Đề tài Thực trạng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

MỤC LỤC



1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI( FDI) 2

1.1. Khái niệm 2

1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 2

1.3. Lợi ích của việc thu hút đầu tư nước ngoài 4

1.4. Những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển

của thương mại quốc tế 5

2. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN THẾ GIỚI 7

3. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI

VIỆT NAM 8

3.1. Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2000 đến 2008 8

3.2.Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài năm 2008 11

3.3. Một số tồn tại cần khắc phục 16

4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THU HÚT NGUỒN VỐN

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 20

5. TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI NĂM 2009 23

5.1. Một số thách thức đặt ra đối với FDI tại Việt Nam từ cuộc khủng hoảng

tài chính toàn cầu 23

5.2. Dự báo đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2009 24

 

 

 

 

 

 

docChia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6788 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu, luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên toàn cầu đã giảm khoảng 21% trong năm 2008, cao gấp hai lần dự báo trước đó, nhưng dự kiến sẽ còn giảm mạnh hơn nữa trong năm 2009. Theo UNCTAD, luồng vốn FDI trên toàn thế giới đã giảm khoảng 21% xuống 1.400 tỷ USD trong năm 2008. Hồi tháng 9/08, UNCTAD đã dự báo đầu tư xuyên biên giới năm 2008 sẽ chỉ giảm 10% so với năm 2007 khi FDI đạt mức cao kỷ lục 1.800 tỷ USD. UNCTAD cũng đã dự báo rằng năm 2008 sẽ đánh dấu việc kết thúc chu kỳ 4 năm tăng trưởng đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, tác động của khủng hoảng lên xu hướng FDI của từng nước cũng khác nhau phụ thuộc vào từng khu vực và mỗi nước. - Cho đến nay, các nền kinh tế phát triển bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với FDI năm 2008 ước giảm khoảng 33%, chủ yếu do các trở ngại sâu sắc và kéo dài đã gây ảnh hưởng tiêu cực lên các tổ chức tài chính và kết quả là dẫn đến khủng hoảng tiền mặt và thị trường nợ. Trong năm 2008, FDI vào Anh giảm xuống khoảng 109,4 tỷ USD, so với 224 tỷ USD năm 2007, trong khi các điểm đến FDI truyền thống như Ailen và Phần Lan đều chứng kiến luồng vốn FDI chảy ra và FDI giảm theo thứ tự 6,1 tỷ USD và 6,3 tỷ USD, do các nhà đầu tư thoái lui. - Trong số các nền kinh tế Trung và Đông Âu, luồng vốn FDI vào Ba Lan và Hunggary giảm, trong khi FDI vào Cộng hòa Séc, Rumani và Nga tăng lên. Luồng vốn đầu tư trực tiếp vào Mỹ cũng giảm trên 5% xuống 220 tỷ USD, trong khi vào Nhật Bản giảm 23% xuống 17,4 tỷ USD. - Các nước đang phát triển cũng nỗ lực duy trì tăng trưởng đầu tư trực tiếp trong năm 2008. Tuy nhiên, UNCTAD đánh giá rằng cho đến nay các nước nghèo hơn đã tránh được những ảnh hưởng tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tại các nền kinh tế đang phát triển, luồng vốn FDI mau phục hồi hơn. Tốc độ tăng trưởng luồng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy thấp hơn năm 2007 những vẫn đạt khoảng 4%. - Trong năm 2008, Trung Quốc vẫn thu hút được 82 tỷ USD vốn FDI, tăng 10% so với năm 2007, trong khi Ấn Độ thu hút được 36,7 tỷ USD FDI, tăng 60%. Tuy nhiên, FDI vào Inđônêxia, Xingapo và Thái Lan đều giảm đáng kể, theo thứ tự giảm 21%, 57% và 4%, xuống 5,5 tỷ USD, 10,3 tỷ USD và 9,2 tỷ US Nhìn chung, đầu tư trong nước và nước ngoài giảm do kết hợp hai nhân tố. - Một là, khả năng đầu tư của các công ty bị giảm sút do khả năng tài chính cũng như lợi nhuận của các công ty sụt giảm. - Hai là, môi trường kinh tế giảm sút cũng ảnh hưởng đến xu hướng đầu tư của các công ty, đặc biệt là đối với các công ty ở các nước giàu có đang bị suy thoái nghiêm trọng. Trong ngắn hạn, tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế lên FDI vẫn tiếp diễn và đóng góp vào sự giảm sút của luồng vốn FDI trong cả năm 2009, do các công ty hàng đầu cắt giảm chi phí và đầu tư trước triển vọng kinh tế nghèo nàn. Các nước đang phát triển cũng không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, hiện có nhiều nhân tố tích cực và sớm hay muộn sẽ thúc đẩy luồng vốn đầu tư quốc tế hồi phục. Những nhân tố này bao gồm các cơ hội đầu tư dựa trên giá tài sản rẻ, quá trình cơ cấu lại ngành công nghiệp, khối lượng tương đối lớn các nguồn tài chính ở các nước đang nổi lên và các nước xuất khẩu giàu tiền mặt, các hoạt động mới trong các lĩnh vực năng lượng mới và các ngành liên quan đến môi trường mở rộng nhanh chóng và sự tương đối mau phục hồi của các công ty quốc tế. 3. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.1. Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2000 đến năm 2008. Số liệu đăng ký FDI và giải ngân FDI từ năm 2000 đến 2008 TÌNH HÌNH FDI TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2008 (ĐVT:Triệu đồng) Năm Số dự án Đăng ký Giải ngân 2000 391 2838.9 2413.5 2001 555 3142.8 2450.5 2002 808 2998.8 2591.0 2003 791 3191.2 2650.0 2004 811 4547.6 2852.5 2005 970 6839.8 3308.8 2006 987 12004.0 4100.1 2007 1544 21347.8 8300.0 2008 1171 64011.0 11500.0 * Đồ thị biểu diễn số FDI đăng ký và FDI giải ngân: cột bên trái là FDI đăng ký, cột bên phải là FDI giải ngân * Phân tích tình hình FDI từ năm 2000 đến 2008 Giai đoạn 2000-2008:Tổng số vốn đăng ký 120,9 tỷ USD, tổng số giải ngân 40,16 tỷ USD. Tỷ trọng giải ngân 33%. Trong đó: Giai đoạn 2000-2005: Đăng ký 23.55 tỷ USD, giải ngân 16.26. Tỷ trọng 69%. Giai đoạn 2006-2008: Đăng ký 97.35 tỷ USD, giải ngân 23.9 tỷ. Tỷ trọng 25% . - Theo số liệu và đồ thị biểu diễn, FDI giai đoạn 2000-2005 có giá trị đăng ký thấp, nhưng tỷ trọng giải ngân khá cao (69%). Trong khi giai đoạn 2006-2008 cơ mức đăng ký cao, giá trị giải ngân tuyệt đối cũng cao nhưng tỷ trọng giải ngân so với đăng ký lại rất thấp (25%) Nguyên nhân: Việt Nam đang trong giai đọan mở cửa => tốc độ FDI phụ thuộc vào lộ trình hội nhập quốc tế. Giai đoạn đầu, FDI chủ yếu vào các ngành thương nghiệp, công nghiệp nhẹ do đó FDI đăng ký thấp nhưng tỷ trọng FDI giải ngân cao. -Giai đoạn 2006-2008, hội nhập trở thành nhu cầu bức xúc của Việt nam và thế giới =>tốc độ hội nhập cao =>lượng vốn đăng ký nhiều. Tuy nhiên cơ cấu FDI vào các ngành công nghiệp lớn, thời gian triển khai dự án dài, cộng với khả năng quản lý dòng vốn FDI của chính phủ chưa đáp ứng được tốc độ phát triển FDI =>Giải ngân chậm là 1 tất yếu * Tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài Bên cạnh những lợi ích do việc đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại, còn có những yếu kém ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và hiệu quả của việc sử dụng vốn FDI. Trong tổng lượng vốn đăng ký, có một nữa số vốn là vào các ngành khai thác tài nguyên, tận dụng bảo hộ, công nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản. Đây là cơ cấu không mong đợi bởi vì vốn đầu tư vào khai thác tài nguyên thì không có tác dụng lan tỏa; vốn đầu tư vào các ngành bảo hộ thì không có sức cạnh tranh chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia tăng; vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận họ hưởng, còn hậu quả và chi phí khắc phục thì ta chịu; vốn đầu tư vào bất động sản thì có thể làm căng thêm “bong bóng”, dễ gây ra bất ổn. Trong khi đó, đầu tư vào kết cấu hạ tầng, công nghiệp phụ trợ còn ít. Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ các nước châu Á (69%, Đông Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm 24%, châu Mỹ chiếm 5%, các nước G8 mới chiếm 23,7% nên chưa thu hút được nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, công nghệ nguồn. Có một số trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc, thiết bị có công nghệ lạc hậu, thậm chí là những phế thải của các nước khác. Vấn đề về văn hóa ứng xử : khi thu hút đầu tư vào Việt Nam, ban đầu chúng ta rất nhiệt tình, đến khi phía nước ngoài tiến hành đầu tư thì lại gặp khó khăn về thủ tục giấy tờ, mặt bằng không đủ đáp ứng để tiến hành dự án, không đồng bộ giữa các cấp địa phương… Từ những tiêu cực trên, thiết nghĩ thu hút FDI là quan trọng nhưng cần phải chọn lọc các dự án, để có được “FDI sạch” - FDI đáp ứng nhu cầu tăng trưởng bền vững, mang lại hiệu quả tốt như mong đợi. Muốn vậy, ta cần phải đưa ra những biện pháp cải tạo thiết thực như đổi mới giáo dục, đào tạo lao động có tay nghề, mới hấp thu được nguồn vốn của các nước có công nghệ hiện đại để tương xứng với nó; hệ thống luật pháp cần phải đồng bộ và mang tính chất lâu dài, đặt vấn đề ô nhiễm môi trường lên hàng đầu khi xét duyết các dự án đầu tư … 3.2. T hực trạng thu hút đầu tư nước ngoài năm 2008 Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tạo chuyển biến mới trong công tác thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN), trong năm qua, môi trường đầu tư của nước ta đã tiếp tục được cải thiện.Tiếp theo đà tăng trưởng cao liên tục của các năm 2007, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam tiếp tục tăng cao trong năm 2008. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn ĐTNN đăng ký trong năm 2008 (tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2008) đạt trên 64 tỷ USD, mức tăng kỷ lục kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đến nay, tăng hơn 3 lần năm 2007. Cả nước cấp mới thêm 112 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký đạt 1,17 tỷ USD. Bình quân số vốn đăng ký đạt 51,4 triệu USD/dự án , cao hơn rất nhiều so với thời gian trước BÁO CÁO NHANH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI NĂM 2008 TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Tháng 12 năm 2008 Năm 2007 Năm 2008 So cùng kỳ I/ Tình hình thực hiện: 1 Vốn đầu tư thực hiện triệu USD 1,450 8,030 11,500 143.2% 2 Doanh thu triệu USD 5,100 40,630 50,550 124.4% 3 Xuất khẩu triệu USD 2,100 19,286 24,455 126.8% 4 Nhập khẩu triệu USD 2,200 21,730 28,458 131.0% 5 Nộp Ngân sách triệu USD 150 1,576 1,982 125.8% 6 Số lao động cuối kỳ báo cáo nghìn người 15 1,265 1,467 116.0% II/ Cấp mới và tăng vốn 1 Số dự án cấp mới dự án 112 1,544 1,171 75.8% 2 Vốn đăng ký cấp mới triệu USD 1,254 18,718 60,271 322.0% 3 Số lượt dự án tăng vốn lượt dự án 38 420 311 74.0% 4 Vốn tăng thêm triệu USD 219 2,629 3,740 142.3% 5 Vốn cấp mới và tăng thêm triệu USD 1,473.3 21,347.0 64,011.0 299.9% CẤP MỚI 12 THÁNG - 2008 PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ (tính tới ngày 19/12/2008) DVT:USD STT Hình thức đầu tư Số dự án TVĐT Vốn điều lệ 1 100% vốn nước ngoài 882 31,169,006,730 8,932,578,277 2 Liên doanh 213 27,159,245,022 5,930,323,091 3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 4 43,730,000 21,580,000 4 BOT 1 35,800,000 10,800,000 5 Công ty cổ phần 71 1,863,594,288 533,697,653 Tổng số 1,171 60,271,376,040 15,428,979,021 âHình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài vẫn chiếm vị trí cao trong tổng vốn đầu tư (51,74% vốn đăng ký và 75.3% về số dự án), kế đó là hình thức liên doanh (chiếm 45,06% về tổng vốn và 18.2% về số dự án) CẤP MỚI 12 THÁNG 2008 PHÂN THEO NGÀNH (tính tới ngày 19/12/2008) STT Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn điều lệ I Công nghiệp & xây dựng 572 32,620,059,668 7,985,192,830 CN dầu khí 8 10,574,880,000 2,312,880,000 CN nặng 177 19,440,998,365 4,639,773,919 CN nhẹ 245 1,818,488,796 702,249,637 CN thực phẩm 35 434,244,755 184,181,575 Xây dựng 107 351,447,752 146,107,699 II Nông-Lâm-Ngư nghiệp 45 252,051,581 153,770,401 Nông-Lâm nghiệp 40 247,210,331 148,929,151 Thủy sản 5 4,841,250 4,841,250 III Dịch vụ 554 27,399,264,791 7,290,015,790 Dịch vụ 438 1,278,636,542 401,046,547 GTVT-Bưu điện 25 1,858,586,500 686,243,125 Khách sạn-Du lịch 26 9,126,098,875 1,866,685,000 Tài chính-Ngân hàng 1 18,200,000 18,200,000 Văn hóa-Y tế-Giáo dục 21 489,511,894 47,997,492 XD hạ tầng KCX-KCN 5 137,249,866 36,167,000 XD Khu đô thị mới 5 4,896,500,000 2,042,350,000 XD Văn phòng-Căn hộ 33 9,594,481,114 2,191,326,626 Tổng số 1,171 60,271,376,040 15,428,979,021 âSo với năm 2007, tổng vốn đầu tư của năm nay tăng đáng kể; ngành công nghiệp và xây dựng hấp dẫn nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn, chiếm 48.85% về số dự án và 54.12% về số vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 47.3% về số dự án v à 45.4% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp. CẤP MỚI 12 THÁNG - 2008 PHÂN THEO ĐỐI TÁC (tính tới ngày 19/12/2008) STT Đối tác Số dự án TVĐT Vốn điều lệ 1 Malaysia 55 14,938,264,005 1,993,007,542 2 Đài Loan 132 8,643,468,746 3,094,704,763 3 Nhật Bản 105 7,287,508,616 615,714,716 4 Singapore 101 4,466,351,215 1,363,584,885 5 Brunei 19 4,400,750,000 831,550,000 6 Canada 9 4,237,730,000 800,593,940 7 Thái Lan 32 3,992,720,000 1,631,669,936 8 BritishVirginIslands 49 3,940,814,550 1,304,619,507 9 SƯp 3 2,200,100,000 746,770,000 10 Hàn Quốc 292 1,803,435,033 594,434,328 11 Hoa Kỳ 53 1,485,867,750 591,636,750 12 Thụy Sỹ 11 658,913,000 658,653,000 13 Vương quốc Anh 17 563,620,781 560,032,900 14 Hồng Kông 50 369,586,920 159,088,170 15 Trung Quốc 73 334,202,310 127,482,938 16 Cayman Islands 5 226,200,000 54,950,000 17 Samoa 10 148,100,000 46,250,910 18 TVQ ả rập thống nhất 1 112,000,000 20,838,312 19 Đan Mạch 13 82,589,250 38,399,250 20 Pháp 38 81,594,828 18,587,674 21 Liên bang Nga 5 69,000,000 65,580,000 22 CHLB Đức 16 56,200,000 12,744,500 23 Australia 24 53,619,036 18,824,375 24 Italia 6 19,475,000 11,455,000 25 Mauritius 4 16,600,000 16,300,000 26 Hà Lan 11 12,872,500 5,988,125 27 Belize 1 12,000,000 3,600,000 28 Bungary 2 12,000,000 12,000,000 29 Thụy Điển 3 10,400,000 1,175,000 30 Philippines 4 8,150,000 7,850,000 31 Indonesia 2 5,000,000 4,700,000 32 Cộng hòa SĐc 2 4,020,000 4,020,000 33 Thổ Nhĩ Kỳ 1 4,000,000 4,000,000 34 Ấn Độ 4 3,120,000 1,570,000 35 Israel 1 3,000,000 500,000 36 New Zealand 3 2,542,500 2,142,500 37 Barados 1 2,500,000 2,500,000 38 Pakistan 1 1,000,000 300,000 39 Aă 1 600,000 150,000 40 Bỉ 2 380,000 280,000 42 Hungary 1 250,000 50,000 43 Bangladesh 1 200,000 100,000 44 Tây Ban Nha 1 200,000 200,000 45 CHDCND Triều Tiên 1 100,000 100,000 46 Ukraina 1 100,000 100,000 47 West Indies 1 100,000 50,000 48 Campuchia 1 50,000 50,000 49 Na Uy 1 50,000 50,000 50 Libăng 1 30,000 30,000 Tổng số 1,171 60,271,376,040 15,428,979,021 Nguån: Côc §Çu tư nưíc ngoµi - Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu tư â Cấp mới theo đối tác đầu tư: Trong năm 2008 đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu với 55 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỷ USD, chiếm 4,7% về số dự án và 24,8% về vốn đầu tư đăng ký. Đài Loan đứng thứ 2 có 132 dự án, vốn đầu tư 8,64 tỷ USD, chiếm 11,3% về số dự án và 14,3% về vốn đầu tư đăng ký. Nhật Bản đứng thứ 3 có 105 dự án, vốn đầu tư 7,28 tỷ USD, chiếm 9,0% về số dự án và 12,1% về vốn đầu tư đăng ký dự án. Singapore đứng thứ 4 có 101 dự án, vốn đầu tư đăng ký 4,46 tỷ USD, chiếm 8,6% về số dự án và 7,4% về số vốn đăng ký. Brunei đứng thứ 5 có 19 dự án, vốn đầu tư 4,4 tỷ USD, chiếm 7,3% về vốn đầu tư đăng ký. Cơ cấu đầu tư theo đối tác đã đa dạng hơn và có sự chuyển dịch theo hướng tích cực từ các nước quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông… sang các khu vực khác như châu Âu (British Virgin Islands, Thụy Sỹ, Anh, Samoa, Síp, Cayman Islands, Pháp, Hà Lan, Đức, Đan Mạch…) và châu Mỹ (Canada, Hoa Kỳ). Trong số các dự án đầu tư có quy mô lớn nêu trên, đã có sự xuất hiện của một số đối tác mới nổi lên như Malaysia, Brunei, Canada, Síp… Đồng thời, cũng đã có sự đa dạng hơn về việc lựa chọn địa điểm đặt dự án đầu tư. Cụ thể là bên cạnh các địa bàn thuộc vùng kinh tế trong điểm Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc ) và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP. HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An), nguồn vốn FDI thời gian gần đây đã dịch chuyển đáng kể sang một số địa bàn khác thuộc các tỉnh thuộc Duyên hải miền Trung và đồng bằng Sông Cửu Long như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Phú Yên, Ninh Thuận, Kiên Giang, Hậu Giang… Sự xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam, trong đó có các dự án đã như dự án sản xuất gang thép Hưng nghiệp Formosa đầu tư 7,879 tỷ USD, dự án xây dựng khu đô thị đại học Berjaya Leisure (Malaysia) do Công ty Berjaya Leisure đầu tư 3,5 tỷ USD tại TP. HCM, dự án Công ty TNHH thép Vinasin Lion tại Ninh Thuận (9,79 tỷ USD)... cho thấy nhiều nhà đầu tư lớn đang đặc biệt quan tâm đến Việt Nam và sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tiếp tục đạt được kết quả cao. Tống vốn thực hiện trong năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 44% so vời năm 2007. Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN năm 2008 đạt 50,5 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2007, trong đó giá trị xuất khẩu không kể dầu thô đạt 24,4 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, khối doanh nghiệp ĐTNN cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất lớn, 28,458 tỷ USD. Do đó, khối doanh nghiệp ĐTNN vẫn là khối nhập siêu trong năm 2008, với tổng kim ngạch nhập siêu 4 tỷ USD, chiếm khoảng 25% thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008. Năm 2008, khối doanh nghiệp ĐTNN đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2007; đồng thời đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới, nâng tổng số lao động làm việc trong các dự án ĐTNN lên 1,467 triệu người, góp phần quan trọng vào giải quyết vấn đề công ăn việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt Nam hiện nay. 3.3. Một số tồn tại cần khắc phục Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn ĐTNN vào Việt Nam đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên găy gắt hơn. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới phát sinh cũng đang bắt đầu có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư làm hạn chế khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế. Một số vấn đề nổi lên là: a) Về luật pháp, chính sách: Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án (hầu hết các địa phương đều phản ánh vấn đề này. b) Về công tác quy hoạch: Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp. c) Về cơ sở hạ tầng: Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa. Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu kinh tế mới được thành lập gần đây như Chân Mây, Nhơn Hội, Nam Phú Yên… phát triển quá chậm so với nhu cầu đầu tư phát triển các dự án ĐTNN đang gây quan ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài và đang cản trở việc giải ngân triển khai dự án ĐTNN lớn trong các khu kinh tế này. Tình trạng thiếu điện dẫn tới cắt điện luân phiên, cắt điện không theo lịch khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không nhỏ trong việc điều hành và hoàn thành kế hoạch sản xuất. d) Về nguồn nhân lực: Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn Hội… mà còn ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 3 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án ĐTNN, đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước quá lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Còn tình trạng đình công đang diễn ra và trở thành áp lực đáng kể với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. đ) Vấn đề đất đai và công tác giải phóng mặt bằng: Công tác giải phòng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và thu hút và sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn ĐTNN nói riêng. Nhiều địa phương đang lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án quy mô lớn như đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Việc đền bù thu hồi đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng và xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó khăn lớn nhất đối với triển khai một số dự án TNN quy mô lớn hiện nay, đặc biệt đối với dự án 100% vốn nước ngoài. Theo quy định của Luật Xây dựng, chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn bộ khâu giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sạch cho nhà đầu tư. Tuy nhiên do phải sử dụng ngân sách địa phương để đền bù thu hồi đất và thủ tục giải ngân đối với nguồn vốn ngân sách quá phức tạp và mức đền bù theo quy định chung của Nhà nước không đáp ứng yêu cầu của người được đền bù nên tiến độ giải phóng mặt bằng rất chậm. Mặt khác, còn tâm lý e ngại nhà đầu tư không triển khai dự án đúng tiến độ sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Như vậy trên thực tế ngân sách nhà nước phải chi một khoản rất lớn ngay từ lúc giải phóng mặt bằng, trong khi đó nếu thực sự dự án có hiệu quả thì cũng phải nhiều năm sau mới có thu ngân sách. Điển hình là một số dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng nhiều diện tích đất mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại một số địa phương. Việc sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư các khu công nghiệp, khu đô thị, sân golf đang được dư luận gần đây quan tâm. Do các địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nên có tình trạng cấp phép nhiều dự án sử dụng diện tích lớn đất nông nghiệp để đầu tư khu công nghiệp, khu đô thị, sân Golf. Về vấn đề này, tại Quyết định số 391/QĐ-TTg ngày 18/4/2008, Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài Nguyên và Môi trường chủ trì việc kiểm tra quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, trong đó có đất nông nghiệp. f) Vấn đề phân cấp trong quản lý ĐTNN: - Chủ trương phân cấp trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực ĐTNN là đúng đắn, tuy nhiên trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, kịp thời, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN tại một số địa phương còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ nên đã nảy sinh vấn đề cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu hút ĐTNN, thiếu sự liên kết vùng, khu vực, ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư. Một số địa phương không thẩm tra kỹ về năng lực của các nhà đầu tư trong các dự án có quy mô lớn, chạy đua với nhau trong việc cấp phép các dự án lớn có quy mô hàng tỷ USD. Do vậy, khả năng triển khai các dự án này sẽ rất khó khả thi theo đúng cam kết của nhà đầu tư. - Với chủ trương phân cấp như hiện nay, việc cung cấp thông tin ĐTNN kịp thời của các địa phương lên trung ương, để phục vụ công tác quản lý, điều hành, phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam cña Chính phủ chưa được quy định rõ ràng. Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quản lý đầu tư các cấp, kế cả ệô Kế hoạch và Đầu tư, trong khi cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu. g) Vấn đề môi trường: Việc xử lý chất thải của các dự án ĐTNN tập trung tại các khu công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với các dự án sản xuất quy mô lớn. Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện một số vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu tư. h) Về xúc tiến đầu tư: Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docFDI.doc
Tài liệu liên quan