Đề tài Thực trạng của ngân hàng nhà nước Việt Nam và giải pháp để phát triển

Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã và đang chấp cánh cho nền kinh tế tăng trưởng. Trong những năm qua, hệ thống tài chính – tiền tệ của nước ta đã phát triển và đổi mới liên tục, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, phát triển, xoá đói giảm nghèo. Một hệ thống tài chính – tiền tệ đã hình thành, đáp ứng ngày càng có hiệu quả hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế, nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, nông dân cũng như nhu cầu thanh toán và tiêu dùng của dân cư.

Nếu như trong những năm 1990, độ sâu tài chính mức độ tiền tệ hoá của nền kinh tế còn thấp thì trong những năm gần đây đã nhanh chóng tăng lên và đạt mức trung bình của các nền kinh tế có mức thu nhập tương đương.

Thành tích nổi bậc của Ngân hàng nhà nước được thể hiện trên các mặt sau:

Tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội ban hành 2 Luật về Ngân hàng: Xây dựng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến 2010 trình Bộ Chính trị thông qua. Thể chế hoá 2 Luật về Ngân hàng vầ các văn bản của Chính phủ. Đồng thời, xây dựng và ban hành hàng loạt các cơ chế, chính sách về hoạt đồng tiền tệ – ngân hàng, tạo hành lang pháp lý cho họat động của Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6503 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của ngân hàng nhà nước Việt Nam và giải pháp để phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân hàng cho thấy những diễn biến tích cực và rất đáng mừng của nền kinh tế ở thời điểm hiện tại cũng như trung và dài hạn Tại thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất và sôi động nhất cả nước, tính đến hết tháng 10-2007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn đật 437.000 tỷ đồng, tăng 53% so với cuối nămg 2006 và tăng tới 73% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng lớn nhất từ trước tới nay. Trong số đó thì vốn huy động bằng nội tệ đạt 322.706 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 114.294 tỷ đồng, chiếm 26,1%. Dự báo đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt 460.000 – 465.000 tỷ đồng, tăng 62-65% so với cuối năm 2006. Tại Hà Nội, tính đến hết tháng 10-2007, tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội đạt 326.624 tỷ đồng, tăng 34,54% so với cuối nămg 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều năm. Dự báo đến hết năm 2007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố sẽ đạt 350.000 – 355.000 tỷ đồng, tăng 42 – 44% so với cuối năm 2006. Đây là mức độ tăng trưởng cao ngoài dự kiến từ đầu năm của hầu hết các ngân hàng. Về sức hấp thụ vốn cho tăng trưởng kinh tế qua điển hình ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng cho những diễn biến ngoài dự đoán. Cũng tính đến hết tháng 10-2007, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ước tính đạt 345.000 tỷ đồng, tăng 50% so với cuối năm 2006 và tăng 63% so với cùng kỳ này năm trước. Phân theo tiền tệ thì dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 241.155 tỷ đồng, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 103.445 tỷ đồng. Phân theo kỳ hạn thì dư nợ cho vay ngắn hạng đạt 209.647 tỷ đồng, dư nợ trung và dài hạn đạt 135.353 tỷ đồng. Do tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ bằng 50%-60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ. Tại Hà Nội, dư nợ cho vay cũng tăng với tốc độ rất lớn. Tính đến hết thán 10-2007, tổng dư nợ cho vay đạt 163.838 tỷ đồng, tăng 37,44% so với cuối năm 2006. Dự báo đến hết năm 2007, dư nợ cho vay sẽ đạt 171.000 – 174.999 tỷ đồng, tăng 45% - 48% so với cuối năm trước. Đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa nhiều so với dự báo từ đầu năm của các ngân hàng. Một số ngân hàng thương mại cổ phần sẽ có mức tăng dư nợ tới 55% đến 65%. Về cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100.089 tỷ đồng, tăng 33,50% và dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 63,749 tỷ đồng, tăng 44,10%. Tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn ngắn hạn chứng tỏ nhu cầu vốn đầu tư chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt trang thiết bị mới và hiện đại tăng lên. Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới, dự án nhà ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ôtô, phương tiện vận chuyển, máy móc,thiết bị thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, siêu thị…. Cũng tăng cao. Về cơ cấu dư nợ theo tiền tệ, dự nợ cho vay bằng nội tệ đạt 100.092 tỷ đồng, tăng 38.8% và dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 34.72%. Nguyên nhân dư nợ cho vay nội tệ cao hơn ngoại tệ cũng tương tự như ở thành phố Hồ Chí Minh. Không chỉ riêng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mà trong cả nước, nhất là những tỉnh, thành phố lớn, có tốc độ công nghệ hoá nhanh,… các luồng vốn huy động, thanh toán, cho vay… của hệ thống ngân hàng cũng có tốc đô tăng trưởng cao ngoài dự kiến. ( Việt Nam đủ điều kiện vay vốn dành cho các nước có thu nhập trung bình: Ông Robert B.Zoellick, Chủ tịch Ngân hàng thế giới, hôm nay tuyên bố, Việt Nam đã đủ didều kiện để tiếp cận nguồn tài chính của Ngân hàng thế giới (WB) cho các nước có thu nhập trung bình. Ông Robert B.Zoellick nói: “Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận trong thập kỷ qua về giảm nghèo, và nhóm Ngân hàng thế giới cam kết sẽ tiếp tục đẩy mạnh mối quan hệ đối tác tốt đẹp với Việt Nam khi Việt Nam đang tiến lên con đường phát triển bền vững cho mọi người”. Ông Zoellick cũng cho biết, trong chuyến thăm Việt Nam vào mùa hè vừa qua, ông đã tận mắt chứng kiến quyết tâm của Việt Nam nhằm phát huy những thành công đã đạt được, và WB đang chuẩn bị trợ giúp cho những nỗ lực này bằng cả hỗ trợ tài chính lẫn kỹ thuật. Tại cuộc họp báo trực tuyến giữa Washington và Hà Nội sáng nay, ông Ajay Chhiibber, Giám đốc WB tại Việt Nam, cho biết Việt Nam được WB công nhận có đủ điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay từ Ngân hàng Tái thiết và phát triển (IBRD). Đây là nguồn tín dụng có lãi suất thấp nhất đối với các khoản cho vay thương mại dành cho các nước đang phát triển. Nguồn vốn này nhằm giảm nghèo tại các nước có thu nhập trung bình và các nước đang phát triển nhưng có độ tin cậy tín dụng, thông qua việc khuyến khích phát triển bền vững qua các khoản vay, bảo lãnh tín dụng, quản lý rủi ro, và dịch vụ tư vấn và phân tích. Các khoản vahy IBRD cũng ưu đãi hơn điều khoản của các khoản vay tương tự cho các nước có thu nhập trung bình trên thị trường tài chính quốc tế. Theo ông Chhibber, nguồn vốn này sẽ bổ sung cho hỗ trợ tài chính từ nguồn tài chính của WB cho các nước có thu nhập thấp là Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) mà Việt Nam hiện đang được hưởng. Việt Nam đã được vay hơn 7 tỷ USD của IDA từ năm 1993, khi đó tỷ lệ nghèo của Việt Nam đang là 58%. Đến năm 2004, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 20%. GDP bình quân đầu người đã tăng nhanh, từ dưới 200 USD/người vào năm 1993 lên 835 USD/người năm 2007. Mặc dù Việt Nam hiện vẫn chưa là nước có thu nhập trung bình, nhưng ông Chhibber cho biết, trước khi đưa ra quyết định này WB đã thành lập một nhóm nghiên cứu rất kỹ các điều kiện của Việt Nam, và nhóm này đã đưa ra kết luận “Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhapạ trung bình trong thời gian tới”. Ông Chhibber cho biết, các khoản vay IBRD vẫn áp dụng các chính sách về an toàn vốn như các khoản vay khác của WB. Tuy nhiên, ông tin tưởng Việt Nam sẽ sử dụng hiệu quả các khoản vay này. Ông Chhibber cũng cho biết, mỗi năm WB sẽ đánh giá kết quả của các khoản cho vay. Nếu các nguồn vốn vay thật sự hiệu quả thì Việt Nam sẽ được nhận nhiều vốn vay hơn. Việt Nam đang tăng trưởng nhanh khiến nhu cầu vốn lớn (khoảng 30% GDP) để đáp ứng mục tiêu phát triển, đặc biệt là cơ sở hạ tầng. Việt Nam cũng đang gặp phải nhiều thách thức, trong đó nhu cầu cải thiện khuôn khổ chính sách về thể chế cho kinh tế thị trường, bảo đảm hoà nhập xã hội, giải quyết các vấn đề môi trường và chống tham nhũng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản và phát triển nguồn năng lượng, nâng cấp giáo dục đại học và cải thiện môi trường kinh doanh cũng rất quan trọng để phát triển bền vững. Hỗ trợ tài chính của WB sẽ là nguồn hỗ trợ quan trọng và cần thiết để giải quyết những thách thức trên. (Theo WB: Theo nhân dân ) Những thành tích nổi bậc: Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã và đang chấp cánh cho nền kinh tế tăng trưởng. Trong những năm qua, hệ thống tài chính – tiền tệ của nước ta đã phát triển và đổi mới liên tục, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, phát triển, xoá đói giảm nghèo. Một hệ thống tài chính – tiền tệ đã hình thành, đáp ứng ngày càng có hiệu quả hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế, nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, nông dân cũng như nhu cầu thanh toán và tiêu dùng của dân cư. Nếu như trong những năm 1990, độ sâu tài chính mức độ tiền tệ hoá của nền kinh tế còn thấp thì trong những năm gần đây đã nhanh chóng tăng lên và đạt mức trung bình của các nền kinh tế có mức thu nhập tương đương. Thành tích nổi bậc của Ngân hàng nhà nước được thể hiện trên các mặt sau: Tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội ban hành 2 Luật về Ngân hàng: Xây dựng chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến 2010 trình Bộ Chính trị thông qua. Thể chế hoá 2 Luật về Ngân hàng vầ các văn bản của Chính phủ. Đồng thời, xây dựng và ban hành hàng loạt các cơ chế, chính sách về hoạt đồng tiền tệ – ngân hàng, tạo hành lang pháp lý cho họat động của Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ chương trình cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng, nằm đảm bảo đủ sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng trình Chính phủ phê duyệt đề án cơ cấu lại các Ngân hàng thương mại nhà nước, củng cố chấn chỉnh các Ngân hàng thương mại cổ phần và QTDND. Đến nay các TCTD đã có bước phát triển mới, họat động lành mạnh, hiệu quả hơn. Hàng lọat cơ chế, chính sách mới phù hợp với thông lệ và chuẩn mục quốc tế đã và đang thực hiện có hiệu quả tại các TCTD. Nâng cao năng lực quản lý điều hành của Ngân hàng Nhà nứơc và các TCTD thực hiện công khai, minh bạch về tài chính và kết quả họat động. Kiên quyết khắc phục tình trạng yếu kém,xây dựng hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện đại, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém, khó khăn của các Tổ chức tín dụng. Đến nay, khối ngân hàng thương mại cổ phần đang họat động hiệu quả, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đổi mới cơ bản phương pháp điều hành chính sách tiền tệ, từ việc can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính, sang điều hành bằng các công cụ gián tiếp một cách linh họat, thận trong, theo tín hiệu thị trường, đồng thời trao quyền tự chủ họat động kinh doanh cho các TCTD. Điều hành lãi suất gắn với diễn biến lạm phát và tỷ giá ngọai tệ, phù hợp với thông lệ quốc tế. Lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nứơc. Bằng họat động nghiệp vụ thông minh. Quỹ dự trữ ngoại hối được sử dụng hiệu quả, đảm bảo an toan, tránh được rủi ro, và không ngừng sinh lời, phát triển. Đến nay, Quỹ dự trữ ngoại hối đã tăng 40 lần so với năm 1991, đáp ứng từ 10 đến 12 tuần nhập khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thông qua Quỹ dự trữ ngoại hối, đã thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ,ổn định giá trị đồng Việt Nam, bình ổn tỷ giá, can thiệp thị trường khi cần thiết, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Mở rộng mạng lưới nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong nước, đầu tư phát triển nền kinh tế. Nhờ phát triển mạnh các dịch vụ, tiện ích Ngân hàng như: thanh toán, cải tiến thủ tục hành chính, đổi mới phong cách giao dịch, tăng cường các biện pháp huy động vốn, ngành Ngân hàng đã huy động được hàng nghìn tỷ đồng để đầu tư vào những chương trình kinh tế trọng điểm có ý nghĩa xương sống của nền kinh tế. Tốc độ tăng bình quân nguồn vốn huy động hằng năm trên 24%, trong đó vốn trung và dài hạn chiếm trên 30%. Do thực hiện tốt công tác huy động, việc cho vay đã mở rộng đến mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân trong những năm qua đạt trên 22%. Trong đó, tỷ trọng cho vay trung và dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước chiếm tỷ lệ 40%. Hầu hết các chương trình , công trình dự án quan trọng khác của nhà nước. Đặc biệt, ngành Ngân hàng đã dành nguồn vốn đáng kể để đầu tư phục vu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp, nông thôn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, hỗ trợ tích cực trực tiếp cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, với thành tựu nổi bật cho cộng đồng quốc tế đáng giá. Chủ động đề xuất các giải pháp chính phủ và bộ chính trị ngăn chăn có hiệu quả tác động xấu của cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và chính trị xã hội. Họat động kinh doanh của các tổ chúc tín dụng ngày càng có hiệu quả và đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng phát triển đất nước. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, vốn Ngân hàng luôn chiếm tỷ trọng khá cao trong các tổ chức kinh tế, vì vậy Ngân hàng trở thành điểm tựa vững chắc cho các tổ chức kinh tế. Thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Chỉ tính 10 năm trở lại đây, ngành Ngân hàng đã đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng chục nghìn tỷ đồn. Ngoài ra các tổ chức tín dụng đã giảm hàng trăm tỷ đồng tiền lãi cho khách hàng mỗi năm, vốn ngân hàng đã góp phần vực dậy hàng trăm doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản trở lại kinh doanh có hiệu quả, đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao về chương trình xóa đói giảm nghèo; cho vay về chương trình xóa đói giảm nghèo; cho vay chương trình phát triển đồng bằng sông Cửu Long; cho vay khắc phục hậu quả thiên tai; cho vay ưu đãi về lãi suất khu vực núi,hải đảo; lập quỹ tín dụng đào tạo ngày cảng mở rộng để cho sinh viên, học sinh vay tiền ăn học với thời gian 10-15 năm, lãi suất bằng 50% lãi suất thương mại thông thường, trong thời gian đi học không thu lãi. Hiện đại hóa Ngân hàng luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong 10 năm trở lại đây. Để tồn tại, phát triển trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, ngành Ngân hàng đã không ngừng đổi mới công nghệ tiên tiến và đưa các dịch vụ mới vào họat động. Nếu như trước đây, việc thanh toán qua thẻ, hay gửi tiền một nơi rút ra nhiều nơi còn rất xa lạ với công chúng Việt Nam, thì ngaỳ nay đã trở thành phương tiện thanh toán thông dụng trong đời sống kinh tế –xã hội. Hiện đại hóa các phương tiện thanh tóan là mục tiêu của toàn ngành, nhờ đó tiết giảm được chi phí cho họat động sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được chi phí cho họat động sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được các chi phí xã hội khác đồng thời đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn. Với trình độ và côn nghệ thanh toán tiên tiến hiện nay, luôn đảm bảo cho các họat động kinh tế diễn ra thông suốt, cả trong và ngoài nước Mở rộng, tăng cường họat động đối ngoại và hợp tác quốc tế với các Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, nâng cao sức cạnh tranh tiến đến hội nhập quốc tế. Duy trì tốt quan hệ với các tổ chức tài chính – Ngân hàng quốc tế như IMF,WB,ADB… tham gia Hiệp hội ngân hàng các nước ASEAN. Đến nay Ngân hàng Việt Nam đã có quan hệ giao dịch với trên 2.0000 Ngân hàng và tổ chức Tài chính của hơn 100 nước và tổ chức quốc tế trên thế giới. Ngân hàng Nhà nước đã làm tốt nhiệm vụ cơ quan đại diện cho chính phủ tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện tranh thủ các nguồn tài trợ ưu đãi dài hạn để đổi mới hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Đặc biệt đã thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả đối với Cách mạng và Ngân hàng các nước Lào, Cam puchia và Cuba. Ngân hàng Việt Nam đã giúp đỡ ngân hàng hai nước Lào và Campuchia đào tạo hàng ngàn cán bộ có trình độ từ đại học trở lên, đồng thời cử hàng trăm chuyên gia có kinh nghiệm sang giúp đỡ tại chỗ về xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy Ngân hàng, hoạch định chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ Ngân hàng, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cho 2 nước Lào, Campuchia. Xây dựng hệ thống đào tạo chính quy hiện đại, đáp ứng đòi hỏi trong giai đoạn phát triển mới của ngành và xã hội. Xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị đòan thể vững mạnh. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phục các mặt yếu kém và khuyết điểm, tổ chức tốt các phong trào thi đua và các họat động xã hội trong toàn và các họat động xã hội trong ngành. Động viên toàn hể các bộ công nhân viên chức đòan kết tương trợ lẫn nhau hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn trong thời kỳ cách mạng. Với thành tựu đạt được trong 10 năm qua, ngành ngân hàng đã được Đảng và nhà nứơc ghi nhận bằng những phần thưởng cao quý: 1 huân chương Sao vàng, 10 đơn vị được phong tặng danh hiệu anh hùng lao động, 25 danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, 1 Huân chương Hồ Chí minh (1996); 3 huân chương độc lập hạng nhất; 1 huân chương độc lập hạng nhì; 6 huân chuo7ng độc lập hạng ba; 1 huân chương chiến công hạng 3; 16 huân chương lao động hạng nhất; 44 huân chương lao động hạng nhì; 263 huân chương lao động hạng 3; 32 cờ thi đua của Chính phủ và hàng trăm bằng khen của thủ tướng Chính phủ ….. Ngoài ra được các Bộ, Ngành đoàn thể và UBND Tỉnh, Thành phố tặng thưởng hàng nghìn bằng khen va huy chương các loại . NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGÂN HÀNG Do ngân hàng vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mở trong các cam kết hội nhập quốc tế nên nhiều chuyên gia đã cho rằng, giới nhà băng cần tăng tốc đề nâng cao năng lực cạnh tranh hơn bất cứ một ngành nghề nào. Đã qua rồi cái thời khối quốc doanh độc quyền “làm mưa, làm gió” trên thị trường. Giờ đây, thị trường liên ngân hàng không chỉ đa dạng và giàu tính cạnh tranh bởi sự nắm giữ thị trừơng của các tổ chức tài chính quốc tế (khối NHTMCP), nhất là xu hướng sắp xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Những điều này cũng đang đe dọa làm xáo trộn các cơ cấu thị phần tiền tệ trên thị trường. Theo cam kết, Việt Nam sẽ phải mở cửa hoàn toàn các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, giá trị giao dịch, dịch vụ các ngân hàng nước ngoài ngay trong năm 2008. Như vậy, sau khi thực hiện các cam kết tại hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) của hiệp hội các nước ASEAN, giới ngân hàng Việt Nam sẽ không còn nhiều thời gian trong cuộc cạnh tranh ngay trong sân nhà. Thực tế, ngân hàng chưa hẳn là lĩnh vực chậm cải cách trong nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình phát triển, hội nhập quốc tế chính là ở trình độ phát triển còn yếu kém, tiềm lực tài chính hạn chế, công nghệ cũng như những vấn đề quản trị vẫn còn thua kém của nước ta. Tới nay, bình quân tổng khối lượng tài sản của khối NHTM quốc doanh vẫn chỉ xoay quanh con số xấp xỉ 160.000 tỷ đồng – khoảng hơn 10 triệu USD. Trong khi đó, chỉ một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực cũng đã sở hữu vốn tự có gấp vài ba lần con số này. Trong khi với các ngân hàng nước ngoài, điểm mạnh chủ đạo của họ vẫn là dịch vụ, thì tại Việt Nam, sự nghèo nàn và thiếu cơ động ở các sản phẩm, hạng mục đầu tư vẫn chưa thực sự nâng tầm. Theo đánh giá của các chuyên gia chuyên ngành, việc vẫn còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, từ quản trị tới kiểm toán…. Chính là lý do lớn nhất của vấn đề này Những vấn đề quan tâm, tháo gỡ để thúc đẩy hoạt động ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Có lẽ khẳng định, năm 2006 là năm thành công nhất của ngành Ngân hàng Việt Nam từ trước tới nay. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua sự phát triển vượt bậc cả về quy mô cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng và ngân hàng đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trong và ngòai nước. Nguyên nhân của thành công này một phần do thời cơ mang laịi từ sự phát triển, hội nhập của đất nước, từ chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, một phần do tinh thần nỗ lực của bản thân các ngân hàng trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thị trường tiền tệ, tín dụng ổn định và hành lang pháp lý về hoạt độn ngân hàng tiếp tục được đổi mới, hòan thiện đã tạo môi trường hoạt động thuận lợi và bình đẳng cho các tổ chức tín dụng, nhất là đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Theo Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị ACB Nguyễn Đức Kiên, có 3 sự đổi mới trong cơ chế chính sách ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của ACB trong thời gian qua là cơ chế bảo hiểm giá vàng, quy định về việc mở chi nhánh ngân hàng thương mại (Quyết định 888) và quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng (Quyết định 493). Từ khi có chính sách mới về cơ chế bảo hiểm giá vàng, năm nào ACB bán vàng ra cũng có lãi (trước kia ACB thường bị lỗ khi bán vàng huy động tiết kiệm để lấy tiền đồng cho vay). Trong vòng 11 năm ACB mới có 24 chi nhánh (mỗi lần mở chi nhánh phải xin đến 18 con dấu, 18 chữ ký), từ sau khi có Quyết định 888, trong vòng 2 năm ACB đã thành lập được 50 chi nhánh đưa số huy động tiết kiẹm dân cư của ACB từ 7.000 tỷ đồng lên 31.000 tỷ, gần đuổi kịp huy động tiết kiệm của ngân hàng thương mại nhà nước. Mặc dù có một số ý kiến cho rằng có những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Quyết định 888, nhưng ACB rất ủng hộ quyết định này. Tương tự, đối với Quyết định 493, cũng có một số ý kiến cho rằng có nhiều vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, nhưng thực tế quyết định này đã giúp ngân hàng thương mại phân loại nợ chính xác và cụ thể hơn. Các ngân hàng thương mại đã có sự chuẩn bị cho tiến trình hội nhập như tăng năng lực tài chính, tiếp tục đổi mới công nghệ, đa dạng hóa các hoạt động dịch vụ, từng bước áp dụng theo các chuẩn quốc tế, mở rộng mạng lưới, thành lập các công ty con, thâm nhập tài chính vào các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế, gắn kết với các tập đòan tài chính có tiềm lực… Đây chính là sự khôn khéo và nhạy bén của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua. Với những nỗ lực vượt bậc của các ngân hàng, trong năm 2006, các chỉ số hoạt động của các ngân hàng thương mại đều tăng trưởng ở mức độ cao, trong đó những ngân hàng tăng gấp đôi (ACB), nhờ đó trái phiếu và cổ phiếu của các ngân hàng được nhà đầu tư rất quan tâm. Trong nỗ lực chung của các ngân hàng, phải kể đến nỗ lực của những ngân hàng nhỏ, mới thành lập trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược để tăng vốn và có những ngân hàng đã tăng từ 2-3 lần vốn điều lệ ban đầu. Mặc dù hệ thống Ngân hàng đã phát triển mạnh mẽ, hiệu quả trong năm 2006 những để tiếp tục duy trì được sự phát triển này trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, tổ chức thương mại lớn nhất thế giới với sự tham gia của 150 nước chiếm 90% dân số, 95% GDP và kim ngạch xuất khẩu của thế giới, ngành Ngân hàng còn rất nhiều việc phải làm. Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển ngân hàng Lê Xuân Nghĩa cho rằng, có 3 vấn đề cần phải triển khai mạnh mẽ đối với hoạt động ngân hàng trong thời gian tới, đó là vấn đề xây dựng Ngân hàng Nhà nước thành Ngân hàng Trung ương hiện đại, cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước và mở cửa thị trường tài chính (qua 2 cánh cửa: sự xuất hiện của các tập đoàn tài chính quốc tế tại Việt Nam và mở cửa từng bước giao dịch vốn). Ngân hàng nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật ngân hàng Trung ương và hòan thiện hệ thống giám sát, đặc biệt là giám sát từ xa để biến nó trở thành công cụ giám sát sắc bén, đáp ứng nhu cầu mở cửa, cải cách và hỗ trợ các ngân hàng thương mại hoạt động an tòan trong điều kiện hội nhập. Cần có sự liên kết: Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, DN Việt Nam vẫn yếu về liên kết, đối tác với Ngân hàng trong nước điều này là không ngoại lệ. Tính đến hết tháng 8-2007, cả nước có khỏang 6,5 triệu tài khỏan thẻ các loại do 20 NHTM phát hành và thanh toán, được sử dụng trên 4.000 ATM, số lượng ATM so với người dân như vậy là quá ít. Hơn nữa, số lượng má ATM lại chủ yếu chỉ đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Số máy ATM này lại không được liên kết với nhau mà chia thành 4 mạng ATM, hoạt động độc lập với nhau. Ông Trần Phương Bình cho rằng, Chỉ thị 20 sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện vì năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều vấn đề cần bàn về năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nếu nói về dịch vụ thẻ ATM, hiện nay, Việt Nam quá thiếu máy ATM, đặc biệt là vùng sâu vùng xa. Theo ông Đặng Mạnh Phổ, Tổng giám đốc Công ty Chuyển mạch Tài chính Quốc gia (Banknet VN), hệ thống máy ATM chỉ đa số tập trung ở các thành phố lớn, còn ở các khu vực nông thông, vùng sâu vùng xa đều chưa có nhu cầu về thẻ ATM nên các ngân hàng không chú trọng đầu tư. Đó là một vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là việc kết nối thẻ giữa các ngân hàng với nhau. Ông Phổ cho rằng, việc thành lập nhóm kiểu như vậy vẫn gây bất tiện cho khách sử dụng thẻ ATM vì mỗi nhóm chỉ có thể đặt máy ATM ở một vài khu vực mà không phải là ở tất cả mọi nơi. Bởi vậy, vấn đề kết nối luôn là bài toán khó cần phải có thời gian để có lời giải của hệ thống ngân hàng nói chung và mỗi ngân hàng nói riêng. Muối giải quyết bài toán nà lại phải giải được bài toán về công nghệ và sự phối hợp giữa các ngân hàng mà trước hết, cần phải xử lý sự khác biệt về công nghệ để quy về một chuẩn chung. Tuy nhiên, theo ông Phổ việc kết nối là trong tầm tay bởi Banknet VN đã sẵn sàng về mặt công nghệ. Tháng 8 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã cho Banknet VN làm Trung tâm bù trừ quốc gia, và đến cuối năm 2008, việc kết nối các ngân hàng có phát hành thẻ qua Banknet VN sẽ hòan tất. Vấn đề còn lại là mỗi ngân hàng có mong muốn kết nối hay không mà thôi. Những tồn tại và thách thức. Để đạt mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, đến năm 2010, vượt qua ngưỡng nước có thu nhập thấp (mức hiện nay là GDP dưới 735 USD), hệ thống tài chính – tiền tệ phải có sự phát triển vượt bậc cả về lượng lẫn về chất. Với hệt số ICOR hiện nay khoảng 4.7, để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP 8-9% năm, hàng năm phải đầu tư 37-42% GDP, trong đó phần vốn trong nước phải có vai trò quyết định. Kinh tế Việt Nam rất cần vốn để đầu tư phát triển, song số vốn ít ỏi trong nền kinh tế cũng chưa được huy động đầy đủ và phân bố sử dụng có hiệu quả. Những thiếu sót này liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng và quy mô của hệ thống tài chính – tiền tệ. Chừng nà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò điều tiết kinh tế của ngân hàng nhà nước việt nam- thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan