Đề tài Thị trường chứng khoán ở Việt Nam sau những năm hoạt động

A/ Lời mở đầu

Giới thiệu và dẫn dắt vào đề.

B/ Nội dung

I. Lý luận về thị trường chứng khoán.

1. Khái niệm của thị trường chứng khoán.

2. Chức năng của thị trường chứng khoán

3. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán

4. Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán

II. Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam

1. Tình hình hoạt động

2. Một số biện pháp tăng khả năng hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam

C/ Kết luận

 Tóm lược lại nội dung đã trình bày

 

doc13 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thị trường chứng khoán ở Việt Nam sau những năm hoạt động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Như chúng ta đều biết, nhu cầu về vốn đối với các doanh nghiệp và nhà nước là rất nhiều. Nó giúp cho qúa trình đầu tư và phát triển được thuận lợi, kịp thời. Và một trong những cách huy động vốn đạt hiệu quả đó là tham gia vào thị trường chứng khoán. Người phát hành chứng khoán thì có thể huy động được vốn còn người mua chứng khoán thì có thể thu được lợi nhuận. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã xuất hiện và đưa vào hoạt động được một thời gian. Với tuổi đời còn rất trẻ, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đang từng bước được hoàn thiện phù hợp với các quy luật của thị trường chứng khoán quốc tế. Để hiểu rõ hơn điều này, em xin lựa chọn đề tài:'' Thị trường chứng khoán ở Việt Nam sau những năm hoạt động". Với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế về mặt lý luận cũng như thực tế. Song với sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo nển em cũng xin mạnh dạn lựa chọn đề tài này để phân tích. Bài tiểu luận của em sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Chính vì vậy mà em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để bài viết của em được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Nội dung I. Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán. 1.Khái niệm thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán (TTCK) là hoạt động mua bán các loại chứng khoán dài hạn( cổ phiếu ,trái phiếu) có tổ chức, theo pháp luật(luật giao dịch chứng khoán) TTCK là nơi chắp nối quan hệ cung và cầu vốn đầu tư dài hạn của nền kinh tế quốc gia và quốc tế, là nơi gặp gỡ, giao dịch giữa những người cần vốn đầu tư với những người có vốn nhàn rỗi muốn đầu tư, cũng như giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với nhau. 2.Chức năng của thị trường chứng khoán. - Chắp nối tích luỹ với đầ tư. TTCK là nơi thu hút mạnh mẽ mọi nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi trong nước và ngoài nước và chuyển giao các nguồn này cho đầu tư phát triển. - Điều hoà vốn đầu tư. Do tác động của cung cầu,TTCK tự động điều hoà các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, tự động giải quyết linh hoạt, nhanh chóng mâu thuẫn của tình trạng thừa và thiếu vốn đầu tư giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các khu vực trong nước và giữa các nước. Cung cấp thông tin kinh tế. TTCK là nơi cung cấp kịp thời, vô tư và tương đối chính xác mọi nguồn thông tin có liên quan đến việc mua, bán ,kinh doanh chứng khoán của các thành viên trên thị trường. Các chuyên gia nghiên cứu, phân tích kinh tế, tài chính , thị trường, tiền tệ, giá cả cung cấp các thông tin này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, giúp họ không bị thiệt hại bởi những tin đồn thất thiệt của bọn đầu cơ chứng khoán. - Cung cấp dịch vụ cho việc mua bán chứng khoán Bằng những dịch vụ và kỹ thuật tính toán, thông tin hiện đại, TTCK tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên của thị trường giao dịch với nhau được nhanh chóng, dễ dàng, giảm được lãng phí và tổn thất về thời gian và tiền bạc. 3.Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. TTCK là một định chế tài chính phát triển cao trong nền kinh tế thị trường, hoạt động theo một cơ chế riêng biệt được tiêu chuẩn hoá và mang tính quốc tế. Thị trường này hoạt động theo những nguyên tác sau: - Việc giao dịch chứng khoán được thực hiện qua người môi giới: nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho những người mua chứng khoán, đảm bảo cho tất cả các loại chứng khoán đem ra bán trên thị trường đều là chứng khoán hợp pháp, đã đăng ký trên thị trường. - Cạnh tranh hoàn toàn: việc mua bán chứng khoán được thông qua đấu giá giữa những người môi giới với nhau .Giá chứng khoán trên thị trường được hình thanhg trên cơ sở cung cầu, không một người nào, một tổ chức nào có quyền áp đặt, hoặc độc đoán định giá theo ý của mình. -Công khai: Mọi hoạt động trên thị trường đều tiến hành công khai cho mọi thành viên của thị trườnà cho công chúng biết, không một chi tiết nào được giữ bí mật. Đây là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của thị trường chứng khoán. - Thực hiện chế độ kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế: Những công ty đã đăng ký và có cổ phiếu niêm yết trên TTCK phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ ,đúng tiêu chuẩn. Các báo cáo chỉ có giá trị sau khi đã được tổ chức kiểm toán xem xét và xác nhận. Các tài liệu được công bố công khai trên thị trường đều phải được kiểm toán. - Pháp chế hoá mọi giao dịch: Mọi nghiệp vụ giao dịch đều được quy định bằng các đạo luật, quy chế điều lệ của TTCK, nhằm bảo vệ các nhà đầu tư. 4. Cơ cấu thị trường chứng khoán. 4.1. Các thị trường chứng khoán. TTCK của một nước có hai cấp và hai loại: Hai cấp của TTCK là: thị trường cấp một và thị trường cấp hai. Hai loại thị trường là: thị trường chính thức và thị trường không chính thức. Thị trường cấp một. TTCK cấp một là thị trường chào bán lần đầu các loại chứng khoán. Phát hành chứng khoán vào lưu thông là giai đoạn động viên các nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Đây là giai đoạn khó khăn và phức tạp. Nếu tính toán, xác định không đúng các điều kiện phát hành, có thể bị thất bại do không tiêu thụ được chứng khoán, gây tổn thất tài sản và làm mất uy tín tổ chức phát hành. Phát hành chứng khoán là giai đoạn quan trọng nhất cho việc xây dựng và phát triển TTCK. Chừng nào chưa có thị trường cấp một rộng rãi, vững chắc, với nhiều loại chứng khoán đa dạng, phong phú, hấp dẫn khiến công chúng và các nhà đầu tư bỏ vốn ra mua nhiều loại chứng khoán, thì chừng ấy thị trường cấp hai chưa thể khai trương và hoạt động được. Thị trường cấp hai. TTCK cấp hai là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành trên thị trường cấp một. Đây là nơi giao dịch mua bán, thanh toán hàng ngày giữa những người kinh doanh chứng khoán với nhau. Những người kinh doanh chứng khoán và những người môi giới chứng khoán làm việc trong suốt ngày từ lúc mở cửa cho đén khi đóng cửa thị trường. Thị trường cấp hai bao gồm hai thị trường: thị trường chính thức và thị trường không chính thức. Thị trường chính thức là các sở giao dịch chứng khoán, thị trường không chính thức là các thị trường tự do. Thị trường chính thức. Sở giao dịch chứng khoán(SGDCK) là TTCK chính thức, là nơi giao dịch mua bán chứng khoán giữa các thành viên của thị trường với nhau. Các nhân viên của sở chỉ làm các nghiệp vụ quản lý và dịch vụ, không có nhiệm vụ mua bán kinh doanh trong sở. Sở không phải là cơ quan kinh doanh chứng khoán. Do vậy, dù giá chứng khoán có lên hay xuống, sở cũng không có lợi hay thua thiệt gì. Nhiệm vụ chủ yếu của SGDCK là tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên của thị trường kinh doanh chứng khoán mua bán được dễ dàng. Sở giao dịch chứng khoán có thể là một công ty tư nhân, một công ty chứng khoán của ngân hàng, một công ty chứng khoán hỗn hợp giữa Nhà nước và tư nhân, hay của một doanh nghiệp nhà nước 100%. Trong bất kỳ trường hợp nào, hoạt động giao dịch của SGDCK cũng chịu sự kiểm soát của Nhà nước(Bộ tài chính và uỷ ban chứng khoán nhà nước) và có giấy phép hoạt động do bộ tài chính hay uỷ ban chứng khoán cấp. Thị trường không chính thức. Khác với SGDCK là thị trường chính thức có trụ sở, trung tâm giao dịch, còn thị trường chứng khoán không chính thức không có trụ sở giao dịch, sàn giao dịch để những người mua bán giao dịch với nhau, không có ban quản lý, không tập trung ở một nơi nhất định. TTCK không chính thức gồm nhiều công ty bán chứng khoán rải rác khắp nơi trên đất nước. Những công ty này giao dịch mua bán chứng khoán với nhau thông qua mạng lưới điện thoại, điện tín rộng khắp. Hầu hết các loại chứng khoán mới phát hành đều được giao dịch mua bán ở thị trường không chính thức, sau một thời gian nhất định, một phần của loại chứng khoán này mới đăng ký giao dịch và niêm yết tại SGDCK. 4.2 Công ty chứng khoán. Công ty trực tiếp kinh doanh chứng khoán và bảo lãnh chứng khoán cho các công ty phát hành chứng khoán dược gọi là công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán thường được tổ chức thành nhiều bộ phận nghiệp vụ có liên quan với nhau như: -Phòng giao dịch kinh doanh thực hiện các nghiệp vụ môi giới và kinh doanh các loại cổ phiếu ,trái phiếu trên TTCK. -Phòng kế toán và thanh toán. -Các ban quảng cáo, nghiên cứư thị trường, phối hợp tài chính với ngân hàng đầu tư, bộ phận kho quỹ, lưu trũ hồ sơ. Trên TTCK, hoạt động của các công ty chứng khoán thể hiện ở các nghiệp vụ: môi giới chứng khoán tức là làm trung gian mua bán chứng khoán theo lệnh của thân chủ, hay nghiệp vụ phân phối chứng khoán tức là phân phối chứng khoán ra thị trường cho tổ chức phát hành chứng khoán để được hưởng tiền hoa hồng, hay nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tức là mua bán kinh doanh chứng khoán cho mình dể kiếm lời. 4.3 Các nhà kinh doanh chứng khoán. Người kinh doanh chứng khoán là người mua bán chứng khoán cho chính mình, bằng vốn của mình và ký hợp đồng với người môi giới hoặc người kinh doanh khác. Trong những người kinh doanh chứng khoán cần phân biệt người đầu tư và người đầu cơ. Hai người này kinh doanh chứng khoán đều nhằm mục đích kiếm lợi nhuận. Song, người đầu tư mua cổ phiếu để lầm chủ (một phần) những công ty có danh tiếng. Họ giữ cổ phiếu nhiều năm để thu lợi tức cổ phần của công ty . Còn người đầu cơ là muốn thu lợi nhuận thật nhanh. Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro, táo bạo chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán thật nhanh một loại cổ phiếu nào đó. Nhờ có hoạt động đầu cơ mà TTCK hoạt động nhộn nhịp, sôi nổi , liên tục, luôn có biến động bất ngờ. Những người đầu cơ lớn thường là các tỷ phú, các ngân hàng, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm... Khi đầu cơ đã trở thành cờ bạc thì TTCK sẽ mất ổn định, xuất hiện những cơn sốt bất ngờ, dẫn tới các cuộc khủng hoảng lớn hay nhỏ trên thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái. II. Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Tình hình hoạt động TTCK Việt Nam bắt đầu hoạt động tại trung tâm giao dịch chứng khoán đóng tại thành phố Hồ Chí Minh kể từ năm 2000 và sau gần một năm, trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội đã được khai trương. Lúc đầu trên thị trường chứng khoán chỉ có hai mặt hàng được bán ra là cổ phiếu của hai công ty REE và SACOM, đến cuối tháng 2 năm 2001, chợ chứng khoán đã có 8 sản phẩm mua bán tại TTCK Việt Nam, đó là các cổ phiếu của các công ty và cả trái phiếu kho bạc nhà nước( mang ký hiệuCP1-0100). Đã gọi là chợ thì thông lệ giao động thị trường phụ thuộc vào cung - cầu hàng hoá. Song đã gọi là TTCK, giao động vào cung cầu mua bán chứng khoán mang tính đặc thù bởi vi nó không phải là hiện vật bày ra trước mắt như các sản phẩm cụ thể khác. Chợ chứng khoán chỉ dành cho khách mua bán có hiểu biết nhất định về luật chơi của thị trường này. Với TTCKVN tuy mới hoạt động được một thời gian nhưng nó đã tỏ ra phù hợp, kịp thời với nền kinh tế từng bước theo cơ chế thị trường.Tại TTGDCK TP. HCM sau một tuần lễ hoạt động, mặc dù còn nhiều người chưa thông hiểu cơ chế kinh doanh chứng khoán của thị trường này, nhưng trong phiên giao dịch ngày 28-7-2000,một kỹ sư giám đặt mua 300 cổ phiếu của REE trong số 1000 cổ phiếu của REE bán ra với giá mua 16000đ/cổ phiếu. Đến phiên giao dịch ngày 18-9-2000, sau 20 ngày cổ phiếu của REE đã bán ra tới 18.100đ . Cũng cổ phiếu đó, trong phiên giao dịch ngày 9-2-2001 là 40.900đ và ngày 14-2-2001sụt xuống 39.300đ. Đó chỉ là một ví dụ tính khắc nghiệt của TTCK. Song , qua thực tế tại cácTTGDCK và qua dân chúng tham gia thị trường này có mấy vấn đề nổi lên ở TTCKVN là: -Thông thường chợ mới mở, cổ phiếu của các công ty thường đưa ra bán còn ít, có tính thăm dò. Với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty bán ra chưa hấp đẫn người mua vì lãi suất cố định, chênh lệch mua và bán thấp vì vai trò nhà nước quy định giao động mua bán theo biên độ nhất định, chưa kể đến chi phí (%) phải trả cho công ty môi giới. -Công chúng đầu tư( người mua cổ phiếu)chưa thoả mãn với các thông tin do công ty( bán cổ phiếu) cung cấp. Thông tin thường quá tóm tắt hoặc nêu chi tiết thì lại sa lầy vào thuật ngữ chuyên môn làm khó hiểu cho người đầu tư. Một số thông tin mà người mua cần biết có tính cơ bản là: mặt hàng kinh doanh có xuất khẩu không? xuất khẩu đi đâu? bao nhiêu kim ngạch?lãi ròng qua mấy năn của công ty? lợi nhuận cổ phần và cổ tức cổ phiếu? Muốn gây lòng tin cho người mua cổ phiếu thì báo cáo tài chính của công ty phải trung thực và phải được cơ quan kiểm toán đủ tín nhiệm xác nhận. Điều đó đảm bảo đồng vố cho người đầu tư và tránh tình trạng công ty lừa đảo để huy động vốn. Và tâm lý người mua chứng khoánlà luôn muốn nhận được hàng nhanh khi có nhu cầu bởi vì giá cổ phiếu trên thị trường có thể biến động từng ngày thậm chí từng giờ. Song ở TTCKVN công việc mua bán được hoàn tất phải mất 4 ngày.Đây là vấn đề phụ thuộc kỹ thuật và trình độ của các nhà chuyên môn trong TTGDCK với các thành viên lưu ký và ngân hàng tham gia. Điều này ảnh hưởng tới tâm lý của người mua. -Có chứng khoán chợ đen chưa? Phải chăng đó là tính tất yếu của thị trường, có kẻ mua thì sẽ có người bán? Tại TP HCM cùng với hoạt động của TTGDCK tháng 8-2000 đã xuất hiện những nhân vật buôn bán cổ phiếu ngoài luồng, tức là buôn bán trao tay không thông qua công ty môi giới. Đương nhiên độ rủi ro cao. Song để thị trường chứng khoán sôi động Nhà nước có thể cho phép hoạt động của thị trường OTC(over the counter) tức là có thể mua bán các chứng khoán chưa được niêm yết tại TTCK tập trung. Tuy nhiên, thị trường OTC cần có quy chế nhà nước mới có thể giảm thiểu độ rủi ro cho người tham gia vào TTCK bởi vì không qua công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm mà người dân hiểu biết về TTCK còn rất mơ màng. Một số biện pháp tăng khả năng hoạt động của TTCK ở Việt Nam. Tăng cung hàng hoá cho thị trường về số lượng và chất lượng Nghiên cứu ban hành quy định về phát hành và niêm yết chứng khoán thực hiện thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các tổ chức của nhà nước. Gắn chương trình xắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, chủ chương cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với việc đưa các doanh nghiệp này tham gia phát hành, niêm yết trên TTCK. Thực hiện chính sách bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, hạn chế cơ bản các chế độ ưu đãi vốn đối với DNNN. Ban hành chính sách ưu đãi về thuế. Ban hành các chính sách khuyến khích sự ra đời của các công ty đầu tư mạo hiểm. Nghiên cứư ban hành các chính sách khuyến khích đưa thêm các loại cổ phiếu của ngân hàng thương mại, cổ phiếu của các công ty lớn, cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp vào niêm yết hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc áp dụng quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, thực hiện chế độ kế toán , kiểm toán theo thông lệ quốc tế. Đẩy mạnh cầu chứng khoán. áp dụng nhiều biện pháp thu hút các nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường, phát triển các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường như Quỹ đầu tư, quỹ hưu trí bảo hiểm, ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu ban hành các chính sách kích cầu như phát triển chương trình bán cổ phiếu cho người lao động trong doanh nghiệp, nới lỏng các quy định hạn chế các tổ chức tín dụng tham gia thị trường thúc đẩy thành lập cacs quỹ đầu tư và công ty tư vấn đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nhỏ, nới lỏng hạn chế đầu tư của người nước ngoài, ban hành chính sách ưu đãi về thuế... Phát triển các công ty chứng khoán. Nâng vốn điều lệ tối thiểu của các công ty chứng khoán để nâng cao tiềm lực tài chính của các công ty này, khuyến khích các công ty mở rộng phạm vi kinh doanh và phát triển tất cả các loại hình kinh doanh chứng khoán khác như tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đàu tư. Trong giai đoạn tiếp theo phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình: Công ty đa doanh và chuyên doanh. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh ở các khu đông dân cư, những khu vực chưa có điều kiện mở chi nhánh nhằm thu hút thêm các nhà đầu tư. Khuyến khích thêm các ngân hàng thương mại được làm tổ chức lưu ký, đại lý nhận lệnh. Mở rộng các hình thức nhận lệnh từ xa. Hiện đại hoá các hệ thống thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán với TTGDCK và người đầu tư. Phát triển hệ thống tác nghiệp tập trung cho các công ty chứng khoán để hiện đại hoá hệ thống tác nghiệp trên cơ sở tiết kiệm chi phí, dễ dàng chia sẻ thông tin giúp cho việc quản lý được thuận tiện nâng cao chất lượng sử lý giao dịch và dễ dàng nâng cấp cho tương lai. Phát triển số lượng công ty chứng khoán nhằm tạo ra sự cạnh tranh, cho phép các công ty chứng khoán chuyển nhượng vốn cho các đối tác nước ngoài, lập công ty chứng khoán liên doanh và thực hiện niêm yết cổ phiếu của công ty chứng khoán. Khuyến khích các công ty quản lý quỹ tăng vốn và mở rộng hoạt động, khuyến khích thành lập công ty liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực quản lý quỹ. Khuyến khích phát triển hệ thống quỹ đầu tư chứng khoán, đặc biệt những quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào quỹ ĐTCKVN; khuyến khích các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia TTCKVN, ban hành chính sách ưu đãi thuế để đảm bảo việc đầu tư vào TTCK qua quỹ đầu tư không chịu thuế cao hơn so vơí các hình thức đầu tư khác. Hiện đại hoá các hệ thống và nâng cấp hoạt động của TTGDCK. Củng cố hệ thống giao dịch hiện có của TTGDCK TP. HCM. Đưa hệ thống giao dịch tự động mới vào vận hành có thể khớp lệnh liên tục hoặc định kỳ. Kết nối mạng diện rộng với các công ty chứng khoán thành viên. áp dụng hệ thống ngừng giao dịch tự động khi đưa hệ thống khớp lệnh liên tục vào hoạt động. Hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký thanh toán. Nâng cấp hệ thống công bố thông tin, đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ bao gồm thông tin giao dịch trên thị trường, thông tin về các công ty niêm yết, thông tin về các tổ chức trung gian thị trường và thông tin quản lý thị trường. Tự động hóa một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán, tự động hoá từng bước hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ. Thực hiện nối mạng giữa các thành viên lưư ký và TTGDCK. Xây dựng các hệ thống dự phòng cho thị trường để sử dụng trong trường hợp hệ thống chính không vận hành được. Phát triển TTGDCK thành SGDCK. Xây dựng thị trường GDCK cho các DNV&N. Chuẩn bị xây dựng thị trường GDCK phi tập trung. Nghiên cưú xây dựng thị trường phi tập trung theo nguyên tắc từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn, từ đơn giản đến hiện đại, với cơ chế định giá thoả thuận để hoàn thiện hệ thống tổ chức thị trường, tạo sự linh hoạt và thuận tiện hơn cho người tham gia thị trường. Sau khi TTGDCK Hà Nội hoạt động một số năm và khi điều kiện cho phép sẽ tổ chức một TT phi tập trung thử nghiệm do TTGDCK Hà Nội vận hành. Chứng khoán được đăng ký giao dịch trên thị trường phi tập trung theo các tiêu chuẩn quy định. Xây dựng trung tâm lưu ký độc lập. Phát triển các tổ chức đăng ký chuyển nhượng chứng khoán. Trước mắt sửa đổi và bổ xung các quy định pháp lý để TTGDCK và các công ty chứng khoán thành viên được phép cung cấp dịch vụ đăng ký chuyển nhượng chứng khoán cho các CtyNY và chưa niêm yết trên TTCK. Khuyến khích các tổ chức định mức tín nhiệm tham gia thị trường. Xúc tiến hình thành hiệp hội Chứng khoán Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK. Ban hành nghị định mới thay thế nghị định 48/1998/NĐ-CP. Xây dựng "Luật Chứng khoán" và các văn bản pháp luật liên quan. Củng cố phát triển hệ thống thanh tra, giám sát hiện đại, tự động hoá. áp dụng chuẩn mực giám sát cơ bản trên TTCK. Xây dựng và phát triển kỹ năng giám sát thích hợp; Kết hợp giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa để luôn kiểm soát có hiệu quả tính lành mạnh và sự tuân thủ quy định về hoạt động của các CtyCK. Thực hiện tự động hoá một phần đến tự động hoá hoàn toàn trong khâu giám sát thịh trường, áp dụng các biện pháp, hình thức sử lý cưỡng chế nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm pháp luật chứng khoán và TTCK, từ phạt hành chính đến các chế tài dân sự, hình sự. Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Bộ máy UBCKNN phải được tổ chức là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực, nghành hoạt động độc lập, đáp ứng yêu cầu quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với TTCK. Việc đào tạo nguồn nhân lực phải cớ sự phối hợp giữa UBCKNN và các cơ quan hữu quan, với các định chế hoạt động trên thị trường, trông đó bao gồm đào tạo các nhà quản lý, nhân viên tác nghiệp và công chúng đầu tư, xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu quản lý,tác nghiệp trên TTCK. Kết luận Qua việc phân tích tìm hiểu về TTCK ở Việt Nam chúng ta thấy được rằng sau khi đưa vào hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã thu được những kết quả đáng kể: Huy động được nguồn vốn cho một số doanh nghiệp và nhà nước, đem lại lợi nhuận cho một số người kinh doanh chứng khoán. Song bên cạnh đó thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã tồn tại một số vấn đề cần được giải quyết. Với sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư của nhà nước để hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới, chúng ta đều hy vọng rằng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ từng bước phát triển ngang bằng so với các thị trường chứng khoán quốc tế. mục lục A/ Lời mở đầu Giới thiệu và dẫn dắt vào đề. B/ Nội dung Lý luận về thị trường chứng khoán. Khái niệm của thị trường chứng khoán. Chức năng của thị trường chứng khoán Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam Tình hình hoạt động Một số biện pháp tăng khả năng hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam C/ Kết luận Tóm lược lại nội dung đã trình bày Tài liệu tham khảo - Sách tài chính - ĐH Quản lý và Kinh doanh - Sách thị tường chứng khoán - ĐHKTQD - Tạp chí chứng khoán Việt nam - Tháng 1-2003 - Tạp chí doanh nghiệp (Tháng8-2001) - Thời báo tài chính (Tháng 10, 11, 12- 2003)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0722.doc
Tài liệu liên quan