Đề tài Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam tồn tại và giải pháp

MỤC LỤC

Trang

 

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 1

1. Khái niệm chính sách tiền tệ (CSTT) 1

2. Các tác nhân trong quá trình cung ứng tiền tệ 1

3. Mục tiêu của CSTT 2

3.1. Tăng việc làm 3

3.2. Mục tiêu ổn định lãi suất, giá cả, thị trường tài chính và thị trường ngoại hối 3

3.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5

4. Công cụ của CSTT 5

4.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 5

4.2. Chính sách chiết khấu 7

4.3. Nghiệp vụ thị trường tự do 8

4.4. Hạn mức tín dụng 9

4.5. Quản lý lãi suất NHTM 10

PHẦN II. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT Ở VIỆT NAM 11

TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP 11

1. Sơ lược quá trình phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam 11

2. Thực hiện CSTT thời kỳ trước đổi mới 14

3. Thực hiện CSTT thời kỳ đổi mới 18

3.1. Chính sách tỷ giá 20

3.2. Chính sách lãi suất 23

3.3. Hoạt động tái cấp vốn 24

3.4. Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM 25

3.5. Hoạt động của thị trường mở 26

4. Những tồn tại và giải pháp 27

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có Ban điều hành và hoạt động theo Điều lệ được công bố. Tuy nhiên trong quan hệ đối nội thì ngân hàng ngoại thương vẫn đảm nhiệm chức năng của Cục ngoại hối, làm đơn vị tham mưu cho NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ và kinh tế đối ngoại, cho đến năm 1977 khi NHNN thành lập Vụ kinh tế ngoại tệ thì ngân hàng ngoại thương mới hoạt động như một NHTM thuần tuý. Ngoài ra, trong thời kỳ bao cấp còn có một ngân hàng khác trực thuộc NHNN là Ngân hàng đầu tư & phát triển, được thành lập theo Nghị định số 177/TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ. Ban đầu tên gọi của ngân hàng này là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/4/1957, rồi đổi thành Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 26/4/1981, đến ngày 14/11/1990 chính thức lấy tên là Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. Ngân hàng được thành lập với mục tiêu như tên gọi của nó là phục vụ cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, bảo đảm giao thông vận tải, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ chiến tranh, sau đó là công cuộc khôi phục đất nước kể từ sau ngày giải phóng. Như vậy chức năng hoạt động ban đầu của ngân hàng này không phải là một NHTM, tuy nó còn được thành lập sớm hơn cả Ngân hàng ngoại thương. Như vậy, hệ thống ngân hàng cho đến năm 1964 đã chia ra NHNN, Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng kiến thiết. Nhìn chung các ngân hàng đã thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, góp phần không nhỏ vào sự lưu thông hàng hoá tiền tệ, ổn định nền kinh tế đất nước, xây dựng được một nền kinh tế hậu phương vững chắc để hỗ trợ cho tiền tuyến. Khi đất nước thống nhất năm 1975, cũng hệ thống ngân hàng này đã tiếp quản hệ thống tài chính ngân hàng của miền Nam, mở rộng hoạt động thống nhất trên toàn quốc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng, đồng thời do tình hình trong nước và quốc tế mà đến đầu những năm 80 thì chúng ta đã nhận thấy phải có sự phân biệt rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh của các ngân hàng, không thể để tình trạng ngân hàng một cấp hoạt động với hai chức năng mà thực tế không thể chung chạ được. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986 đưa ra chủ trương thực hiện đường lối kinh tế đổi mới, đến ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT đã đánh dấu một sự chuyển đổi của hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, phân định rạch ròi hai chức năng quản lý tiền tệ và kinh doanh tiền tệ. Vai trò lịch sử của ngân hàng một cấp đã chấm dứt, cần có mô hình ngân hàng hai cấp cho phù hợp với thời kỳ mới. Nhưng do các bất cập về tư duy và cán bộ lúc đó chỉ có vậy nên bản thân Nghị định 53 chưa thể thiết kế được hệ thống ngân hàng hai cấp. Đến năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHXHCNVN chính thức ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng là Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, khẳng định sự ra đời mô hình ngân hàng hai cấp theo cơ chế thị trường ở nước ta là NHNN và NHTM, với sự ra đời của các NHTM quốc doanh mới là Ngân hàng công thương và Ngân hàng nông nghiệp, cùng hoạt động với các NHTM khác là Ngân hàng đầu tư & phát triển và Ngân hàng ngoại thương. Đến năm 1997 thì chúng ta có Luật NHNN và Luật các TCTD được thông qua. Kể từ đây NHNN hoạt động theo Luật NHNN và có chi nhánh ở 61 tỉnh thành trong cả nước, độc lập với chính quyền địa phương và chỉ chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc từ NHTƯ. NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ, Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ. Ngành ngân hàng cũng được tổ chức theo ngành dọc, quan hệ giữa các UBND và HĐND địa phương đối với chi nhánh NHNN ở địa phương không phải là quan hệ lãnh đạo- phục tùng, mà các chi nhánh NHNN chỉ có trách nhiệm cố vấn cho chính quyền địa phương và thực hiện các nghiệp vụ của NHNN đối với các NHTM địa phương. Bên cạnh NHNN, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đã phát triển mạnh mẽ, có đủ mọi thành phần kinh tế, bao gồm bốn NHTM quốc doanh là Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn, và Ngân hàng đầu tư & phát triển, hơn 50 NHTM cổ phần, hơn 20 chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện thuộc 47 ngân hàng và công ty tài chính của 21 quốc gia, chưa kể đến các ngân hàng liên doanh và các công ty tài chính, các ngân hàng chính sách như Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở ĐBSCL....Ngoài ra còn có hàng ngàn các quỹ tín dụng cơ sở, một quỹ tín dụng trung ương, các quỹ tín dụng khu vực tỉnh thành,.... Đối với bốn NHTM quốc doanh, hiện nay tỷ phần thị trường của bốn ngân hàng này chiếm tới khoảng 80% thị phần toàn ngành. Mặc dù ban đầu khi được thành lập mới như Ngân hàng công thương và Ngân hàng Nông nghiệp, hoặc thành lập lại như Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng đầu tư & phát triển, mục tiêu hoạt động của mỗi ngân hàng theo đúng với tên gọi của nó chỉ chuyên trách về một mảng trong nền kinh tế, song thực tế hoạt động cho thấy mục tiêu đó là không phù hợp. Vì thế khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 cho các doanh nghiệp lớn nhà nước hoạt động theo mô hình Tổng công ty đã quyết định thành lập lại các ngân hàng này hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước, có các chi nhánh là các đơn vị thành viên có thể hạch toán độc lập và có thể kinh doanh tổng hợp trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay các ngân hàng được phép đầu tư hoặc cho vay vào những lĩnh vực mà ngân hàng và khách hàng vay vốn của ngân hàng có liên quan và hoạt động có hiệu quả. Các ngân hàng cũng có thể hợp tác với nhau để đầu tư cho những dự án lớn mà một ngân hàng không thể đủ khả năng cho vay hoặc cần phải phân tán rủi ro đầu tư. 2. Thực hiện CSTT thời kỳ trước đổi mới. Khi cách mạng giành được chính quyền, giấy bạc Đông Dương của Nhà băng Đông Dương thuộc Pháp phát hành vẫn được Chính phủ chủ trương cho lưu thông thêm một thời gian vì đó là tài sản của nhân dân. Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, đến ngày 31/1/1946 giấy bạc Việt Nam do chúng ta phát hành đã được đưa ra lưu thông tại miền Nam Trung bộ vì nơi đây cách mạng diễn ra triệt để hơn, không có sự phá hoại tiền tệ của các lực lượng phản động, đến ngày 16/8/1946 Quốc hội đã chính thức cho phát hành giấy bạc tài chính trong toàn quốc, lưu hành rộng rãi ở Bắc Bộ, Trung Bộ và một phần Nam Bộ. Trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, do những nguyên nhân khách quan mà chính quyền cách mạng thu không đủ chi, phải dựa vào việc phát hành giấy bạc. Năm 1946 phát hành 606 triệu đồng tài chính, đến năm 1950 phát hành tới 11.600 triệu. Đồng tiền mất giá vào những năm 1949-1950 đã ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Sau khi Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập đã thực hiện phát hành giấy bạc ngân hàng từ Bắc Trung bộ trở ra, thu về giấy bạc tài chính với tỉ lệ là 1đồng ngân hàng = 10 đồng tài chính. Đây là cuộc cải cách tiền tệ đầu tiên của Việt Nam, làm cho giá cả được bình ổn, cải thiện đời sống nhân dân. (Cùng thời gian đó, trong vùng Pháp tạm chiếm tỷ lệ lạm phát đã tăng cao, năm 1954 phát hành giấy bạc tăng hơn 4 lần so với năm 1945, chỉ số giá bằng 732% năm 1945.) Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn độc lập, Chính phủ đã tiến hành những biện pháp chấn chỉnh thương nghiệp, tài chính và tiền tệ, song song với việc cải tạo lại nền kinh tế trên tất cả các mặt công nông thương nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng cơ bản. Nhà nước đã thực hiện việc thống nhất và ổn định tiền tệ, thu hồi lại các loại tiền: tiền Đông Dương, tiền tín phiếu, tiền ngân hàng nhân dân Nam Bộ, lưu hành giấy bạc Trung ương phát hành năm 1951. Nhà nước còn tăng cường quản lý tiền mặt và mở rộng quan hệ tín dụng. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã thực hiện cuộc cải cách tiền tệ lần thứ hai. Ngày 27/2/1959, Chính phủ cho phép thay đổi đơn vị tiền tệ, 1đồng ngân hàng mới= 1000 đồng ngân hàng cũ, bắt đầu tiến hành từ ngày 28/2/1959. Cuộc cải cách này nhằm nâng cao sức mua của đồng tiền, rút bớt một số tiền mặt trong lưu thông, làm cho quan hệ hàng tiền được cân đối hơn; nhà nước nắm được sự phân bố tiền tệ trong nhân dân để điều hoà lưu thông tiền tệ, đồng thời nhà nước nắm được nguồn tiền trong tay giai cấp tư sản, lúc đó đang được cải tạo. Các ngân hàng cũng được thành lập, ngay trong những năm đầu hoạt động đã tăng cường huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân, năm 1964 bằng 1,5 lần năm 1960, cho vay ngắn hạn tăng từ 5.601,7 triệu lên 7.489,5 triệu đồng một năm, còn cho vay dài hạn tăng từ 24 triệu đồng năm 1960 lên 45,1 triệu đồng năm 1962. Điều cần lưu ý là trong suốt giai đoạn đất nước có chiến tranh thì hoạt động của Ngân hàng quốc gia Việt Nam chủ yếu là ở miền Bắc của đất nước. Thực hiện chủ trương nền tài chính tiền tệ phân tán, trong những năm kháng chiến chống Pháp đã hình thành các khu vực tiền tệ riêng biệt: vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ lưu hành giấy bạc tài chính do trung ương phát hành, các tỉnh liên khu 5 ở các tỉnh Nam Trung bộ lúc đầu lưu hành giấy bạc tài chính trung ương và sau là tín phiếu do liên khu phát hành, còn trong Nam bộ năm 1947 Chính phủ cho phép phát hành giấy bạc riêng. Việc lưu hành tiền tệ như vậy đã linh hoạt đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến, chống lại âm mưu phá hoại tiền tệ của địch đối với đồng tiền của ta, và ngăn chặn sự lợi dụng chênh lệch giá giữa các khu vực. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì các cán bộ tài chính ở miền Nam đã tìm những biện pháp kinh doanh để lấy tiền của chính quyền nguỵ mua hàng hoá nhu yếu phẩm phục vụ cho lực lượng kháng chiến, đồng thời gây ra những tác động bất lợi cho nền kinh tế của chính quyền nguỵ. Trong nền kinh tế XHCN ở miền Bắc trước năm 1975, và trên toàn quốc kể từ sau năm 1975, Việt Nam thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vốn hoạt động của mỗi cơ quan xí nghiệp trong nền kinh tế đều là vốn do ngân sách nhà nước cấp phát và chưa thực hiện chế độ hạch toán kế toán độc lập. Khi đó, NHNN Việt Nam không có những nghiệp vụ điều chỉnh lượng cung tiền tệ theo cơ chế thị trường như nghiệp vụ thị trường tự do, nghiệp vụ chiết khấu, và thay đổi dự trữ bắt buộc. Công cụ để thực hiện CSTT chỉ có tỷ giá hối đoái và hạn mức tín dụng, ngoài ra là lãi suất ngân hàng trong việc huy động vốn và cho vay. Với hạn mức tín dụng, NHNN tái cấp phát vốn hàng năm theo chỉ tiêu cho các ngân hàng ngoại thương và xây dựng, đồng thời dựa trên các chỉ tiêu kế hoạch mà xem xét việc cấp phát vốn cho ngân sách nhà nước để phân bổ cho các cơ quan xí nghiệp trên toàn quốc. Lãi suất ngân hàng được điều chỉnh theo các kế hoạch để giữ tỷ giá cố định gắn với đồng tiền của các nước XHCN. Còn về tỷ giá thì tỷ giá chính thức của Việt Nam đầu tiên được công bố là ngày 25/11/1955, là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và nhân dân tệ Trung Quốc, nhằm giải quyết nhu cầu về thanh toán giữa hai nước trong những năm chống Pháp. Sau đó tỷ giá giữa đồng Việt Nam và các đồng tiền khác được thiết lập, bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy chế độ tỷ giá ở giai đoạn này là đa tỷ giá, do đó đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Do những sai lầm trong phát triển kinh tế dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho lượng hàng hoá trong xã hội khan hiếm, năng suất lao động không cao, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, kinh tế chậm phát triển. Hoạt động phân phối lưu thông bị rối ren, lạm phát nghiêm trọng, giá cả tăng nhanh, làm đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, trật tự xã hội giảm sút, tiêu cực tăng lên. Cuối những năm 70 nhà nước ta đã nhận thấy điều này và đã bước đầu có những sửa đổi, bắt đầu là khoán 100 cho các hộ nông dân. Đến tháng 6 năm 1985, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng khoá V đã đề ra những chủ trương lớn về giá, lương, tiền, coi đây là bước đột phá để xoá bỏ hẳn cơ chế quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN. Tuy nhiên, việc tổng điều chỉnh giá- lương- tiền trong nửa cuối năm 1985 đã phạm sai lầm về các giải pháp cụ thể trong việc định mức giá, định mức lương, đổi tiền, xác định bước đi trong điều chỉnh giá- lương- tiền, thiếu sự chuẩn bị chu đáo, làm cho lạm phát không những không giảm mà còn tăng lên, cao điểm là năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên tới hơn 700%. Hoạt động phân phối lưu thông đã rối ren càng rối ren hơn. Tuy hệ thống ngân hàng đã có nhiều cố gắng nhưng không thể kiểm soát được nạn lạm phát. Một trong những nguyên nhân chính là các ngân hàng lúc này có thể phát hành tiền theo kế hoạch điều chỉnh lương và đổi tiền, nhưng khi lạm phát tăng lên thì chỉ có nghiệp vụ duy nhất để thu hẹp lượng tiền đã cung ứng ra là lãi suất ngân hàng. Nhưng khi lạm phát ở mức cao thì tâm lý của cả người gửi tiền và vay tiền ngân hàng đều kém tin tưởng, nên hiệu quả không cao. Phải đến khi có chủ trương của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đổi mới đường lối phát triển kinh tế, coi nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu và ưu tiên thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trải qua các năm 1987, 1988 thực hiện có hiệu quả bước đầu thì tình hình lạm phát mới dần giảm xuống. Ta hãy xem bảng thống kê tỉ lệ lạm phát (%) và tăng trưởng GDP (%) kinh tế sau: (GDP tính theo giá năm 1989). ĐVT: triệu tỷ VNĐ 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 % tăng GDP 4 3.8 4.9 8.1 5.4 6.1 8.6 7.9 9.0 9.5 9.6 % lạm phát 775 232 394 34.7 67.5 67.6 17.6 5.2 14.4 12.7 GDP 23.8 24.7 25.9 28.0 29.5 31.3 34.0 36.7 40.0 43.8 47.9 Nguồn số liệu: Niên giám Tổng cục thống kê- Ban vật giá Thực hiện CSTT thời kỳ đổi mới Trong thời kỳ đổi mới, CSTT quốc gia được coi là bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, có vai trò trọng yếu trong việc ổn định nền tiền tệ quốc gia. Trong những năm đầu đổi mới, trước nguy cơ lạm phát cao, nhà nước ta đặt mục tiêu của CSTT là kiểm soát chặt chẽ lạm phát, từng bước tăng cường tính ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền, tạo điều kiện huy động vốn góp phần cho một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đó cũng là điều kiện quan trọng để củng cố uy tín và phát triển hoạt động ngân hàng, nhanh chóng hoà nhập quốc tế, đáp ứng ngày càng cao dịch vụ tài chính của nền kinh tế. Các chủ trương mà CSTT cần thực hiện cũng được xác định: - Điều hành khối lượng tiền cung ứng: Tổng các phương tiện thanh toán trong nền kinh tế cần được kiểm soát và điều hành có hiệu lực, bám sát các tín hiệu thị trường để vừa đảm bảo cung ứng đủ phương tiện thanh toán cho nhu cầu đầu tư tăng trưởng kinh tế, đối ứng với nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào, vừa không gây cầu quá mức về hàng hoá, kích thích tăng giá trong nước. Khi cần thiết, NHNN phải áp dụng những biện pháp hữu hiệu để rút tiền lưu thông về như phát hành tín phiếu kho bạc nhà nước, mua ngoại tệ.... - Chính sách tín dụng: Để tạo nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tiếp tục hoàn chỉnh, đưa vào hoạt động có chất lượng các thị trường tiền tệ (như thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc), đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động. Thực hiện chính sách huy động vốn và cho vay vốn tích cực, mạnh mẽ, vừa bảo đảm về khối lượng, vừa chú trọng hiệu quả chất lượng sử dụng vốn, đảm bảo khả năng hoàn trả. Về huy động vốn, trước hết cần khẳng định rằng trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp như hiện nay thì khả năng tiết kiệm nhìn chung của nhân dân còn hạn hẹp. Để nền kinh tế có tăng trưởng cao, tín dụng ngân hàng cần được mở rộng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có hiệu quả với phương châm không để các dự án đầu tư có hiệu quả cao bị thiếu vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục chuyển dịch có lợi cho đầu tư phát triển, tăng cường cho vay trung và dài hạn, giảm tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xã hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến mọi thành phần kinh tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng chính sách, mở rộng các hoạt động dịch vụ và phục vụ của hệ thống NHTM, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các địa phương. Hiện nay, các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong cơ chế thị trường còn đang trong quá trình định hình cơ bản, chúng ta cần phải xem xét điều hành CSTT trong mối quan hệ với những chính sách liên quan khác như chính sách tài chính, chính sách tỷ giá hối đoái,.... Phương châm của nhà nước ta là vừa làm vừa sửa, cố gắng học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước để giảm thiểu những sai lầm có thể xảy ra. Ngành ngân hàng cũng như một loạt các ngành kinh tế khác đã có ngày càng đầy đủ các văn bản pháp quy hướng dẫn hoạt động, thực hiện các chính sách kinh tế thích ứng với cơ chế thị trường. Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng nói chung và NHNN nói riêng đã từng bước tiếp cận với cơ chế mới trong việc xây dựng và điều hành CSTT quốc gia, thích ứng dần với thị trường hàng hoá- tiền tệ. Tuy nhiên đây là một trong những vấn đề mới đối với Ngân hàng Việt Nam, trong điều kiện một đất nước có nền kinh tế kế hoạch hoá kém phát triển bắt tay vào việc quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Ngay cả các nước tư bản phát triển lâu đời, có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý cơ chế thị trường cũng gặp phải những khó khăn lớn do thị trường tài chính tiền tệ gây ra. Vậy nên, đối với NHNN Việt Nam, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành CSTT quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn còn những bất cập là điều khó tránh. Hiện trạng việc xây dựng và điều hành CSTT của nước ta mới dừng ở điểm sơ khai, thường là NHNN dựa vào những tín hiệu của nền kinh tế để xác định lượng tiền cung ứng trình Chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh, mang nặng tính đối phó trước mắt mà chưa có được tính chiến lược lâu dài, do đó dễ bị động và hiệu quả thấp, độ tin cậy chưa cao. Theo luật ngân hàng, hiện nay NHNN Việt Nam sử dụng năm công cụ để điều hành CSTT, bao gồm: chính sách tái cấp vốn, chính sách tỷ giá, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở. Sau đây ta sẽ xem xét lần lượt tình hình sử dụng năm công cụ này trong thời gian qua. Chính sách tỷ giá: Trong thời kỳ đổi mới, tỷ giá hối đoái được nhà nước ta coi là khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình cải cách nền tài chính tiền tệ và được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989, nhà nước chính thức công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương (tỷ giá mậu dịch). Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến lãi suất trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này các NHTM xây dựng cho mình một tỷ giá riêng trong giao dịch hàng ngày với biên độ dao động cho phép. Nhìn chung, những giải pháp trên đã góp phần cải thiện tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tỷ giá trên thị trường vẫn biến động mạnh, mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào cuối năm 1991, lúc này giá 1USD từ hơn 11000đ lên gần 13000đ. Nguyên nhân chính làm cho đồng USD tăng giá là do ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của Chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề trong thời điểm đó. Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ kiều hối đổ về khá lớn (do người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho người thân và do chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước ta) làm tăng cung ngoại tệ, mặt khác NHNN kiên trì quan điểm ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ nên nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cơ bản được đáp ứng, nạn lạm phát gần như được chặn lại, từ gần 70% năm 1991 xuống còn dưới 20% năm 1992, tạo lòng tin cho dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả được tâm lý đầu cơ. Đó là nguyên nhân làm cho xu hướng lên giá của đồng USD bị chặn lại và giảm xuống. Tháng 9/1994 thị trường liên ngân hàng được thành lập, NHNN thực hiện vai trò người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được NHNN công bố, chỉ có biên độ dao động là có sự thay đổi. Năm 1996, cán cân thương mại nước ta thâm hụt đến 4 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu lên đến 16%, nhu cầu về USD đã tạo sức ép làm giảm giá VND. Do vậy NHNN đã mở rộng biên độ dao động tỷ giá từ 0,5% trước đây lên 1%, và tháng 2/1997 biên độ này là 5%. Bên cạnh đó tỷ giá chính thức cũng được nâng dần lên. Nhìn chung giá đồng USD từ đầu năm 1997 liên tục tăng lên, không còn ổn định như thời gian 1993-1996. Ngày 2/7/1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực bắt đầu từ Thái Lan và lan rộng ra toàn khu vực ASEAN và nhiều nước Châu á khác. Là một nước trong khu vực, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu, thanh toán và cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, NHNN công bố quyết định nới rộng biên độ dao động tỷ giá mua bán ngoại tệ lên tới 10% so với tỷ giá chính thức, mà cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ của các NHTM luôn bám sát mức trần cho phép, tuy thế giá trên thị trường tự do nhiều lúc vẫn cao hơn nhiều, có lúc lên đến hơn 14000đ/1USD. Đây chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do sợ xảy ra khủng hoảng với VND. Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm 1998, NHNN đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường như quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ về mua bán ngoại tệ mới, quy định về các trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng đối với các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ, chẳng hạn Quyết định số 173/1998/QĐ-TTg qui định các tổ chức kinh tế phải bán cho các ngân hàng tối thiểu 80% lượng ngoại tệ từ các nguồn thu vãng lai....Các biện pháp này đã thể hiện chủ trương của nhà nước ta là tập trung quản lý ngoại tệ vào các ngân hàng. Đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần thứ nhất ngày 16/2/1998, NHNN quyết định nâng tỷ giá từ 11.175đ/1USD lên 11.800đ/1USD làm tỷ giá giao dịch của các NHTM xấp xỉ với tỷ giá trên thị trường tự do; lần thứ hai ngày 7/8/1998, tỷ giá chính thức được nâng từ 11.888đ/1USD lên 12.998đ/1USD, tăng 16,3%. Bên cạnh đó, biên độ giao dịch ngoại tệ cũng được thu hẹp lại còn 7%. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá của NHNN đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM. Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trường này thường xuyên xấp xỉ nhau. Có thể nói rằng NHNN Việt Nam đã có những bước đi phù hợp, linh hoạt mềm dẻo trong việc chuyển đổi cơ chế tỷ giá hối đoái, từng bước góp phần ổn định thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhân tố thị trường ngày càng phát huy tác dụng, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng...thì cơ chế điều hành tỷ giá như vậy vẫn chưa bám sát diễn biến thị trường, không phản ánh thực tế quan hệ cung cầu trên thị trường. Với biên độ giao dịch ngoại tệ lên tới mức cao gần 10% thì việc quản lý của NHNN chỉ còn mang tính hành chính hình thức, không có tác dụng thực tế. Tỷ giá thực sự có tác động ảnh hưởng đến thị trường ngoại tệ là tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng, bám tương đối sát tỷ giá trên thị trường tự do, lại chiếm tới 80-90% tổng lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Và thực tế là khi NHNN công bố tỷ giá chính thức vẫn phải công bố kèm theo tỷ giá mua bán trên thị trường liên ngân hàng. Chính vì vậy, ngày 25/2/1999, NHNN Việt Nam đã chính thức công bố hai Quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của VND với các ngoại tệ và Quyết định số 65/QĐ- NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ. Bắt đầu từ ngày 26/2/1999, một cơ chế điều hành tỷ giá mới được áp dụng tại Việt Nam. Theo đó thay cho việc công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng, từ nay NHNN chỉ công bố tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng làm tỷ giá giao dịch chính thức. Căn cứ vào tỷ giá này các TCTD kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán theo nguyên tắc: đối với USD không được chênh lệch vượt quá 0.1% tỷ giá công bố của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Còn đối với các ngoại tệ khác do Tổng Giám đốc, Giám đốc các TCTD đó xác định. Cơ chế này được duy trì cho đến nay, và ta có thể thấy được những ưu điểm hơn hẳn các cơ chế điều hành tỷ giá cũ của nó: tỷ giá sát với thực tế nên mọi thành phần tham gia thị trường không còn lo ngại về những khoảng cách giữa tỷ giá thị trường với tỷ giá chính thức gây ra những sự đầu cơ chênh lệch tỷ giá, bản thân tỷ giá tự nó điều tiết theo quan hệ cung cầu nên không có những sự lo thiếu hụt ngoại tệ cho các doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm nào, và nhất là tỷ giá trở nên mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế... Chính sách lãi suất Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ khá chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta bắt đầu quan tâm tới lãi suất, nếu lãi suất giảm thì người ta lại quan tâm tới tỷ giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33645.doc
Tài liệu liên quan