Quan điểm định hướng và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ

 

LỜI CẢM ƠN 1

A. LỜI MỞ ĐẦU 2

B. NỘI DUNG 3

I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ ở Việt Nam 3

1.1. Mục tiêu cuối cùng 3

1.1.1. Ổn định giá cả 3

1.1.2. Tăng trưởng kinh tế 3

1.1.3. Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ 4

1.1.4. Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng 5

1.2. Mục tiêu trung gian 6

1.3. Mục tiêu hoạt động 7

II. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới 8

2.1. Giai đoạn chuyển đổi 8

2.2. Giai đoạn 1991 - 1995 9

2.3. Giai đoạn 1996 đến nay 14

III. Quan điểm định hướng và các giải pháp thực thi CSTT 23

3.1. Những khó khăn và tồn tại trong quá trình thực hiện CSTT 23

3.2. Những quan điểm định hướng hoàn thiện 26

3.3. Biện pháp để tiến hành CSTT 28

C. KẾT LUẬN 31

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan điểm định hướng và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãi suất nội tệ và ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay có thời hạn dài sẽ cao hơn huy động và cho vay có thời hạn ngắn. Lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại theo phương pháp chiết khấu trên cơ sở lãi suất cho vay thị trường thông qua phương thức tái cấp vốn, mức chiết khấu cụ thể theo yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ. + Chính sách quản lý ngoại hối dần từng bước đảm bảo Nhà nước nắm giữ được ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu và ổn định giá trị đồng tiền nội tệ. Điều hành tỷ giá ngoại tệ linh hoạt góp phần kiềm chế lạm phát, khuyễn khích xuất khẩu và thu hút vốn đàu tư nước ngoài. Định hướng lâu dài của chính sách ngoại hối là trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, từng bước củng cố và nâng cao giá trị của đồng Việt Nam và phấn đấu trở thành đồng tiền chuyển đổi. + Chính sách đối với ngân sách: xây dựng được tư tưởng chỉ đạo không phát hành bù đắp thâm hụt; số thiếu hụt của ngân sách là một phần được vay nước ngoài. - Sử dụng các công cụ hỗ trợ để điều hành chính sách tiền tệ theo yêu cầu và mục đích từng thời kỳ: + Điều chỉnh lãi suất tín dụng đối với nền kinh tế. + Tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. + Xác định hạn mức tín dụng cho các Ngân hàng thương mại. + Tổ chức các thị trường nội và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. + Phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Kết quả của việc điều hành chính sách tiền tệ: - Thực hiện kế hoạc cung ứng tiền có kết quả cho 02 mục tiêu: tăng tài sản có ngoại tệ và đáp ứng phương tiện thanh toán cho các Ngân hàng thương mại bằng phương thức tái cấp vốn. Nhờ đó, lượng cung ứng tiền tệ ra đã được cân đối với lượng ngoại tệ và khối lượng tín dụng cần thiết, không gây tác động đến lạm phát. - Tạo dựng các công cụ tiến hành chính sách tiền tệ gián tiếp bên cạnh công cụ hạn mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại. - Đổi mới chính sách lãi suất theo hướng thị trường, từng bước xoá bỏ bao cấp qua lãi suất, xây dựng chính sách lãi suất theo nguyên tắc người gửi có lợi, người vay chấp nhận và ngân hàng kinh doanh được nhằm khuyến khích huy động vốn và mở rộn cho vay. - Có nhiều biện pháp tình thế để kiềm chế lạm phát, nâng cao giá trị đồng tiền Việt Nam. - Tín dụng đối với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, vốn huy động năm 1994 tăng gấp 2 lần và tổng dư nợ nền kinh tế tăng gấp 3,6 lần năm 1991, vốn huy động ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ cho vay, cơ cấu tín dụng thay đổi theo hươnge tăng tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn và kinh tế ngoài quốc doanh, giảm tương ứng tỷ lệ trọng trong cho vay ngắn hạn và kinh tế quốc doanh, đã đáp ứng ngày càng tốt hươn nhu cầu vốn của nền kinh tế, đặc biệt là đã chú ý đến khu vực nông thôn. - Thực hiện cân đối nhu cầu tiền mặt cho nrrnf kinh tế, xoá bỏ tình trạng khấu hoãn chi tiền mặt, không phận biệt tiền mặt và chuyển khoản, xoá bỏ dần tâm lý giữ tiền mặt trong các tổ chức kinh tế và dân, nghiên cứu, tạo điều kiện thu hút vốn vào ngân hàng và đẩy nhanh tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt. - Từng bước đổi mới chính sách quản lý ngoại hối, tăng cường phương thức việc Nhà nước nắm ngoại tệ, thu hút ngoại tệ vào ngân hàng để phục vụ nhập khẩu và giữ ổn định được tỷ giá ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Xây dựng tư tưởng chỉ đạo không phát hành cho ngân sách mà xử lý thiếu hụt ngân sách bằng vay dần thông qua thị trường tín phiếu kho bạc và vay nước ngoài. Những mặt hạn chế: - Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế tr: + Lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với các yêu cầu cần đặt ra của nền kinh tế và của chính sách tiền tệ. + Lãi suất tái cấp vốn chưa phát huy được tác dụng của điều tiết khối lượng tiền một cách tích cực; + Công cụ dự trữ bắt buộc chưa theo yêu cầu của chính sách tiền tệ, các tổ chức tín dụng chấp hành chưa đúng tỷ lệ quy định và Ngân hàng Nhà nước xử lý chưa nghiêm minh. + Cán cân thanh toán còn bị thâm hụt lớn. + Ngân sách còn căng thẳng và điều chỉnh chưa ăn khớp với chính sách tiền tệ, chi ngân sách theo thời vụ, thường tập trung vào cuối năm là một yếu tố gây áp lực lên lạm phát. - Hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn chưa phát rriển mạnh và chưa hoànthiện, chưa nhạy cảm với nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. - Chưa thực hiện triệt để tư tưởng chỉ đạo là không phát hành bù đắp thâm hụt ngân sách; nhưng trên thực tế vẫn phát hành cho ngân sách chitiêu, bằng cách ngân hàng tạm ứng cho ngân sách chi, song không được hoàn trả đúng thời hạn, dẫn đến tăng tổng phương tiện thanh toán qua mức, gây tăng lạm phát ngoài dự kiến. - Hình thành thị trường tín phiếu kho bạc chậm, làm cho Ngân hàng Nhà nước chậm nắm được và điều hành công cụ này phục vụ cho nghiệp vụ thị trường mở. - Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính chưa ăn khớp, chưa nhịp nhàng. 2.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến nay Chính sách tiền tệ trong thời kỳ này càng tỏ rõ vai trò quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô của một quốc gia, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, nâng dần giá trị đồng nội tệ, tạo lòng tin trong nước và nước ngoài, thúc đẩy đầu tư, góp phần đamt bảo sự tăng trưởng liên tục và vững chắc cho nền kinh tế, kìm giữ lạm phát. Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ trong thời kỳ này là: - ổn định sức mua trong nước của đồng nội tệ và duy trì giá trị hợp lý đối với ngoại tệ trong giao dịch đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động tài chính trong nền kinh tế, góp phần kìm giữ lạm phát ở mức hợp lý. - Góp phần tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc. Các công cụ chính sách tiền tệ được hình thành trong thời kỳ này, cụ thể là: - Hạn mức tín dụng: Công cụ này dược Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ tháng 6/1994, đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, sang đến năm 1998, tình hình lại chuyển biến ngược lại, hạn mức tín dụng thừa ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Công cụ hạn mức tín dụng trở nên không hiệu quả, một phần vì bản thân công cụ này đã mang tính chất hành chính và thiếu linh hoạt. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ thêm những nhân tố khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng. Do vậy, từ cuối năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không áp dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, mức tăng trưởng tín dụng vẫn được tiếp tục theo dõi để có những giải pháp kịp thời hạn chế sự gia tăng tín dụng khi tốc độ tín dụng có xu hướng tăng nhanh. Lúc này Ngân hàng Nhà nước đã chuyến việc điều hành chính sách tiền tệ sang một số công cụ khác. - Dự trữ bắt buộc Kể từ khi ban hành Quyết định số 260QĐ-NHNN1 ngày 19/9/1995, mức dự trữ bắt buộc được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi, không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi có kỳ hạn 12 thanga. Quy chế dự trữ bắt buộc lần này đã được quy định cụ thể hơn, thể hiện ở việc quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước được tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Năm 1998, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dngj chung cho các tổ chức tín dụng và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%, từ tháng 3 đến tháng 6/1999, tỷ lệ này là 7% và từ tháng 6/1999 là 6%. Ngân hàng Nhà nước không trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Đối với việc tiền gửi dự trữ vượt quá, Ngân hàng Nhà nước áp dụng lãi suất 0,2%/tháng (bằng Việt Nam đồng) và 4,86%/năm (bằng ngoại tệ). Đồng thời, những tổ chức tín dụng thiếu tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì thì bị phạt theo mức 200% trần lãi suất cho vay bằng USD doThống dốc ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ (đối với dự trữ bắt buộc bằng USD). Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện nay. Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao điều này cho thấy đã có sự phối hợpvận dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Điều này rất dễ thấy trong diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 1999-đây là năm mà Chính phủ mở rộng tiền tệ để kích cầu, lãi suất trần được điều chỉnh giảm 4 lần thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm đến 3 lần. Trong năm 2001, công cụ dự trữ bắt buộc tiếp tục được điều hành phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ , quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Việc nâng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15% tiến hành đồng thời với việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống 3% (riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn xuống 2%) vào tháng 5/2001, đã có tác dụng hỗ trợ lớn đối với việc điều hành lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ so với lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, qua đó góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá. Và để phù hợp với diễn biến thị trường quốc tế và trong nước, nhất là xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế. Tháng 12/2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống 10%. Qua phân tích trên, chúng ta thấy chính sách kinh tế nói chung, chính sách tiền tệ nói riêng trong thời gian qua đã thực hiện được mục tiêu: ổn định đồng nội tệ, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo nền tảng tài chính, ổn định mức cung tiền cho nền kinh tế hàng năm không còn theo ý muốn chủ quan mà dựa trên tốc độ tăng trưởng và lạm phát dự kiến, đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã được quyền chủ động bơm và rút tiền khỏi lưu thông trên cơ sở chỉ tiêu Nhà nước đã được duyệt, loại bỏ tình trạng thiếu tiền mặt có tính chất thời điểm trong nền kinh tế. Trong điều kiện thị trường mở ban đầu chưa hoạt động một cách có hiệu quả thì phương tiện thanh toán thông qua ngân phiếu thanh toán như vừa qua vẫn là giải pháp hữu hiệu trong việc bơm và rút tiền khỏi lưu thông, mặc dù sử dụng ngân phiếu thanh toán cũng có những hạn chế nhất định. Ngoài ra, việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc có hiệu quả theo mục tiêu đề ra cần phải có sự kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ việc chấp hành dự trữ bắt buộc và xử phạt nghiêm khắc những vi phạm. - Tái cấp vốn Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thương mại theo các hình thức: cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại tại ngân hàng Nhà nước. Trong giai đoạn trước tháng 3/1997, Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước tái cấp vốn. Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ tháng 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định một cách độc lập, tái cấp vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được ngân hàng Nhà nước quan tâm hơn trong việc điều tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng, công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. Nếu Ngân hàng Nhà nước muốn các tài chính tín dụng khai thác nguồn vốn trong nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn cao. Ngược lại, việc quy định một mức tái cấp vốn lãi suất cao ngược với quy định một mức tái cấp vốn lãi suất thấp, chỉ khuyến khích (có lợi) vay của Ngân hàng Nhà nước. trong thờigian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi hỏi phải thận trong hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất tái cấp vôn như thế nào là hợp lý. Bởi vì một mức tái cấp vốn lãi suất thấp sẽ khuyến khích các tổ chức tín dụng vay của ngân hàng Nhà nước sau đó mua lại các giấy tờ có giá. Trường hợp này chẳng khác nào Ngân hàng Nhà nước dùng chính tiền của mình mua lại các giấy tờ có giá. Kết quả là nghiệp vụ thị trường mở không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn hay lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Năm 1998, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ 1%/tháng lên 1,1 %/tháng. Năm 1999, cùng việc giảm dần lãi suất cho vay, lãi suất tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85%/tháng. Trong những năm 1999, 2000 và đầu năm 2001, lãi suất tái cấp vốn liên tục được điều chỉnh giả, nhằm thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ phục vụ cho mục đích kích cầu của nền kinh tế. Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộg tín dụng, tiếp tục thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá tiêu dùng thự tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu khá linh hoạt nhằm tác động vào các diễn biến tiền tệ theo các mục tiêu đã dự định. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đã được điều chỉnh giảm 2 lần và hiện ở mức 0,4%/tháng và 0,35%/tháng tương ứng. - Lãi suất Thời kỳ này đánh dấu căn bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách lãi suất thông qua các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giưã lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35%/tháng trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ lãi suất được công bố. Các Ngân hàng thương mại được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh. Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới tự do lãi suất. Do cơ chế lãi suất trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò là lãi suất chủ đạo, định hướng của các tổ chức doanh nghiệp, ấn định mức lãi suất kinh doanh. Vì thế, kể từ ngày 5/8/2000, theo Quyết định số 241/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mứac lãi suất cơ bản và biên độ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định cho từng thời kỳ. Đối với lãi suất cho vay bằng USD, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định mức lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng SIBOR: kỳ hạn 2 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay (theo biên độ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định cho từng thời điểm cụ thể). Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần, bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các tổ chức tín dụng hình thnàh các lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà Nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì viêc quy định biên độ giao động là nhằm đảm bảo Nhà nước trước khi chuyển hẳn sang lãi suất thị trường, lúc đó việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chính vì vậy mang tình hình lãi suất ngân hàng đến nay hầu như không biến động so với thời điểm trước khi điêù chỉnh. Ngày 29/5/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 718 v/v thây đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng USD. Theo đó, các tổ chức tín dụng được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước.Đây là bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt, đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đổi mới điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế cùng với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng. Thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản từ mức 0,75%/tháng xuống 0,6%/tháng. Trên thực tế việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2001 là phù hợp với tình hình diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa lãi suất Việt Nam đồng và ngoại tệ. Từ tháng 6/2002, đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, cứ 3 tháng bằng 1%/năm đối với cho vay ngắn hạn lãi suất SIBOR 6 tháng bằng 2,5%/năm, đối với cho vay trung và dài hạn, chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo đó, các tổ chức tín dụng được tư do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vôn tín dụng ngoại tệ như trong nước.Việc ngân hàng Nhà nước thực hiện tự do hoá lãi suất ngoại tệ trong nước là bước chuyển biến tích cực,gấn thị trường tiền tệ trong nước với thế giới và từng bước hội nhập quốc tế.Riêng đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn quy định khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế nắm giữ USD trên tài khoản, hạn chế đô la hoá trong điều kiện tỷ lệ kết hối giảm xuống mức 40%. Ngoài ra, phù hợp với xu hướng giảm lãi suất trên thị trường quốc tế. Tháng 12/2001, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn của tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước xuống 1,7%/năm. Vì vậy, việc hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai đoạn tới chủ yếu là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất phải vừa đáp ứng lợi ích của người đi vay và người cho vay, đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi. Theo như hiện nay, Ngân hàng Nhà nước xác định mức lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một số Ngân hàng thương mại là rất phiến diện, chưa phản ứng hết quan hệ cung cầu tín dụng thực của thị trường . Tỷ giá hối đoái: Về bản chất thì chính sách tỷ giá hối đoái giai đoạn này hầu như không biến đổi, với biên độ được điều chỉnh giảm từ ±0,7% xuống còn ±0,1% và hằng ngày ngân hàng Nhà nước sẽ công bố tỷ giá liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng quy định tỷ giá mua và bán. Kể từ đó đến nay, tỷ giá liên ngân hàng vẫn luôn luôn tăng kịch trần nhưng do biên độ chỉ có ±0,1%, nên tỷ giá hối đoái chỉ dao động từ 10-20đ/USD. Tuy nhiên, nhiều lúc tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng tăng kịch trần nhưng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hàng ngày, hôm sau vẫn được Ngân hàng Nhà nước công bố ở mức cũ, điều này chứng tỏ tỷ giá liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của Ngân hàng Nhà nước . Trong thời gian tới, khi mà lãi suất chưa được tự do hoá vẫn còn sự can thiệp của Nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng nhưng chưa thực sự vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì cơ chế tỷ giá công bố và biên độ giao dịch như hiện nay là cần thiết. Hiện nay nhu cầu về ngoại tệ còn rất cao, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, cung ngoại tệ thì rất hạn chế. Nhiều người thừa nhận đồng Việt Nam có giá cao, nếu cứ để tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung cầu thị trường sẽ tất yếu dẫn đến một sự tăng vọt không lường, nguy cơ lạm phát và khủng hoảng sẽ xảy ra. Mặt khác ,trong nước đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhập khẩu đang chiếm một tỷ trọng lớn hơn so với xuất khẩu. Thực vậy, cơ cấu xuất khẩu của nước ta chủ yếu là hàng nông sản, may mặc, giầy da...những mặt hàng có hàm lượng chất xám đang còn thấp; trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu thường là máy móc, thiết bị hiện đại, các nguyên liệu đầu vào... Do đó, lợi ích của việc nhập khẩu hiện nay là lớn hơn xuất khẩu. Ngoài ra, nếu tỷ giá hối đoái tăng vọt sẽ làm cho các khoản nợ nước ngoài tăng. Chính vì vậy, việc duy trì một tỷ giá hối đoái sẽ làm cho Nhà nước chủ động hơn trong việc phân tích những lợi ích của các mức tỷ giá hối đoái mang lại. Năm 2001, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt bám sát biến động của lãi suất USD trên thị trường trong nước. Ngày 8/9/2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng kỳ hạn các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi của các tổ chức tín dụng, và điều chỉnh mức gia tăng tỷ giá hoán đổi kỳ hạn với trần tỷ giá giao ngay. Điều này giúp cho các tổ chức tín dụng có điều kiện thực hiện linh hoạt các giao dịch ngoại hối, các tổ chức tín dụng chủ động hơn trong kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo vai trò kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước . Trong bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhiều biến động, việc điều hành tỷ giá linh hoạt và sự can thiệp kịp thời của Nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã góp phần ổn định tỷ giá, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập khẩu. Tỷ giá bình quân giữa Việt Nam đồng và USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng dự kiến tăng khoảng 4% so với cuối năm 2000. Nhìn lại năm 2001, với mức tăng tổng phương tiện thanh toán dự kiến khoảng 23-34% và tín dụng cho nền kinh tế dự kiến tăng trưởng khoảng 21% so với cuối năm 2000, cho thấy việc điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Việc sử dụng linh hoạt và đồng bộ các chính sách tiền tệ và các giải pháp kịp thời về điều hành chính sách tiền tệ như nêu trên đã có những tác động nhất định đối với việc hạn chế tác động tiêu cực của thị trường quốc tế, hạn chế xu hướng giảm chỉ số tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định giá trị đồng Việt Nam . Bước sang năm 2002, với triển vọng kinh tế thế giới cũng như kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi, những thuận lợi, khó khăn và thách thức mới đối với việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Trước hết về bức tranh kinh tế thế giới, sau sự kiện ngày 11/9/2001 và các diễn biến gần đây trên thế giới, dự đoán của nhiều chuyên gia kinh tế về triển vọng kinh tế thế giới năm 2002 kém khả quan hơn. Đặc biệt, vừa qua Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh giảm dự báo về tốc đọ tăng trưởng kinh tế thế giới, kinh tế của các khu vực nói chung và các nước công nghiệp phát triển nói riêng. Chẳng hạn, như kinh tế Mỹ dự báo sẽ chỉ tăng trưởng khoảng 0,7% năm 2002, kinh tế khu vực châu Âu tăng trưởng khoảng 1,7%, Nhật Bản tiếp tục suy thoái với mức tăng trưởng dự kiến -1,3%. Riêng kinh tế châu á nhìn chung vẫn giữ nhịp độ tăng trưởng khoảng 5,6%, trong đó một số nền kinh tế phát triển như Xin-ga-po, Đài Loan, Hồng Kông sẽ chỉ phục hồi ở mức thấp. Trong năm 2002, Trung Quốc vẫn là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu với mức tăng trưởng dự kiến đạt trên 7%. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, kinh tế thế giới sẽ phục hồi vào nửa cuối năm 2002. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7%-7,3%, chỉ số giá tiêu dùng dự kiến tăng khoảng 3-4% so với cuối năm 2001. Đặc biệt, năm 2002, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được thực hiện sẽ có tác động rõ nét đến kinh tế Việt Nam, nhất là lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu sang thị trường Mỹ dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh mẽ nhất là đối với một số mặt hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản. Theo đó, dự kiến tín dụng phục vụ mục tiêu xuất khẩu những mặt hàng này sẽ gia tăng. Nhìn chung, mức tăng tín dụng cho nền kinh tế sẽ vào khoảng 25% so với cuối năm 2001. Nghiệp vụ thị trường mở: Thị trường mở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2002, tham gia thị trường nàylà Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, đến nay Ngân hàng Nhà nước chỉ cấp giấy phép hoạt động cho 12 thành viên. Hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất hạn chế, chủ yếu là tín phiếu Kho bạc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Tổng khối lượng 2 loại tín phiếu này đang được các Ngân hàng thương mại nắm giữ khoảng 3.000 tỷ đồng, trong đó 1.000 tỷ đồng là tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Trong phiên đấu thầu đầu tiên đã mở hơn một năm nay, và cho đến nay, về phương diện pháp lý đã hoàn tất, từ việc ban hành quy chế, quy trình nghiệp vụ thị trường mở, quy định về đăng ký gấy tờ có giá ngắn hạn đến việc thành lập ban điều hành. III- Quan điểm định hướng và các giải pháp thực thi chính sách tiền tệ 3.1. Những khó khăn và tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ. Mặc dù không nằm trong "tâm điểm" của cơn bão tiền tệ Đông Nam á nhưng thời gian gần đây diễn biến kinh tế phức tạp và ảm đạm của hàng loạt các nước trong và cận kề ngoài khu vực (trừ Trung Quốc, Đài Loan) cho phép khẳng định Việt Nam cũng khó có thể thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc "đôminô" về tăng trưởng kinh tế đang diễn ra ít nhất là trong vòng 2-3 năm kể từ cuối năm 1997. Có tới 70%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0852.doc
Tài liệu liên quan