Đề tài Sự vận dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam

Trước khi nghiên cứu chính sách kinh tế mới cuả Đảng và nhà nước ta hiên nay. chúng ta hãy cùng nhìn xuyên suốt chiều dàI lịch sử của đất nước. đất nước ta đã trảI qua một thời kỳ chiến tranh dàI và khốc liệt. Với sự lãnh đạo của Đảng cộng Sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đem lạI hoà bình tự do trên đất nước ta. Đảng đã xác định mục tiêu đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa sở dĩ như vậy trong bối cảnh thế gới, tư bản chủ nghĩa đã trở lên lạc hậu bởi tính chất phản động hiếu chiến. Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản không còn đạI diện cho xu thế mới của thời đạI nữa. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới. thực sự chỉ có xã hội mới thực sự tồn tạI quyền dân chủ, hướng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hộ hoàn toàn đúng đắn. đảng và nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phảI khôI phục đất nước sau chiến tranh.

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự vận dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc và được xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc đIều tiết thị trường và lưu thông tiền tệ ”. Nhà nước sử dụng nhiều hình thức thương nghiệp với một cơ cấu đảm bảo phát huy vai trò của thương nghiệp nhà nước, loạI dần tư thương ra khỏi lĩnh vực bán buôn, canh tranh với tư bản thương nghiệp bán lẻ. Nhà nước tăng cường đầu tư cho lĩnh vực giao thông vận tảI để kịp thời đáp ứng yêu cầu vận chuyển của nội thương và cả ngoạI thương. Song song với quá trình tổ chức lạI lưu thông hàng hoá, nhà nước cũng thực hiện ổn định nền tàI chính quốc gia. Do tác dụng của chế độ hạch toán kinh tế nên nguồn thu cho ngân sách nhà nước tăng bởi các xí nghiệp tự chủ về tàI chính không đòi hỏi kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Nhà nước tăng cường kiểm kê, kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế chi phí sản xuất và chi phí quản lý của các xí nghiệp. Nhà nước chủ trương tổ chức lạI tàI chính quốc gia, đIều tiết giá cả chống lạI lạm phát, chống lạI sự mất giá của đồng Rúp ; thiết lâp chính sách tàI thống nhất dựa trên quan đIểm tập trung tàI chính. Qua đIểm này chính là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Để khắc phục tình trạng bội chi của ngân sách nhà nước, nhà nước Xô-Viết đã thực hiện cân đối thu chi giảm biên chế cắt giảm chi tiêu không cần thiết cho bộ máy hành chính, bãI bỏ chế độ bao cấp. để tăng thu cho ngân sách, nhà nước xây dựng lạI hệ thống thuế nhằn đIều tiết lạI thu nhập của các tầng lớp dân cư. Hệ thống thuế bao gồm : thuế công thương nghiệp, thuế thu nhập, thuế tàI sản, thuế nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước phát hành công tráI, khôI phục ngoạI thương để tăng dự trữ vàng. Ngân hàng nhà nước được thiết lập lạI, tiến hành thay đổi đơn vị tiền tệ, phát hành giấy bạc ngân hàng cho các tổ chức kinh tế công thương nghiệp quốc doanh vay, dần dần rút đồng Rúp Xô Viết ra khỏi lưu thông chống lạm phát. Ngày 5 -2-1924, nhà nước ban hành đạo luật phát hành giấy bạc mới (rúp vàng). Ngày 16-2-1924 ra sắc lệnh đình chỉ phát hành đồng rúp Xô - viết để trang trải ngân sách. Ngày 7- 3- 1924 Nhà nước ra đạo luật rút đồng rúp Xô - viết ra khỏi lưu thông. Tiếp theo việc ổn định đồng tiền là củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng. Trong quá trình từ 1921- 1923, ngân hàng nhà nước đã được củmg cố. Tiếp đó đã mở rộng hệ thống tín dụng bằng cách thành lập các ngân hàng khác. Ngân hàng công thương nghiệp : cấp tín dụng cho nghành công nghiệp, thương nghiệp. Nhà nước củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng tiến tới hoàn thành cảI cách tiền tệ. III. Tác dụng của chính sách kinh tế mới. 1. Tác dụng : về nông nghiệp : Sau một thời gian thực hiện chính sách kinh tế mới, nhà nước Xô - Viết đã khôI phục được nề kinh tế bị chiến tranh tàn phá. Nông nghiệp đến năm 1925 đã vượt mức trước chiến tranh. Nạn đói được đẩy lùi, sản lượng lương thực không ngừng tăng qua các năm. Diện tích gieo trồng được mở rộng. Do mức thuế thấp nên nhà nước không thu được nhiều lương thực nhưng thông qua con đường trao đổi đã có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Do mức thuế thấp nên năm 1921 nhà nước thu được 240 triệu pút so với 423 triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản khác tăng lên. Nhà nuớc qua con đường trao đổi có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Ngoài ra, do mức thuế ổn định, người nông dân nào cũng biết đuợc số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt qua mức đó. Nhà nước thu thuế rõ ràng, thuận lợi. Thuế lương thực là đòn mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì :” thuế luơng thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân. Bấy giờ, nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm, và đó chính là điều chủ yếu “(còn thiếu khoán ruộng đất nhớ chèn thêm) Về công nghiệp : Số công nhân có việc làm tăng nhanh, khắc phục được tình trạng thất nghiệp tràn lan. Công nghiệp dầu khí được khôI phục và cảI tạo về cơ bản, cùng với các cơ sở năng lượng khác, hoàn thành kế hoạch đIện- khí hoá. Sản xuất công nghiệp tăng cao chưa từng thấy, mức tăng sản phẩm trung bình hàng năm là 41%. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 đạt 75, 5% (đến năm 1926 khôI phục được 100%). Ngành đIện và cơ khí chế tạo vượt mức trước chiến tranh, xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm cũng đã vượt mức trước chiến tranh. Về thương nghiệp và tàI chính tiền tệ : Thương nghiệp phát triển mạnh mẽ. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá năm1926 đã bằng hai lần năm 1924. Liên Xô đã mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước. Năm 1925-1926 thu nhập của nhà nước tăng lên gần 5 lần so với nă m 1922 –1923. Ngân hàng nhà nước được lập lạI năm 1921, tiền hành đổi tiền vào các năm 1922-1923. Giá trị đồng Rúp tăng lên đáng kể. Về chính trị : Nhà nước Nga đã tiến được một bước dàI trong việc củng cố liên minh công –nông, ổn định hệ thống chính trị. Tình trạng rối ren trước kia đã được khắc phục. Giai cấp công nhân đã phát huy được năng lực lãnh đạo của giai cấp mình. Thành công lớn nhất của thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới là tháng 12-1922 Liên Bang Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Xô - Viết được thành lập và là nhà nước xã hội chủ nghĩa đàu tiên trên thế giới. 2. ý nghĩa Chính sách kinh tế mới được thực hiện đã tạo đIều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn và thành thị, đáp ứng dược yêu cầu của quy luật kinh tế của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính hàng hoá và có nhiều thành phần. Nó là chiến lược xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội từ đIểm- xuất phát kinh tế lạc hậu. Mỗi bước đI của chính sách này là một bước tiến trong sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Trong toàn bộ các khâu của chính sách kinh tế mới không có khâu nào không phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Đây còn là chiến lược liên minh công –nông về mặt kinh tế. Chính sách nà đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của cả hai giai cấp công nhân và nông dân. Qua chính sách này, Lênin đã nêu rõ để củng cố nền chuyên chính vô sản thì phảI bắt đầu từ đâu, phải giải quyết những khó khăn về chính trị dựa trên việc giải quyết những khó khăn về kinh tế. Chính sách kinh tế mới còn có ý nghĩa về mặt lý luận. Nó là một kiểu mẫu cho sự vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác-Ănghen vào thực tiễn. Qua chính sách này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cơ chế kinh tế trong thời kì quá độ. Về những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. đối với các nước tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội đều cần thuyết vận dụng tinh thần cơ bản của chính sách kinh tế mới như vấn đề quan hệ hàng hoá- tiền tệ, nguyên tắc liên minh công nông, sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần…Đây là những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác về các giai đoạn của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Nó đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế xẵ hội chủ nghĩa. CHƯƠNG II: Sự vận dụng chính sách kinh tế mới vào việt nam: Việt Nam tước thời kỳ đổi mới :. Trước khi nghiên cứu chính sách kinh tế mới cuả Đảng và nhà nước ta hiên nay. chúng ta hãy cùng nhìn xuyên suốt chiều dàI lịch sử của đất nước. đất nước ta đã trảI qua một thời kỳ chiến tranh dàI và khốc liệt. Với sự lãnh đạo của Đảng cộng Sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đem lạI hoà bình tự do trên đất nước ta. Đảng đã xác định mục tiêu đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa sở dĩ như vậy trong bối cảnh thế gới, tư bản chủ nghĩa đã trở lên lạc hậu bởi tính chất phản động hiếu chiến. Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản không còn đạI diện cho xu thế mới của thời đạI nữa. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới. thực sự chỉ có xã hội mới thực sự tồn tạI quyền dân chủ, hướng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hộ hoàn toàn đúng đắn. đảng và nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phảI khôI phục đất nước sau chiến tranh. Công cuộc khôI phục và phát triển kinh tế xây dựng và củng cố chế độ chính tri là một thử thách đối với Đảng ta và nhà nước Xã HôI Chủ Nghĩa. Chiến tranh đã để lạI hậu quả nặng nề về kinh tế xã hội cũng như về đời sống tinh thần. Bây giờ, nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ. Cơ sở vật chất thấp kém do bị chiến tranh tàn phá. Phân công lao động xã hội chưa phát triển, năng xuất lao động thấp, trình độ tổ chức quản lý yếu. Điều kiện trong nước khó khăn như vậy lại còn bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận kinh tế. Tuy nhiên, đất nước hoà bình cũng là một môI trường thuận lợi cho xây dựng và khôI phục kinh tế. Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đăng diễn ra mạnh mẽ cũng ảnh hưởng tới công cuộc khôI phục kinh tế. Bên cạnh đó, nước ta lại được sự giúp đỡ của Liên Xô và Đông Âu- những nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trước năm 1986, do ảnh hưởng cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, nền kinh tế nước ta trở nên trì trệ. Đại hội IV và đại hội V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với tinh thần là đảy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh tế của nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ phát triển nông nghiệp và công nghiêp nhẹ kết hợp kinh tế với quốc phòng, cân đối phát triển giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương để tiến tới xây dựng nền kinh tế quốc dân thống nhất. Về cơ bản, đường lối của đảng là rất đúng dắn song trong quá trình thực hiện, bên cạnh những thành tựu đạt được còn có nhiều sai sót. Về nông nghiệp : mô hình kinh tế hợp tác xã hoạt động không hiệu quả, yếu kếm về tổ chức quản lý, sản xuất bấp bênh, năng xuất thấp. Nông dân có sự phân hoá giàu nghèo. Tất cả nông dân đều lao động sản xuất trong hợp tác xã và tính công điểm. Do không có sự có gắng nỗ lực của từng cá nhân nên sản lượng nông nghiệp không cao. Nhà nước ban hành chỉ thị 100 khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động – một hình thức quản lý tiến bộ phù hợp với thực tiễn đất nước ta nhưng lạI bị hạn chế về trình độ quản lý yếu kém làm cho nó không phát huy được hết tác dụng. Về công nghiệp : Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá các xí ngiệp của tư sản mạI bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài. Nhà nước chỉ đặt kế hoạch trước định mức sản phẩm trước rồi sản xuất tràn lan mà không hề tính đến vấn đề tiêu thụ như thế nào. Sản xuất hoàn toàn không gắn với thị trường. Trong công nghiệp hầu như chỉ có công nghiệp quốc doanh nhưng lại hoạt động kếm hiệu quả. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nước ta cũng đã xây dựng được một số ngành công nghiệp nặng quan trọng và nhiều công trình công nghiệp lớn. Về thương nghiệp và tàI chính tín dụng : Nhà nước xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh, thị trường xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và mở rộng nhưng lưu thông phân phối vẫn rối ren. Thị trường tàI chính tiền tệ không ổn định. Giá cả tăng nhanh, lạm phát nghiêm trọng ngân sách nhà nước bị thâm hụt. Mởu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán hoạt động kém hiệu quả. Về ngoạI thương, nước ta chỉ mở rộng buôn bán trao đổi phần lớn với các nước trong khối SEV, không quan hệ với các nước tư bản. Suốt một thời gian dàI, nước ta không nhận thức đúng đắn vai trò của sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường. Đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế, coi nhẹ và phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, coi kinh tế thị trường là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản mà tách rời một cách siêu hình sản xuất hàng hoá với thị trường. Rõ ràng là trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta còn yếu kém. Thế mà chúng ta đã vội vàng áp đặt cho nó một quan hệ sản xuất tiên tiến – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là không phù hợp với quy luật. Nguyên nhân chính là do trong công tác quản lý, nhà nước ta đã nóng vội muốn nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không vận dụng một cách đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ qú độ. Nền kinh tế kế hoạch hoá và tập trung cao độ gây mất tính năng động. Bên cạnh đó, hoạt động tư tưởng tổ chức và công tác cán boọ của Đảng có nhiều khuyết điểm dẫn đến sai lầm trong lãnh đạo, quản lý. Cơ chế quản lý yếu kém, quan liêu bao cấp là vật cản đối với quá trình xây dựng đất nước, khôI phục kinh tế. Đứng trước thực tiễn đó, Đảng và nhà nước đã phảI đánh giá lạI tình hình và đưa ra đường lối đổi mới bắt đầu từ đạI hội Đảng khoá VI ( tháng 12/1986). II:chủ chương đổi mới của Đảng và nhà nước: 1. Đổi mới nền kinh tế: a, Đổi mới về cơ cấu kinh tế : Nghị quyết đại hội đảng VI, đã xác định : “Đổi mới toàn diện nhưng phảI tập trung lãnh đạo đổi mới kinh tế ”. Trước hết nhà nước tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đã nắm vững tinh thần cơ bản của chính sách kinh tế mới cuả Lê-nin. Nhà nước ta chủ trương “ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tâp trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định xã hội chủ nghĩa”. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng cơ chế mới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và trình độ lãnh đạo quản lý của bộ máy nhà nước. Các doanh nghiệp trong nước trước đây phụ thuộc vào nhà nước cả về tàI chính cũng như đường lối hoạt động sản xuất thì nay đã chuyến sang chế độ hạch toán kinh doanh, có quyền tự chủ về tàI chính. các doanh nghiệp sẽ phảI tự tính toá n xem nên sản xuất với sản lượng là bao nhiêu, giá thành sản phẩm như thế nào để thị trường chấp nhận. Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã dựa trên sự nghiên cứu tìm hiểu kỹ về thị trường. Không còn tình trạng nhà nước chịu lỗ thay doanh nghiệp. Cần phả thấy rằng sản xuất hàng hoá không đối lập vơí chủ nghĩa xã hội mà là một thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại và nó cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn hình thức hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản lý mệnh lệnh thuần tuý không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Tính năng động của nền kinh tế thị trường không cho phép duy trì cơ chế quản lý kém hiệu quả như vậy. Muốn phát triển kinh tế thị trường theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa thì phảI đổi mới cơ chế quản lý. Cùng với chuyển các xí nghiệp sang hạch toán kinh tế nhà nước ta chủ trương dân chủ hoá trong quản lý kinh tế, đảm bảo quyền lợi của quần chúng lao động. Người lao động trở thành người giám sát hoạt động của các cán bộ lãnh đạo. Những quyết định về quản lý doanh nghiệp đều dược thông qua dựa trên sự góp ý của người lao động. Nhà nước cũng thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãI cho các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời hạn chế tốiđa tình trạng độc quyền. Bên cạnh đó nhà nước còn phải nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô thông qua việc tạo mổi trường ổn điều kiện ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước ban hành những chính sách, nghị định, nghị quyết trong lĩnh vực kinh tế như chính sách thúê , luật doanh nghiệp …Trực tiếp quy định quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước. Đồng thời trên cơ sở hoạch định chính sách giá cả, chế độ phân phối thu nhập để duy trì sự ổn định của cơ chế kinh tế, đảm bảo lợi ích của toàn bộ thành viên của các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp cũng được nhà nước hướng dẫn và hỗ trợ phát triển thông qua các kế hoạch và chính sách kinh tế. Nhà nước có thể tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động bằng cách tổ chức, thu nhập. Xử lý, cung cấp thông tin ; dự báo và định hướng về thị trường trong và ngoàI nước ; tổ chức hướng dẫn các hoạt động thương mại, quản lý công tác nghiên cứu khoa học thương mại, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý tiết kiệm ; thanh tra kiểm tra thực hiện chính sách quy hoạch kế hoạch phát triển thương mại ; tổ chức đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, đầu cơ lũng đoạn thị trường. Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước còn dựa trên cơ sở tăng cường hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh các công cụ tài chính tín dụng, sự hoạt động của các doanh nghiệp này cũng là một công cụ hữu hiệu để nhà nước lắm bắt và quản lý thị trường. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế được thực hiện toàn diện từ cấp cao nhất là nhà nước cho tới cấp cơ sở là các doanh nghiệp lớn nhỏ trong nền kinh tế. Cơ chế quản lý được thay đổi sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển năng động hơn, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng tốt hơn trước. Nghị quyết đại hộ IX đề ra : Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xây dựng nền kinh tế độc lập dân chủ, dưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, tăng trưoảng kinh tế đI đôI vớ phát triển văn hoá, từng bước cảI thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ môI trường, đI đôI với phát triển kinh tế –xã hội tăng cường an ninh quốc phòng. Thực công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, tiếp tục đưa nông nghiệp phát triển, chú trọng phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, Tây Nam …Mục tiêu trong 5năm 2001-2005: nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 7. 5%/năm, Tổng GDP năm 1005 gấp 2 lần GDP năm 1995. Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp là 20-21%GDP, công nghiệp và xây dựng là 38-39% các nghành dịch vụ là 441-42%. Tạo việc làm cho 7. 5 triệu lao động, nâng tỷ lệ lao động đào tạo lên 30%. b. Đổi mới cơ cấu Đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nhà nước tiến hành đổi mới cơ cấu nền kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường có sự đIũu tiết của nhà nước, tổ chức lại các thành phần kinh tế. Dựa trên việc phân tích của Lê-nin về sự cần thiết phảI phát triển kinh tế hàng hoá và sự tồn tại của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thời kỳ quá độ, nhà nước ta đã xác định 5 thành phần kinh tế tồn tại độc lập và bình dẳng trong nền kinh tế thị trường. Năm thành phần kinh tế bao gồm : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể – tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế tư bản tư nhân (theo như hiến pháp năm 1992 đã phân loại ). Nhà nước đổi mới tổ chức các hợp tác xã và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. năm thành phần kinh tế được tự do hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nhưng phải đảm bảo theo đúng pháp luật và được đặt dưới sự quản lý chung của nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động. Các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã đổi mới về quy mô, tổ chức và phương thức hoạt động để phát triển sản xuất kinh doanh. Kinh tế cá thể- tiểu chủ phát triển rộng rãI trong hầu hết các ngành kinh tế: thương mại, dịch vụ, nông- lâm- ngư nghiệp do đặc tính năng động nhạy bén trước những thay đổi của thị trường. Thành phần kinh tế này hoạt động rất hiệu quả. Kinh tế tư bản tư nhân bước đầu phát triển tập trung vào lĩnh vực thương mạ, dịch vụ, đầu tư vào sản xuất còn ít. Nhà nước ta đang có chủ trương khuyến khích tư bản tư nhân mạnh dạn đầu tư vào sản xuất công nghiệp nông nghiệp áp dụng công nghệ kĩ thuật hiện đại nhưng đồng thời cũng tăng cường hiệu lực quản lý để hạn chế mặt tiêu cực của thành phần kinh tế này. đối với kinh tế tư bản nhà nước, đây là hình thức tốt nhất để thu hút vốn, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Như Lê-nin đã phân tích, đây là hình thức kinh tế trung gian quá độ để đưa nền kinh tế nói riêng và đất nước ta nói chung nên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được đIũu đó, nhà nước ta đã không coi nhẹ hình thức kinh tế này và cũng không kìm hãm sự phát triển của nó mà chỉ hướng nó đI theo một mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. đổi mới kinh tế tạo ra môI trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp nào sản xuất hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành thấp sẽ được người tiêu dùng chấp nhận và sẽ khẳng định được vị chí trên thị trường. Tư đó các nhà sản xuất phảI tự nghiên cứu tìm tòi để tăng chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm. Sự cạnh tranh đó sẽ làm cho nền kinh tế phát triển. Mặt khác khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó giảI phóng cá nhân tham gia kinh tế khỏi sự phụ thuộc vào quan liêu, tạo điều kiện cho họ trở thành chủ thể của hoạt động kinh tế và qua đó tạo tính năng động sáng tạo cho mỗi thành viên. thể chế kinh tế thị trường đã phá bỏ quan hệ đặc quyền đẳng cấp, cung cấp môI trường cạnh tranh bình đẳng. Trước đây, nền kinh tế nườc ta mang nặng tình hiện vật, tự cung tự cấp, kế hạch hoá tập trung tạo nên tâm lý thụ động ỷ lại. Sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã mang lại sức sống cho nền kinh tế, đưa nó trở về vẻ đẹp vốn có. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá tác dụng của nền kinh tế thị trường, phải có sự quản lý đIều tiết vĩ mô của nhà nước để đảm bảo nó phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện phân phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội. Chế độ tem phiếu trước đây được bãi bỏ hoàn toàn. phân phối sản phẩm dựa theo thị trường. Nhà nước thi hành đánh thuế thu nhập nhằm phân phối lại thu nhập, đIều tiết trong táI phân phối để tránh bbất bình đẳng. Việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã tạo nên động lực, khơi dậy mọi tiềm năng, đặc biệt là tính năng động sáng tạo của mọi người trong xã hội. Cùng với sự đổi mới thành phần kinh tế, cơ cấu ngành và vùng kinh tế bắt đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo hướng quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu chế xuất, khu công nghiệp đang được xây dung. Rõ ràng nếu muốn nâng trình độ kinh tế hàng hoá nên trìng độ kinh tế thị trường hiện đại thì phải có một cơ sở kĩ thuật hiện đại. Nhìn chung nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất còn yếu kém, công nghệ lạc hậu nên năng xuất lao động không cao. Muốn xây dựng một nền kinh tế hiện đại thì không chỉ có đổi mới cơ chế mà phải đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. để đạt được điều đó, nhà nước ta phải tăng cường cải tiến nâng cấp các cơ sở kĩ thuật hiện có, tranh thủ công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới. Qua các dự án đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam, giám đặt nghiêm gặt việc nhập cônh nghệ và thiết bị, tránh biến nước ta thành bãI thảI công nghệ của thế giới. cơ cấu nghành kinh tế cũng đòi hỏi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên nhà nước vẫn thực hiện phát triển nhiều loại hình kinh tế nông nghiệp có hiệu quả, đó là kinh tế trang trại, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn, nông –lâm –ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá gắn liền với chế biến sản phẩm bằng công nghệ tiến bộ. Hiện nay, kinh tế nông thôn còn dựa chủ yếu trên cơ sở nông nghiệp để phát triển nhưng là một sự phát triển tổng hợp, đa ngành nghề với sự biến đổi quan trọng trong phân công lao động xã hội tại nông thôn còn dựa, tạo ra những lực lượng sản xuất mà nông nghiệp truyền thống trước đây trưa tong có. trước đây mô hình hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả do chỉ chú ý đến việc thay đôi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình cảI tạo xã hội chủ nghĩa mà không giảI quyết tốt vấn đề tổ chức quản lý và phân phối. Các hợp tác xã, tổ chức hợp ly sản xuất nông nghiệp chỉ có hình thức không có thực chất của quan hệ sản xuất mới. Để khắc phục tình trạng đó, nhà nước ta xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới theo nguyên tắc tự nguyện dânchủ bình đẳng, tổ chức và phân phối phong phú đa dạng. Các hợp tác xã chủ yếu chuyển hướng làm dịch vụ cung ứng vật tư, thuỷ lợi, thu mua nông sản, bảo vệ thực vật …. Hoạt động của nông trường quốc doanh cũng được nhà nước hỗ trợ bằng cách cho vay vốn. Thành phần kinh tế cá thể –tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước trong nông nghiệp cũng được nhà nước tạo điều kiện phát triển. Nhà nước chủ trương phát triển nông –lâm –ngư nghiệp, khai thác hết tiềm năng đa dạng của các ngành này. Công nghiệp và nông nghiệp liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Trong mối quan hệ với nông nghiệp, công nghiệp không chỉ dừng lại ở lĩnh vực chế biến mà còn có thể phát triển những ngành công nghiệp phục vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp như công nghiệp cơ khí, sửa chữa chế tạo máy móc nông nghiệp, thuỷ lợi … Về công nghiệp nói riêng, trình độ công nghệ kỹ thuật vẫn còn lạc hậu. Nhà nước ta khi bước vào thời kỳ đổi mới phảI tiếp nhận thưc trạng của cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp kém phát triển. Hiện nay, chủ trương của nhà nước là tăng cường đổi mới thiết bị và công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ với các nước tiên tiến trên thế giới nhằm rút ngắn quá trình nghiên cứu và phát triển. NgoàI việc nhập khẩu hợp lý những công nghệ tiên tiến từ nước ngoàI vào để thay thế công nghệ lạc hậu, nước ta cũng đã đồng thời nghiên cứu cảI tiến một số thiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50317.DOC