nghiệp” thuộc Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp- Bộ Công nghiệp, đánh dấu sự ra đời nhà máy cơ khí chế tạo máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất đầu tiên của đất nước. Thời kỳ 1960 - 1965: Khi mới thành lập, trên cơ sở sáp nhập năm tập đoàn sản xuất nhỏ của cán bộ miền Nam tập kết chuyên sản xuất các loại nông cụ cải tiến, cày bừa, cuốc bàn, đồ mộc và cơ khí nhỏ, khi đó chỉ có 131 công nhân viên chủ yếu là công nhân quân giới và 36 thiết bị cũ của Pháp để lại. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là đáp ứng nhu cầu nông cụ cho sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn xây dựng và phát triển Hợp tác xã nông nghiệp với các sản phẩm: cày chìa vôi, cày 51, bừa xạ, bừa đinh, bàn trang, các loại cuốc bàn, máy bơm chống hạn 6K18. Ngoài ra còn sản xuất các loại cày treo 3 lưỡi, 5 lưỡi, bừa đĩa, trục lăn đất lắp vào máy kéo MTZ50 phục vụ chương trình khai hoang của đất nước. Thời kỳ 1966-1975: Cả nước thực hiện kế hoạnh năm năm lần thứ hai, đây cũng là thời kỳ giặc Mỹ bắn phá ác liệt miền Bắc. Nhiệm vụ của công ty là “vừa sản xuất vừa chiến đấu”, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngày 16-7-1966 “ Nhà máy cơ khí nông cụ” được đổi tên thành “Nhà máy cơ khí Nông nghiệp”, thời kỳ này công ty phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Duy trì các sản phẩm đã có và còn hợp tác sản xuất máy kéo Tháng tám 50 CV, máy kéo mang nhãn hiệu Bình Dã, động cơ DIESEL 8,5 CV. Ngoài ra còn tham gia chế tạo một số sản phẩm khác như: bừa đĩa, trục lăn, phay đất bùn1,6m lắp cho máy kéo 50 CV phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; Xới sâu, gom rễ, lưỡi ủi DT100, Đ492 đáp ứng cho nhu cầu của các nông trường quốc doanh tham gia chương trình khai hoang ; chế tạo xích tải chai cho các nhà máy thực phẩm; xích cho các tàu đánh cá. Trong thời kỳ đánh Mỹ, Công ty đã sản xuất hàng vạn bộ gá phóng lựu đạn gửi gửi vào chiến trường để phục vụ chiến đấu. Năm 1973, sau khi cử đoàn cán bộ sang Trung quốc nghiên cứu máy kéo nhỏ về, đã thiết kế, chế tạo thành công máy kéo nhỏ 2 bánh 12 mã lực: Máy kéo Bông sen và được xác định là sản phẩm chính để đầu tư sản xuất lâu dài. Trong thời kỳ này, Công ty còn tham gia chế tạo các rào chắn bằng đồng đặc biệt có chất lượng cao để trang trí cho lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với sự phát triển mạnh mẽ về quy mô sản xuất, Công ty đã được Đảng và Nhà nước đầu tư lớn về thiết bị công nghệ và mở rộng mặt bằng sản xuất. Thời kỳ 1976-1994: Được Nhà nước đầu tư, Công ty đã tập trung thiết kế, chế tạo các máy móc, thiết bị chuyên dùng, khuôn mẫu gá lắp, trang bị công nghệ để tổ chức sản xuất đạt hàng ngàn máy kéo trong một năm. Năm 1976, Công ty được tiếp nhận dây chuyền sản xuất Bình bơm thuốc trừ sâu của Trung quốc với sản lượng 120.000 chiếc một năm. Để đáp ứng nhu cầu vận tải nhỏ nông thôn, năm 1981 Công ty đã thiết kế chế tạo thành công xe vận chuyển nông thôn VC1000 trên cơ sở máy kéo 12CV. Loại xe vận tải nông thôn này phù hợp với khả năng vận chuyển của nông thôn và được bà con nông dân tin dùng. Đồng thời còn hợp tác sản xuất máy kéo bốn bánh MTZ 50 mã lực theo mẫu của Liên Xô. Trong chương trình hàng xuất khẩu, Công ty đã chế tạo và xuất khẩu hàng vạn chiếc Êtô E60 sang thị trường Châu Âu. Ngày 27-4-1994 theo quyết định số 175 QĐ/TCCBĐT của Bộ công nghiệp, “Nhà máy cơ khí Nông nghiệp” được đổi tên thành “Công ty máy kéo và máy nông nghiệp”. Ngay từ thời gian đầu khi nền kinh tế cả nước có những bước chuyển đầu tiên sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Công ty Máy kéo và máy nông nghiệp đã chủ trương đầu tư thêm thiết bị và đa dạng hoá sản phẩm nhằm phục vụ cho nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trong cả nước. Trong thời kỳ này, kiên trì với mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường trong nước, đa dạng hoá sản phẩm, Công ty đã tăng cường nguồn lực, tiếp thu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại và tổ chức sắp xếp sản xuất kinh doanh. Từ những mục tiêu đề ra, Công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp đã đạt được những kết quả trong sản xuất kinh doanh như sau: - Sản phẩm truyền thống được chú trọng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã phù hợp dần với nhu cầu thị trường . - Sản lượng hàng năm tăng dần, hàng năm đã sản xuất được gần 3000 máy kéo các loại (kể cả xe vận chuyển nông thôn). Tính đến năm 2003 công ty đã cung cấp cho các hộ nông dân được 35623 máy kéo Bông sen 12CV, 10326 Xe vận chuyển nông thôn, hàng triệu bình bơm thuốc trừ sâu từ 12 đến 16 lít và hàng ngàn tấn phụ tùng máy nông nghiệp. Với năng lực hiện có và hợp tác sản xuất với các doanh nghiệp khác, nếu tiêu thụ được công ty sãn sàng nâng sản lượng lên 5000 máy/ năm đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước về máy kéo nhỏ. - Từ chỗ chỉ có một sản phẩm truyền thống duy nhất là máy kéo Bông sen 12CV, đến nay Công ty đã thiết kế và chế tạo thành công một số sản phẩm chính khác như: máy kéo Bông sen 8 mã lực, Xe vận chuyển nông thôn 1000CV, Phay đất các loại,Bình bơm thuốc trừ sâu, Phụ tùng máy nông nghiệp. Ngoài ra còn gần 30 sản phẩm khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. - Chế tạo các thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu như: Máy phân loại thóc phục vụ việc nghiên cứu giống, máy bóc tách vỏ hạt trẩu để tăng chất lượng dầu trong quá trình ép dầu trẩu. Gần đây Công ty còn tiếp nhận công nghệ và sản xuất thành công vỏ đạn cối K28 đạt chất lượng tốt phục vụ cho chương trình động viên công nghệ quốc phòng. - Hiện nay Công ty Máy kéo và máy nông nghiệp đang thực hiện đầu tư chiều sâu nâng cao năng lực sản xuất . Ngày 24 tháng 6 năm 2004 Bộ Công nghiệp ra quyết định số 55/2001/QĐ-BCN chuyển đổi Công ty Máy kéo và máy nông nghiệp thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Máy kéo và máy nông nghiệp. Từ khi thành lập đến nay, Công ty Máy kéo và máy nông nghiệp là một đơn vị hạch toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng. 3. Đặc điểm về bộ máy quản lý của công ty. Giám đốc công ty là người lãnh đạo cao nhất trong công ty. Ban giám đốc gồm: Giám đốc và 3 phó giám đốc, trong đó có - Phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật. - Phó giám đốc phụ trách về sản xuất. - Phó giám đốc phụ trách về hành chính. Mối Phó giám đốc chỉ đạo các phòng có liên quan, dưới phòng là các phân xưởng sản xuất và các bộ phận. Giám đốc trực tiếp chỉ đạo phòng tài vụ, phòng bảo vệ và phòng kế hoạch thương mại, là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước về mọi hoạt động của Công ty. Các phòng ban: - Phòng thiết kế: Có nhiệm vụ thiết kế sản phẩm, theo dõi và xử lý đảm bảo yếu tố kỹ thuật cho sản phẩm. - Phòng kỹ thuật: Xây dựng các tiến trình và quy trình công nghệ định mức kỹ thuật. - Phòng cơ điện: Quản lý về mặt thiết bị, điện nước, sửa chữa máy móc. - Phòng KCS: Quản ký chất lượng sản phẩm theo thiết kế. - Phòng sản xuất: Quản lý và điều hành sản xuất đồng bộ. - Phòng tổ chức lao động: Quản lý và định mức lao động. - Phòng kế hoạch thương mại: Quản lý và xác định giá thành, ngiên cứu thị trường, bán hàng, tiêu thụ sản phẩm,... - Phòng tài vụ: Lập kế hoạch về tài chính, kế toán về nguyên vật liệu, tài sản cố định, giá thành, thanh toán lương, - Phòng thiết kế cơ bản: Xây dựng kế hoạch đầu tư, kế hoạch tu sửa. - Phòng hành chính, văn thư, y tế, vệ sinh, bảo vệ. 4. Đặc điểm quy trình công nghệ: Công ty Máy kéo và máy nông nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc, phụ tùng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm của công ty được đa dạng hoá theo nhu cầu của thị trường nên công ty sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm. Nguyên vật liệu chính là: Gang và thép. Thép và gang được xuất kho xuống các phân xưởng đúc, phân xưởng rèn dập, tại đây các phân xưởng có nhiệm vụ thực hiện công nghệ chế biến tạo phôi, sau đó phôi được nhập vào kho phôi để xuất cho phân xưởng cơ khí, sau khi thực hiện công tác gia công cơ khí (tiện, phay, mài,...) các trục, hộp số, bánh răng, phân xưởng cơ khí chuyển xuống phân xưởng nhiệt mạ để mạ và nhiệt luyện các chi tiết rồi ghép lại nhập lại phân xưởng cơ khí, hoặc có thể từ phân xưởng cơ khí, phân xưởng nhiệt mạ nhập thẳng vào kho bán thành phẩm. Từ kho bán thành phẩm và bán thành phẩm mua ngoài đưa xuống phân xưởng lắp ráp hoàn thiện từng loại sản phẩm hoàn thành (từ kho bán thành phẩm có thể xuất xuống kho thành phẩm để bán). Từ phân xưởng lắp ráp chuyển tất cả xuống kho thành phẩm để bán (thành phẩm và bán thành phẩm). Tại kho sản phẩm, kiểm kê sản phẩm hoàn thành, cả sản phẩm dở dang cuối kỳ (theo định mức chi phí). Hiện nay, công ty có khoảng hơn 400 loại máy móc các loại dùng trong sản xuất: Máy tiện, phay, bào, dập, mài, máy đánh bóng, lò ram, thiết bị phun, buồng sấy, Tuy vậy phần lớn các loại máy móc đã cũ kỹ, chủ yếu là nhập từ Trung Quốc, Liên Xô, Tiệp, từ những năm 70. Nhưng công ty đã phát huy tinh thần sáng tạo và đã sản xuất được nhiều loại máy móc chuyên dùng dựa trên những loại máy móc cũ như máy khoan 10 trục, 21 trục, 33 trục... nâng cao năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm, công ty cũng tự chế tạo nhiều loại máy móc như máy nâng hạ 500 kg, doa chuyên dùng, máy doa thô, máy doa tinh, máy làm sạch, máy nghiền cátGần đây, để đáp ứng nhu cầu thị trường công ty đã nhập một số loại máy móc hiện đại như: Máy nén khí- Italy (2000), Máy xọc răng-Trung Quốc (2001), Máy đánh số- Đài Loan (2001), máy tiện CNC- Tây Ban Nha (2002), Máy sửa ba via- Trung Quốc (2003) 5. Các phân xưởng sản xuất. - Phân xưởng sửa chữa thiết bị cơ điện: Đây là phân xưởng phụ trợ có nhiệm vụ sửa chữa thường xuyên hay đột xuất máy móc, thiết bị để bảo đảm sản xuất của các đơn vị. Thực hiện kế hoạch sửa chữa thiết bị theo định kỳ, sửa chữa kịp thời các máy móc hỏng theo ca sản xuất. - Phân xưởng dụng cụ: Có nhiệm vụ sản xuất khuôn mẫu, gá lắp theo kế hoạch do phòng công nghệ chỉ đạo, sửa chữa các dụng cụ chuyên dùng phục vụ cho sản xuất. - Phân xưởng đúc gang thép: Phân xưởng này sản xuất các chi tiết theo kế hoạch tạo phôi bằng công nghệ đúc các chi tiết với nguyên liệu là gang và thép. - Phân xưởng rèn dập: Phân xưởng này có nhiệm vụ sản xuất các chi tiết theo kế hoạch bằng công nghệ rèn dập theo khuôn trên máy dập và gò, hàn các chi tiết, cụm máy. - Phân xưởng cơ khí 1: Đây là phân xưởng gia công cơ khí bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật cho các chi tiết, đây là đơn vị chủ lực trong sản xuất cơ khí. - Phân xưởng nhiệt mạ: Nhiệm vụ tôi luyện và mạ nhằm tăng độ bền và trang trí cho máy, đây là khâu kỹ thuật để hoàn chỉnh sản phẩm. - Phân xưởng lắp ráp: Đây là đơn vị thực hiện giai đoạn cuối cùng là lắo ráp các chi tiết thành một sản phẩm hoàn chỉnh để phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm . - Phân xưởng cơ khí 3: Nhiệm vụ của phân xưởng là chế tạo ra các loại bình bơm thuốc trừ sâu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong và ngoài nước, thực hiện toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: mua sắm vật tư, hoàn chỉnh sản phẩm, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm. 6. Mạng lưới tiêu thụ của công ty Công ty tiêu thụ sản phẩm của mình qua 2 hệ thống: Bán trực tiếp ngay tại công ty hoặc giao tận chân công trình và gián tiếp thông qua mạng lưới đại lý ký gửi hoặc chi nhánh các vùng miền. Hệ thống đại lý của công ty đã được đặt tại hầu hết các tỉnh khoảng (40 tỉnh) tuỳ vào nhu cầu thực tế, đặc điểm địa hình của từng tỉnh mà công ty đặt một hay hai đại lý. Các chi nhánh được đặt tại cả 3 miền. Công ty cũng đã có một vài lần xuất khẩu ra nước ngoài: Angola, Bungary. Ngoài ra, Công ty còn tham gia vào một số chương trình hỗ trợ cho nông dân bán sản phẩm của công ty đến tận tay người nông dân, bảo đảm chất lượng và nâng cao uy tín cho Công ty. II. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp 1. Tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Máy kéo và Máy nông nghiệp. Biểu 01: Tổng hợp kế hoạch sản xuất kinh doanh. Biểu 02: Bảng thực hiện kế hoạch sản xuất qua 3 năm. Qua kết quả trên cho thấy: Doanh thu của công ty chủ yếu là doanh thu tiêu thụ, nó luôn chiếm tỷ trọng trên 97% trong tổng doanh thu. Thu nhập từ các hoạt động khác chiếm không nhiều. Tổng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh lớn, nhưng do lợi nhuận từ hoạt động từ hoạt động tài chính bị thua lỗ nên đã làm cho tổng lợi nhuận trước thuế giảm. Nhưng tốc độ tăng doanh thu hàng năm là 2,5%. 2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Máy kéo và Máy Nông nghiệp. Qua số liệu trên cho thấy việc thực hiên sản xuất các mặt hàng chính đều tăng vượt mức kế hoạch. Như máy kéo 12CV năm 2002 đạt vượt mức là 2,5% với số lượng tăng thêm là 20 chiếc, năm 2003 tăng 50 chiếc đạt vượt mức 5,6% so với kế hoạch, năm 2004 tăng lên là 5%. Nguyên nhân là mặt hàng này đang được tiêu thụ mạnh nên công ty tập trung công nhân vào sản xuất sản phẩm này. Với xe vận chuyển và bình bơm thuốc trừ sâu do lượng tồn kho lớn,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT174.doc
Tài liệu liên quan