Đề tài Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 2

1.1. Khái niệm về công nghệ và đổi mới công nghệ 2

1.2. Các nguồn đổi mới công nghệ 3

1.3. Vai trò của đổi mới công nghệ 3

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY 4

2.1. Khái quát ngành dệt may Việt Nam. 4

2.2. Sự cần thiết phải đổi mới công nghệ ngành dệt may. 5

2.3 Thực trạng công nghệ và đổi mới công nghệ ngành Dệt May 7

2.3.1.Nguồn vốn đổi mới công nghệ 7

2.3.2. Phương thức đổi mới công nghệ 11

2.3.3. Nội dung đổi mới công nghệ 13

2.4. Đánh giá chung 18

2.4.1.Thuận lợi ( điểm mạnh ) 18

2.4.2. Khó khăn ( điểm yếu ) 18

3.2. Giải pháp 22

3.2.1. Giải pháp huy động vốn 22

3.2.2. Giải pháp đổi mới công nghệ 23

Kết luận 28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2388 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. * Nguồn vốn trong nước + Nguồn vốn ngân sách nhà nước Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho những dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Trong lĩnh vực dệt may nó bao gồm:Vốn cấp cho doanh nghiệp nhà nước dệt may để đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở sản xuất; vốn nhà nước đầu tư mới các cơ sở dệt may; vốn nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài Tuy nhiên ở nước ta do vốn ngân sách còn hạn hẹp mà có rất nhiều khoản phải chi do đó đây chưa phải là nguồn chính để giúp các doanh nghiệp dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Theo Bộ Công Nghiệp thì tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành đến năm 2007 cần 900 nghìn tỷ đồng nhưng huy động ngân sách chỉ chiếm 9%, còn lại phải do các doanh nghiệp tự tìm kiếm. Như vậy, mặc dù dệt may Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng vốn đầu tư từ ngân sách còn quá ít ỏi. Dù có tăng theo các năm nhưng xét về mặt tỷ trọng thì tỷ trọng hiện nay không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ. + Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, nguồn vốn này ngày càng khẳng định vị trí trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách đầu tư của chính phủ. Đây là hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, được áp dụng cho các dự án trong lĩnh vực ưu tiên của kế hoạch ngân sách nhà nước. Do đặc điểm lãi suất thấp, thời gian vay dài nên đây cũng là nguồn vốn nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may đổi mới công nghệ Trên thực tế nguồn vốn này biến động mạnh và không theo chiều hướng nhất định. Giai đoạn 1991-1997 là 236 tỷ đồng, trung bình là 26,2 tỷ/năm. Đến năm 2003 nguồn vốn này tăng đột biến từ 81,2 tỷ đồng lên 224,0 tỷ đồng trong năm 2002 và 2003. Trong hai năm tiếp theo nguồn vốn này chững lại và giảm xuống còn 155,4 tỷ đồng vào năm 2006; 178,6 tỷ đồng vào năm 2007. Bảng 4: Vốn trong nước đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tín dụng nhà nước 81,2 224,0 224,5 220,2 155,4 178,6 Ngân sách nhà nước 4,9 9,3 4.0 4,5 4,9 6,0 Nguồn khác 68,1 75,3 70,7 96 73,5 74,6 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam + Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp Nguồn vốn tự có là nguồn từ tiết kiệm dân cư và tĩch lũy của doanh nghiệp đưa vào sản xuất. Vốn khấu hao là toàn bộ số tiền trích khấu hao được tích lũy lại. Vốn khấu hao không thuộc sản xuất kinh doanh mà là nguồn vốn để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Ở Việt Nam, đối với mỗi doanh nghịêp thì tỷ lệ vốn khấu hao được quy định khác nhau và luôn được đề cao nhằm phát huy đổi mới tính tự chủ của doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả đầu tư. Thường thì các doanh nghiệp nhà nước được sự đầu tư ban đầu của nhà nước sẽ có tiềm lực vốn khá hơn doanh nghiệp tư nhân. Để huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cho riêng mình: dựa vào tiềm lực của mình là vốn tự có và khấu hao, vay tín dụng nhà nước hay ngân sách nhà nước. Đây là câu hỏi lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có thể hy vọng vào nguồn khác triển vọng hơn là nguồn vốn từ nước ngoài. . * Nguồn vốn nước ngoài Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm mục đích nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chính phủ kêu gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện giúp chúng ta có thể tiếp thu những công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ hoàn lại hoặc vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. ODA cho ngành dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 975,76 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 124,67 triệu USD chiếm 87,14%. Đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may có 92 dự án với tổng vốn đầu tư là 254,46 triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%. Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad (Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I (Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ đầu tư nước ngoài là rất lớn. Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất. 2.3.2. Phương thức đổi mới công nghệ Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ.Dưới đây là một số phương thức đổi mới công nghệ Phương thức đổi mới công nghệ Tỷ lệ (%) Tổ chức cải tiến công nghệ truyền thống hiện có ở trong nước 35 Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 27 Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 6 Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 55 Mua công nghệ từ trong nước 21 Mua công nghệ từ nước ngoài 55 Nguồn: báo cáo khảo sát đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Qua kết quả trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều được 55% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như: Tận dụng được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có có cơ hội nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta. Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp. Ngoài khả năng có những tiến bộ trực tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển, đây là những thông tin rất giá trị cho doanh nghiệp. Ngoài ra bên nhận công nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có hiệu quả. Tuy nhiên,việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể gây cho các doanh nghiệp dệt may nhiều rủi ro: Thứ nhất: bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan, doanh nghiệp nước ngoài đến khi nào có thể nắm vững và sử dụng công nghệ một cách thành thạo. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Nhiều khi doanh nghiệp còn phải thay đổi toàn bộ điều kiện của mình để tiếp nhận công nghệ Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp nhận và làm chủ công nghệ được chuyển giao. Chỉ có sự đánh giá đầy đủ ưu, nhược điểm của công nghệ và bên cung cấp kỹ thuật mới có thể giúp đỡ để hạn chế thấp nhất rủi ro. Thứ ba là rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ về kiến thức, kinh nghiệm Thứ tư là rủi ro do các điều khoản bất lợi trong hợp đồng: Trước khi đi đến kết luận cuối cùng, bên nhận phải nhận định xem các điều khoản đàm phán có lợi cho mình không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận này thường cản trở các nhà kinh doanh nhận công nghệ tham khảo ý kiến của luật sư, cố vấn. 2.3.3. Nội dung đổi mới công nghệ Nói đến đầu tư đổi mới công nghệ luôn bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các máy móc thiết bị ngành dệt may còn phần mềm là nguồn nhân lực để vận hành máy móc đó. Các doanh nghiệp nên chú trọng cả hai vấn đề này thì việc đầu tư đổi mới công nghệ mới có kết quả. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp dệt may chưa làm hết được những điều đó, thu được nhiều kết quả tốt song cũng còn nhiều hạn chế và thiếu sót. a.Về máy móc thiết bị Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có sự chuyển biến lớn trong việc đầu tư các thiết bị công nghệ máy móc phục vụ việc hoạt động sản xuất kinh doanh. * Về thiết bị kéo sợi Trải qua nhiều năm tình hình đổi mới công nghệ cho thiết bị kéo sợi cũng có nhiều biến động khác nhau. Cụ thể trong giai đoạn 1991-1995, ngành dệt đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi bên cạnh việc mua mới 201.906 cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất lượng cao. Đến giai đoạn 1996-2004 thiết bị kéo sợi tiếp tục được đầu tư đổi mới đáp ứng yêu cầu của ngành gồm nhiều chủng loại, xuất xứ từ Tây Âu, Nhật Bản20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc; 16,65% từ Đức với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD. Và cho đến nay , ngành dệt có 4.287.000 cọc sợi (27.870 rôto) trong đó đầu tư mới 802.000 cọc sợi, sản xuất 360.000 tấn sợi một năm. Tuy đã có đổi mới và nâng cấp nhưng thiết bị cũ vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thiết bị kéo sợi hiện nay. Theo đánh giá của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, hiện tại trong ngành dệt số thiết bị kéo sợi ở mức trung bình và dưới trung bình chiếm tỷ lệ 70%. Có thể nói công nghệ kéo sợi hiện nay vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, trình độ tự động hóa thấp, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng thấp, công nghệ kéo sợi thô chiếm phần lớn. Hiện nay, đã mua dây chuyền mới, sử dụng bông chải tự động liên hợp cao, sử dụng các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng rộng rãi thành tựu về vi mạch điện tử vào điều khiển tự động và khống chế chất lượng sợi * Về thiết bị công nghệ dệt thoi Theo số liệu của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, hiện tại ngành dệt thoi có khoảng 28.500 máy dệt thoi các loại sản xuất được vốn đầu tư cho thiết bị dệt thoi là 14,09 triệu USD chủ yếu thay mới các thiết bị đã quá cũ và lạc hậu so với khu vực và thế giới, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn chấp nhận được.Thiết bị chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc, Nhật BảnTừ năm 1996 đến nay toàn ngành có 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn đầu tư là 78,5 triệu USD. Hiện nay có 17.437 máy dệt sản xuất 900 triệu m vải, 42.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu. Vì vậy, tăng đầu tư cho thiết bị dệt thoi sẽ góp phần tăng giá trị xuất khẩu. * Thiết bị, công nghệ dệt kim Trước năm 1988, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường nhập công nghệ dệt kim từ Trung Quốc, Tiệp Khắc, CHLB Đức, trình độ công nghệ lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, và sau đó các thiết bị này được nhập mới từ Châu Âu, Nhật Bản với 1.540 thiết bị dệt kim bao gồm cả kim tròn và kim phẳng, nên các doanh nghiệp đã đạt được công suất 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm, tính năng cao hơn và chất lượng cao hơn. Đến nay, toàn ngành có tới 6.972 máy dệt kim và được đánh giá là trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được một số vấn đề về công nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, thay đổi mặt hàng, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định kích thước, ít lỗiví dụ các mặt hàng bit tất, Polo- shirt, T- shirt *Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất Theo đánh giá của một số chuyên gia ngành dệt, trình độ kỹ thuật của thiết bị in nhuộm được chia làm 3 loại: loại tốt: có khoảng 800 máy chiếm khoảng 35%, các thiết bị này được đầu tư trong giai đoạn hiện nay; loại cần khôi phục chiếm khoảng 30% loại thiết bị này được sử dụng 20 năm, chất lượng sản phẩm làm ra không cao; loại cần loại bỏ: khoảng 35% loại này được sử dụng trên 30 năm, rất lạc hậu và cũ kỹ Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp dệt may cũng đã đầu tư khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, đa số thiết bị được nhập từ các nước Tây Âu với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng, chiếm 56% tổng giá trị; tiếp đó là máy móc Đài Loan với tổng giá trị 102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng, chiếm 14% ... Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng 1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới. * Thiết bị, công nghệ ngành may Trước kia các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng công nghệ may nhập khẩu từ các nước CHDC Đức, CHLB Đức, Nhật, với mức đầu tư là 267.5 tỷ USD với 19.673 máy may hiện nay các doanh nghiệp may liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng nhu cầu chất lượng thị trường thế giới. Trong đó phải kể đến việc đổi mới công nghệ trong giai đoạn may và hoàn tất sản phẩm: các may may hầu hết là máy may hiện đại có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Trong giai đoạn này, Vinatex đã đầu tư 356,8 tỷ đồng cho thiết bị công nghệ ngành may, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư của Tổng công ty; trong đó, tổng đầu tư của các doanh nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%. Đầu tư máy móc thiết bị ngành may hiện nay dịch chuyển theo hướng tăng cường các sản phẩm cao cấp, hướng vào các thị trường mục tiêu. Trong thời gian qua, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dệt may đã tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế. b. Về nguồn nhân lực Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng gần 2 triệu lao động trong các dây chuyền công nghệ (riêng ngành may là trên 900.000 người). Ngoài ra còn khoảng 1 triệu lao động đang tham gia trong các hộ gia đình và hợp tác xã chưa kể đến số lao động trong ngành trồng bông và dâu tơ tằm. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp dệt may, nguồn nhân lực hiện đại trình độ chưa cao song khả năng đào tạo lại rất hạn chế. Do đặc trưng của ngành là lao động cần cù, khéo léo và tỉ mỉ nên lao động nữ chiếm số đông. Trong toàn ngành dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 6,72%, lao động nam ngành may chiếm 18,3%; lao động nữ ngành dệt chiếm 13,28% ,lao động nữ ngành may chiếm 65,7%. Tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi nam; ngành may thì sự chênh lệch này còn lớn hơn là gấp 3 lần. Điều này đặt ra một nhu cầu đối với các doanh nghiệp phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với sức khỏe nữ giới. Một thực tế nữa là mặc dù ngành thu hút nhiều lao động nhưng chất lượng lao động là quá thấp. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 27.1%, lượng lao đông chưa qua đào tạo chiếm 78.2%, đại học và trên đại học chiếm 7.9%. Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Trình độ lao động Tỷ lệ trong các doanh nghiệp dệt (%) Tỷ lệ trong các doanh nghiệp may (%) Lao động phổ thông 78.2 81,76 Công nhân 19,2 6,53 Kỹ thuật viên 3,3 3,92 Trung cấp 4,6 3,63 Đại học và cao đẳng 7.4 4,15 Trên đại học 0.5 0,01 Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh lao động phổ thông (trên 60%), trình độ văn hóa thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự đào tạo công nhân trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất. Do đó, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý và tổ chức sản xuất: - Nhận thức về pháp luật, chính sách lao động, nội quy kỉ luật, đặc biệt là kỹ thuật công nghệ hiện đại của người lao động rất hạn chế - Thời gian eo hẹp nên việc tổ chức học tập văn hóa, nâng cao tay nghề cũng như tổ chức một cuộc sống cân đối giữa lao động và nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động cho người lao động hầu như không thể thực hiện được. Với đặc điểm nguồn lao động như vậy là một cản trở lớn cho quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Chúng ta có một thế mạnh là lao động tuổi đời còn rất trẻ, có sức khoẻ tốt, dễ tiếp thu kiến thức mới. Theo điều tra, trong ngành may, lao động dưới 30 tuổi chiếm 64,2% còn trong ngành dệt thì số lao động này thấp hơn là 38,3%. Tuy nhiên, những lao động này lại thiếu kinh nghiệm, rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn lựa chọn hình thức tự đào tạo. Một điều đáng quan tâm ở đây là các cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao, họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lại cho thấy lực lương này còn quá ít ỏi, trình độ thấp chưa đủ khả năng, điều đó cũng có thể do lương thấp khiến cho lao động giỏi chuyển về các công ty liên doanh nước ngoài hoặc chuyển sang các ngành nghề khác mang lại nhiều thu nhập hơn. Điều đó đã khiến nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp, công ty Dệt May thiếu lao động có tay nghề cao trầm trọng. Theo tính toán của hiệp hội Dệt May Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp Dệt May cả nước thiếu khoảng 900 lao động thiểt kế, 1700 lao động marketing và xúc tiến xuất khẩu, hàng trăm kỹ sư công nghệ dệt – nhuộm – hóa chưa có nguồn cung ứng. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1.Thuận lợi ( điểm mạnh ) Qua phân tích về thực trạng đổi mới công nghệ ngành dệt may, chúng ta có thể thấy được các lợi thế của ngành dệt may, những điểm thuận lợi ngành dệt may Việt Nam. Đây là một ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, đồng thời mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một phần nguồn thu trong ngân sách Nhà nước. Công nghiệp dệt may hiện nay có tiềm lực phát triển khá mạnh được coi là một trong những trọng điểm phát triển của công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa.Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành chiếm 12% của toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu chiếm 7.7 tỷ USD năm 2007 tăng 32% so với năm 2006, mục tiêu đến năm 2008 là 9.5 tỷ USD. Để luôn giữ được vị trí quan trọng trong toàn ngành, ngành dệt may đã có nhiều sự chuyển biến lớn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, tạo nhiều sản phẩm có chất lượng tốt, thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao. Việc nước ta đổi mới công nghệ sau các nước khác sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may giảm được tỷ lệ sai sót trong quá trình sử dụng máy móc thiết bị, chúng ta sẽ kế thừa được nhiều máy móc thiết bị tốt đồng thời có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm, được cung cấp thêm các tư liệu bổ ích từ bên phía đối tác nước ngoài, để từ đó trau dồi khả năng và tính sáng tạo của bản thân mỗi doanh nghiệp dệt may. Đồng thời việc hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài về đầu tư đổi mới công nghệ còn giúp cho mối quan hệ giao lưu hợp tác giữa các nước trở nên tốt đẹp hơn. Thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường 2.4.2. Khó khăn ( điểm yếu ) Bên cạnh những thuận lợi thì việc đổi mới công nghệ cũng gặp phải nhiều khó khăn, điều đáng nói ở đây ngay cả bản thân mỗi doanh nghiệp cũng chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ. Họ cho rằng việc đổi mới công nghệ là tốn kém và không hiệu quả, khảo sát 100 DN thì trong đó có 50% DN cho rằng rất cần thiết, 39% DN cho rằng cần thiết, còn lại 11 % DNcho rằng không cần thiết. Cũng có một số DN đã chú ý hơn đến đầu tư cho đổi mới công nghệ, tuy nhiên, qua kết quả điều tra, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ tập trung chủ yếu để mua sắm, cải tiến máy móc thiết bị phần cứng( thông qua nhập khẩu thiết bị trong nước ) hơn là đầu tư cho phần mềm như đầu tư cho nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất hay sản phẩm hiện có hoặc các sản phẩm mới. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không sớm nhận ra điều này và có chiến lược dài hạn đầu tư cho phần mềm công nghệ thì rồi đây sản phẩm của chúng ta khó thâm nhập thị trường quốc tế khi Việt Nam hội nhâp sâu hơn vào nền kinh tế khu vực. Một điều nữa đó là các Dn Việt Nam còn thiếu vốn, thiếu thông tin về công nghệ và những hạn chế trong pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, Việc đi sau áp dụng các công nghệ làm cho các DN dệt may dễ gặp phải các công nghệ lạc hậu cũ kỹ, gặp nhiều rủi ro trong quá trình chuyển giao công nghệ. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 3.1. Định hướng ngành Dệt May đến năm 2020 *Định hướng Theo chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 nhằm giải quyết việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp nên chú trọng đầu tư các công nghệ mới nhất với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và số lượng. Mặt khác, các doanh nghiệp cần coi trọng tận dụng các thiết bị đã qua sử dụng với các công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. Chiến lược cũng chỉ rõ rằng các doanh nghiệp nên đầu tư phát triển dệt may theo hướng chuyên môn hóa cao theo từng loại công nghệ.Có như vậy mới tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải làm chủ một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng tạo ra những mặt hàng mới chất lượng cao, xây dựng mối cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại. * Mục tiêu - Mục tiêu tổng quát Đảng và nhà nước ta đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển ngành dệt may tới 2015 là “phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới”. - Mục tiêu cụ thể Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 - Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16- 18% 12- 14% -Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20% 15% Quan điểm phát triển Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành Dệt May là thương hiệu còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời.   Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành.   Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6011.doc
Tài liệu liên quan