Đề tài Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. Những vấn đề lí luận chung về kinh tế thị trường 2

1. Kinh tế thị trường là gì? 2

2. Điều kiện hình thành và các bước phát triển của kinh tế thị trường 4

3. Các nhân tố của kinh tế thị trường 7

4. Các quy luật của kinh tế thị trường 11

II. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 16

1. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam 16

4. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 26

5. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 31

III. Giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 33

KẾT LUẬN 40

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu dùng …trong đó giá cả là yếu tố có í nghĩa đặc biệt quan trọng . (+)Cung là tổng số hàng hóa có ở thị trường hoặc có khả năng thực tế cung cấp cho thị trường .Cung biểu hiện kết quả sản xuất dưới hình thức hàng hóa .Như vậy cung do sản xuất quyết định nhưng cung không phải bao giờ cũng đồng nhất với sản xuất .Ví dụ :những sản phẩm sản xuất để tự tiêu thụ hoặc không có khả năng đưa tới thị trường thì không nằm trong cung .Cụ thể lượng cung phụ thuộc chủ yếu vào số lượng ,chất lượng các yếu tố sản xuất ,chi phí sản xuất ,giá cả hàng hóa trong đó cũng như cầu giá cả là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng . Cung và cầu có quan hệ chặt chẽ với nhau .Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu .Cầu xác định khối lượng ,cơ cấu của cung về hàng hóa: hỉ có những hàng hóa nào có cầu thì mới được sản xuất,cung ứng ,hàng hóa nào tiêu thụ được nhiều ,nhanh nghĩa là có cầu lớn sẽ được cung ứng nhiều và ngựơc lại .Đến lượt mình cung tác động đến cầu ,kích thích cầu :những hàng hóa được sản xuất cung ứng phù hợp với nhu cầu ,thị hiếu sở thích của người tiêu dùng sẽ được ưa thích hơn ,bán chạy hơn ,làm cho cầu về chúng tăng lên .Vì vậy người sản xuất hàng hóa phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu ,thị hiếu ,sở thích của người tiêu dùng ,dự đoán sự thay đổi của cầu ,phát hiện các nhu cầu mới ..,để cải tiến chất lượng ,hình thức mẫu mã cho phù hợp ;đồng thời phải quảng cáo để kích thích cầu .. Cung- cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới giá cả: Khi cung = cầu , thì giá cả = giá trị Khi cung > cầu , thì giá cả < giá trị Khi cung giá trị Đồng thời giá cả cũng có tác động đến cung và cầu .Nhìn chung trong cơ chế thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu ,thì giá cả có tác động đìêu tíêt đưa cung và cầu trở về xu hướng cân bằng nhau .Ví dụ :khi cung >cầu ,giá cả sẽ giảm xuống ,khi giá cả gỉam thì cầu sẽ tăng lên ngược lại cung sẽ giảm dần và như vậy cung và cầu lại trở về xu thế cân bằng .Đó cũng chính là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế hàng hóa . Như vậy chúng ta thấy rằng :cạnh tranh,cung-cầu ,giá cả .gía trị là những yếu tố luôn đi liền với nhau và cùng tác động đến sản xuất và lưu thông hàng hóa. II. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 1.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam - Như mọi người đó biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trỡnh độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đó biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tỡm kiếm lợi nhuận, và một cỏch khỏch quan nú thỳc đẩy lực lượng sản xuất của xó hội phỏt triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đó đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó cũn cú mặt trỏi, cú khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xó hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xó hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó cũn ràng buộc cỏc nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ "trung tâm - ngoại vi". Có thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay là một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo. Chớnh vỡ thế mà, như C.Mác đó phõn tớch và dự bỏo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đó và đang tỡm mọi cỏch để tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển "nền kinh tế thị trường hiện đại", "nền kinh tế thị trường xó hội", tạo ra "chủ nghĩa tư bản xó hội", "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "Nhà nước phúc lợi chung"..., tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xó hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xó hội húa. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xó hội. Nhõn loại muốn tiến lờn, xó hội muốn phỏt triển thỡ dứt khoỏt khụng thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. -Phân công lao động với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động ở từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú đa dạng và chất lượng ngày càng cao của các sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. - Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân(gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp.Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thể hiện bằng quan hệ hàng hóa- tiền tệ. - Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật- công nghệ, về trình độ quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. - Quan hệ hàng hóa- tiền tệ còn rất cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy khi kinh tế thị trường tồn tại ở nước ta là một tất yếu khách quan thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ được. Đồng thời Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đó áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đó thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chớ, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xó hội khụng đúng với thực tế Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xó hội và con đường đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội , đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quỏ độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hỡnh thức kinh doanh phự hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ớch cỏ nhõn, tập thể và xó hội ; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xó hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xó hội và con đường đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trỡnh tỡm tũi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm. Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rừ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xó hội của Đảng khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xó hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đó được xây dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa". Đại hội khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hỡnh kinh tế tổng quỏt trong suốt thời kỳ quỏ độ đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam. 2.Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta Quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta có thể chia thành một số giai đoạn nhưng giữa các giai đoạn không có danh giới tuyệt đối nên phải chọn sự kiện điển hình và quan trọng để làm mốc phân chia các giai đoạn . Quá trình chuyển sang nền KTTT ở nước ta có thể chia thành các giai đoạn:1979-1985,1986-1990 và từ 1991 đến nay. a.Giai đoạn từ 1979-1985 Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 khóa IX tháng 9/1979có thể được coi là mốc đánh dấu khởi đầu công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta Tại hội nghị lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa ,kinh tế nhiều thành phần với chủ trương cụ thể như “bỏ ngăn sông cấm chợ “thừa nhận nhiều thành phần kinh tế v ới quy định cụ thể ;ở miền Nam có năm thành phần ,miền Bắc có ba thành phần :kinh tế tư bản tư nhân không được thuê mướn quá 5-10 công nhân. Hội nghị trung ương 6 đề ra một số quan điểm ,chủ trương đổi mới ,tuy chưa cơ bản và toàn diện như đại hội 6 nhưng đó là bước khởỉ đầu có í nghĩa .Từ những quan điểm đó nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích pt sản xuất .Những chính sách tiêu biểu như :Chỉ thị 357 của chính phủ (3-10-1979) cho phép các hộ nông dân được nuôi và bán trâu bò ,chấp nhận trâu bò là hàng hóa. Chỉ một năm sau khi ban hành chính sách tại nhiều địa phương ở phía Bắc đàn trâu bò đã tăng gấp đôi .Chỉ thị 100 của ban bí thư về khoán sản phẩm cuối cùng cho xã viên hợp tác xã nông nghiệp đã tạo điều kiện cho nông dân bổ xung đầu tư tích cực lao động đạt sản lượng vượt khoán của hợp tác xã .Trong công nghiệp có nghị quyết 25 CP cho phép các xí nghiệp làm kế hoạch ba phần ,trong đó phần C xí nghiệp tự xác định thị trường kế hoạch tự cân đối vật tư tiền vốn ,tự đánh giá và tiêu thụ sản phẩm lợi nhựân làm ra được hưởng quyền sử dụng 80%. Từ đó trong nền kinh tế nước ta xuất hiện tình huống mới :tồn tại song song hai cơ chế quản lý. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tác động trong kế hoạch phần A của xí nghiệp công nghiệp ,trong sản phẩm khoán của hợp tác xã nông nghiệp. Cơ chế thị trường tác động trong kế hoạch của xí nghiệp và trong sản phẩm vượt khoán của hộ nông dân .Cũng từ đó bắt đầu cuộc chiến tranh quyết liệt giữa 2 cơ chế ở nhiều khâu, nhiều yếu tố .Trong đó yếu tố mấu chốt để chủyên sang cơ chế thị trường là cơ chế giá cả. Trong cơ chế tập trung bao cấp cơ chế định giá bằng mệnh lệnh hành chính của nhà nước, việc định giá thấp đã đánh vào ngân sách nhà nứơc và tài chính quốc gia dẫn đến việc nhà nước phải bù lỗ, bù giá, bù lương ..làm cho ngân sách ngày càng kiệt quệ, sản xuất càng thua lỗ ,tiêu cực càng phát triển .Vì vậy nhà nước đã tiến hành cải cách giá và lương lần 1 (1981-1982)với những nét nổi bật là:tăng giá tăng lương ,thực hiện chuyển cơ chế một giá do nhà nước định đoạt sang cơ chế hai giá đối với giá cả hàng tíêu dùng, hàng vật tư và giá mua sản phẩm theo hợp đồng gỉam mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, chuyển phần lớn giá cung cấp sang gía kinh doanh thương nghịêp. Nhưng do thời gian thực hiện hai giá kéo dài c(1981-1985)trên diện rộng, trong khi hầu như không có giải pháp hữu hiệu nào làm giảm phát nên lạm phát trầm trọng thêm lại đẩy giá thị trường tiếp tục tăng nhanh .Nếu lấy mốc giá năm 1979là 100 thì năm 1981 là: 313,7%;1984:1400% ;19852390%.Trước tình hình trên 6/1985 Hội nghị trung ương lần thứ 8 bàn về giảm lương –tiền đã rút ra bài học tổng quát là: phải dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. b.Giai đoạn từ 1986-1990 Đại hội lần thứ 6 của Đảng (12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp đổi mới tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta. Đây thực sự là một cuộc cách mạng sâu sắc tiến hành đồng thời trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. (+) Thực sự chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. (+) Chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thực hiện tự do kinh doanh theo pháp luật. (+)Thực hiện cơ cấu kinh tế mở đa dạng hóa và đa phường hóa quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở đó ,vai trò quản lý của nhà nước cũng chuyển đổi từ quản lý trực tiếp sang quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật ,các chính sách kinh tế ,các công cụ điều tiết có hiệu lực . Với những quan điểm đổỉ mới của nghị quyết đại hội 7 chúng ta đã có những biện pháp và chủ trương tích cực trên nhiều mặt .Trong công nghiệp nghị định 217HĐBT của hội đồng bộ trưởng ban hành đã ‘cởi trói ‘phát huy quyền tự chủ kinh doanh của đơn vị kinh tế quốc doanh. Đối với nông nghiệp nghị quyết của bộ chính trị đã xác định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản; hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán của hợp tác xã và dần dần chuyển thành đơn vị kinh tế độc lập tự chủ .Về sử lý giá cả từ hội nghị trung ương lần 6 khóa 6 vào tháng 3/1989nhà nứơc quyết định thực hịên chuyển toàn bộ lương thực sang kinh doanh ,bỏ hoàn tòan chế độ cung cấp lường thực chuyển 80%vật tư sang kinh doanh còn lại 20% vẫn giữ giá phân phối.Đây là lần đầu tiên trên thực tế về cơ bản chúng ta có hàng hóa theo đúng nghĩa ,thực hiện quan điểm một thị trường một cơ chế giá kinh doanh có tác động lớn trong việc xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp chuyển sàng cơ chế thị trường. Mặt khác chúng ta đã tạo r a được tiền đề cần thiết để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc ban hành luật đầu tư ,đẩy mạnh hợp tác đầu tư với nước ngoài . Tóm lại thời kì này của công cuôc đổi mới đã đạt được nhiều bước tíên đáng khích lệ đã đưa nền kinh tế nước ta vào qũy đạo phát trỉênvốn có của nó .Đó là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa ,thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. c.Giai đoạn 1991đến nay giai đoạn này gắn với ba sự kiện lịch sử quan trọng đó là đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII và lần thứ IX . (+) Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6-1991)đã khẳng định :” Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn,bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Qua thực tiễn chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta. Đó là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên ”. (+) Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6/1996) đã chỉ rõ :” Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện .Đại hội VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược ổn định và phát triển-xã hội đến 2000. Xét trên tổng thể, việc thực hiện nhưng chính sách mới nhưng năm qua về cơ bản là đúng, đúng định hướng XHCN. (+) Đại hôi Đảng lần thứ IX (4/2001) đánh giá lại 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế –xã hội (1991-2000)đã đạt những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đại hội lần này đã xác định rõ đường lối và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của nước ta: “ Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ,đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ;ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN ;phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh,có hiệu quả và bền vững ; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa ;thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường ;kết hợp phát triển kinh tế –xã hội và tăng trưởng quốc phòng an ninh. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2001-2010) nhằm: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng đểt đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hưóng hiện đại.Nguồn lực con người,năng lực khoa học và công nghệ ,kết cấu hạ tầng , tiềm lực kinh tế,quốc phòng và an ninh được tăng cường ; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản;vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”. 3. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Lựa chọn mụ hỡnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khụng phải là sự gỏn ghộp chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là mụ hỡnh kinh tế trong thời kỳ quỏ độ đi lên chủ nghĩa xó hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là "cái phổ biến", còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "cỏi đặc thù" của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liờu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đó núi Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trũ tớch cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xó hội húa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xó hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác - Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rừ: kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuõn theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xó hội, thể hiện trờn cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phõn phối. Núi cỏch khỏc kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa chớnh là nền kinh tế hàng húa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là phỏt triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xó hội, nõng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cú nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xó hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế Nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hỡnh thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và cỏc nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thụng qua phỳc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xó hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xó hội đang trong quá trỡnh chuyển biến từ nền kinh tế cũn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trỡnh độ cao hơn hướng tới chế độ xó hội mới - xó hội xó hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xó hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam. Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xó hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mỡnh tới chủ nghĩa xó hội trờn cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xó hội chủ nghĩa. Chớnh tớnh chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (27).doc
Tài liệu liên quan