Đề tài Thuế thu nhập cá nhân – lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC



LỜI MỞ ĐẦU Trang

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

1.1 Nguồn gốc ra đời thuế thu nhập cá nhân . 2

1.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân: . 3

1.3 Nội dung cơ bản luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam . 5

1.3.1 Đối tượng nộp thuế . . . 5

1.3.2 Thu nhập chịu thuế . 5

1.3.3 Thu nhập được miễn thuế . 7

1.3.4 Giảm thuế - kỳ tính thuế . . . 9

1.3.5 Căn cứ tính thuế . 9

1.3.5.1 Đối với cá nhân cư trú . 9

1.3.5.2 Đối với cá nhân không cư trú . 15

1.3.6 Quản lý và hoàn thuế . 18

1.4 Mô hình thuế thu nhập cá nhân ở một số nước . 18

1.4.1. Phần Lan. . 19

1.4.2. Nh ật Bản. . 20

1.4.3. Hà Lan . . . 23

1.4.4. Trung Quốc. . . . 26

CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO - CHUẨN BỊ ÁP

DỤNG LUẬT THUẾ MỚI

2.1 Tình hình thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giai đoạn 2000-200729

2.2 Chuẩn bị áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân mới . 31

2.2.1. Những mặt hạn chế về chính sách và biện pháp quản lý. . 31

2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN. . 33

2.2.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . . 35

2.2.4. Thuận lợi cho ngành thuế và người nộp thuế . . 38

2.2.5. Khó khăn cho ngành thuế và người nộp thuế . 39

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP

3.1 Tình hình ngành thuế sau khi Việt Nam gia nhập WTO. . 41

3.2 Các kiến nghị . 45

3.3 Giải pháp . 46

3.3.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý ngành thuế.46

3.3.2. Tăng cường tuy ên truy ền, phổ biến đến người dân. .47

3.3.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . . 49

3. 3.4. Hạn chế sử dụng tiền mặt . . . 50

3.3.5. Đẩy mạnh việc kết hợp quản lý thuế TNCN . 51

3. 3.6. Hoàn thiện phương pháp quản lý thu thuế . . 52

KẾT LUẬN . 55

pdf57 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5876 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế thu nhập cá nhân – lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6.600.000 10.000.000 1.860.000 10 10.000.000 2.200.000 5 (Nguồn: Cục thuế TP.HCM) Biểu 6 : Biểu thuế cấp quốc gia ở Nhật năm 2001 Thu nhập chịu thuế ¥ Thuế suất (%) Trên Không quá 0 3.300.000 10 3.300.000 9.000.000 20 9.000.000 18.000.000 30 18.000.000 37 (Nguồn: Cục thuế TP.HCM) Ở Nhật Bản biểu thuế được quy định theo hai dạng, theo cấp quốc gia và theo địa phương, với biểu thuế này sẽ thể hiện sự phù hợp với mức sống của từng địa phương và thành thị là khác nhau ở Nhật Bản. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Biểu 7 : Biểu thuế địa phương (cấp quận, cấp tỉnh) ở Nhật năm 2001 Thu nhập chịu thuế ¥ Thuế suất (%) Trên Không quá 0 2.000.000 5 2.000.000 7.000.000 10 7.000.000 (Nguồn: Cục thuế TP.HCM) Người nộp thuế được trừ một khoản trợ cấp trị giá 380.000¥ đối với thuế cấp quốc gia và 330.000¥ đối với cấp địa phương cho chính mình, cho vợ/chồng phụ thuộc, cho những người ăn theo. Nếu thu nhập người chịu thuế dưới 10.000.000¥ thì họ được hưởng một khoản trợ cấp trị giá đặc biệt 380.000¥ đối với thuế cấp quốc gia và 330.000¥ đối với cấp địa phương cho chính mình, cho vợ/chồng phụ thuộc. Và một khoản trợ cấp khác trị giá 150.000¥ đối với thuế cấp quốc gia và 80.000¥ đối với cấp địa phương cho người phụ thuộc tuổi từ 16-22. Người không cư trú tại Nhật chịu thuế suất 20% trên tổng thu nhập. 1.4.3. Hà Lan Từ ngày 01-01-2001, Hà Lan bắt đầu áp dụng một hệ thống thuế mới. Việc cải cách thuế lần này đã thực hiện theo hướng giảm dần thuế xuất đánh vào thu nhập cá nhân và tăng thuế xuất đối với các loại thuế gián thu như VAT, thuế môi trường. Cũng như những loại thuế khác, thuế TNCN ở Hà Lan kể từ ngày 01-01-2001 cũng có một sự thay đổi về căn bản. 1.4.3.1.Đối tượng nộp thuế Cũng giống như thuế THCN ở Việt Nam, đối tượng nộp thuế thu nhập ở Hà Lan cũng bao gồm: Công dân Hà Lan ở trong nước và nước ngoài, người nước ngoài đang công tác, học tập tại Hà Lan. Thu nhập chịu thế và các khoản giảm trừ được xác định riêng cho từng 55 Đề tài nghiên cứu khoa học cá nhân. Tuy nhiên một số khoản thu nhập và giảm trừ của vợ, chồng hoặc những người sống chung như vợ, chồng (có đăng ký chính thức) có thể gộp chung lại để tính thuế. 1.4.3.2. Thu nhập chịu thuế Kể từ ngày 01-01-2001, thu nhập chịu thuế bao gồm: thu nhập từ công việc và nhà ở, thu nhập từ các hoạt động tài chính, các khoản tiết kiệm và đầu tư. a. Nhóm thu nhập thứ nhất: Thu nhập từ công việc và nhà ở bao gồm:  Lợi nhuận kinh doanh cá thể hoặc các hoạt động mang tính chuyên nghiệp.  Tiền lương, tiền thưởng, tiền nhà và xe riêng do người sử dụng lao động trả, tiền lương hưu, trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên nếu một số người sử dụng các phương tiện giao thông công cộng hoặc xe đạp để đi làm thì các khoản chi phí đó sẽ được trừ ra. Chẳng hạn: nếu một cá nhân sử dụng xe đạp ít nhất 3 ngày/tuần và khoảng cách từ nhà đến nơi làm việc hơn 10km thì người đó sẽ được trừ 339 EUR/năm.  Thu nhập từ nhà ở (phần lớn người dân phải thuê nhà ở, nhưng những người ở nhà riêng không phải trả tiền thuê nhà và khoản tiền này được xem là khoản thu nhập nhà ở).  Thu nhập khác  Các khoản được giảm trừ:  Bảo hiểm nhân thọ (không quá 1.036 EUR/năm)  Chi phí thuê giữ trẻ dưới 13 tuổi (không quá 8.800 EUR/năm)  Trả các khoản cấp dưỡng  Chi phí cho đến 27 tuổi; Chi phí y tế  Chi phí cho các kỳ nghỉ cuối tuần của con bị tàn tất từ 27 tuổi trở lên.  Chi phí cho học tập (Cho đối tượng nộp thuế)  Các khoản đóng góp từ thiện. b. Nhóm thu nhập thứ hai: Thu nhập từ các hoạt động tài chính. c. Nhóm thu nhập thứ ba: Thu nhập từ các khoản tiết kiệm và đầu tư. Thu nhập từ các khoản tiết kiệm và đầu tư = Tài sản ròng x 4% Tài sản ròng = Tổng giá trị tài sản - nợ và các khoản phải trả Mỗi cá nhân sẽ được miễn trừ 17.600 EUR từ tài sản ròng trước khi tính thuế. Nếu họ 55 Đề tài nghiên cứu khoa học có con dưới 18 tuổi, thì mỗi người con sẽ được khấu trừ thêm 2.349 EUR. 1.4.3.3. Thuế suất.  Đối với nhóm thu nhập thứ nhất, thuế suất được sử dụng là thuế suất tỷ lệ luỹ tiến từng phần và biểu thuế được áp dụng như sau: Biểu 8 : Biểu thuế lũy tiến từng phần ở Hà Lan năm 2005 Bậc Thu nhập chịu thuế (EUR/năm) Thuế suất (%) 1 Đến 1.870 32,35 2 Từ 14.870 đến 27.009 37,60 3 Từ 27.009 đến 46.309 42,00 4 Trên 46.309 52,00 (Nguồn: Cục thuế TP.HCM)  Đối với nhóm thu nhập thứ hai, thuế suất tỷ lệ cố định được áp dụng là 25%.  Tương tự đối với nhóm thu nhập thứ ba, thuế suất áp dụng là 30%. Như vậy nhìn chung ưu điểm lớn nhất của thuế TNCN ở Hà Lan là tạo ra sự công bằng và hợp lý trong tính thuế giữa các đối tượng nộp thuế. Điều này được thể hiện thông qua chính sách khấu trừ các khoản chi phí liên quan đến thu nhập chịu thuế: Chi phí y tế, học tập, đóng góp từ thiện… Ngoài ra việc sử dụng thuế xuất luỹ tiến cũng có tác dụng tạo ra sự công bằng trong điều tiết thu nhập của loại thuế này. Việc cho khấu trừ các khoản chi phí nuôi dưỡng con và những người không tự tạo ra thu nhập, các khoản đóng góp từ thiện, bảo hiểm nhân thọ… thể hiện rõ tính nhân đạo của thuế. Tạo sự nhất quán trong cách tính giữa thuế thu nhập cá nhân và thuế thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế TNCN ở Hà Lan đã bao quát tất cả các khoản thu nhập của các tầng lớp dân cư. Ngoài ra, thuế này còn có tác động tích cực đến các vấn đề xã hội khác. Việc cho khấu trừ các khoản chi phí đi lại nếu một cá nhân sử dụng các phương tiện giao thông công cộng để đi làm hoặc sử dụng xe đạp có tác động tích cực đối với môi trường và vấn đề giao thông. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học 1.4.4. Trung Quốc. Hệ thống thuế của Trung Quốc khác biệt so với các nước thu nhập vừa và thấp trên thế giới, và cũng khác biệt so với cá quốc gia Đông Á và khu vực Thái Bình Dương. Điều gì làm nên sự khác biệt của hệ thống thuế Trung Quốc và những sự thay đổi về cơ cấu thuế của trung quốc khi nuớc này gia nhập WTO? Thuế thu nhập cá nhân, phát sinh từ những điều chỉnh thuế cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1994 có doanh số thấp do diện chịu thuế bị thu hẹp lại và đối tượng miễn giảm tương đối cao. Cải cách năm 1994 hợp nhất thuế thành thuế đơn khâu đối với các đối tượng nộp thuế nội địa và nước ngoài với các loại thu nhập từ luơng đồng hạng từ 5% - 45% và từ 5 – 35 %.... Thuế cũng rất phức tạp với sự chênh lệch về các loại được khấu trừ. Chính quyền địa phương được giữ lại các khoản thuế thu đuợc từ thuế TNCN. Đối với người sống ở Trung Quốc dưới 1 năm, thuế TNCN phải nộp tính trên thu nhập họ làm được ở Trung Quốc. Đối với người sống ở Trung Quốc trên 1 năm nhưng dưới 5 năm, thuế TNCN phải nộp tính trên thu nhập họ làm được ở Trung Quốc hoặc bên ngoài Trung Quốc. Đối với người sống tại Trung Quốc trên 5 năm, tổng thu nhập cá nhân được cân nhắc phần phát sinh bên ngoài Trung Quốc tính từ năm thứ 6. Thuế TNCN Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thu nhập: Lương tháng và thu nhập khác, Tiền bồi thường của các dịch vụ, tiền đặc quyền, bản quyền, lãi suất, lãi cổ phần, và tiền thưởng, từ cho thuê tài chính, thu nhập từ chuyển giao tài sản , các loại thu nhập đặc biệt khác do Bộ tài chính qui định. Biểu 9 : Biểu thuế TNCN của Trung Quốc năm 2005 Đơn vị tính: NDT (Nhân dân tệ) Bậc Tỉ lệ Thu nhập tháng 1 5 % 1-500 2 10 % 501 – 2 000 3 15 % 2 001 – 5 000 4 20 % 5 001 – 20 000 55 Đề tài nghiên cứu khoa học 5 25 % 20 001 – 40 000 6 30 % 40 001 – 60 000 7 35 % 60 001 – 80 000 8 40 % 80 001 – 100 000 9 45 % 100 001 trở lên (Nguồn: Cục thuế TP.HCM) Người nước ngoài làm việc và biểu diễn dịch vụ cá nhân tại Trung Quốc không quá 90 ngày trong một năm lịch (183 ngày cho các mục đích từ các quốc gia theo Hiệp ước thuế), được miễn thuế TNCN trong số thu nhập từ lương có được từ ngoài Trung Quốc. Những cá nhân khác là đối tượng chịu thuế thu nhập từ nguồn trong lãnh thổ Trung Quốc. Thuế TNCN áp dụng như sau:  Tiền lương (thuế lũy tiến 5 - 45%)  Thu nhập của thương nhân kinh doanh cá thể (thuế lũy tiến từ 5 – 45%)  Thu nhập từ dịch vụ cá nhân (mức chung 20%)  Nhuận bút, lợi tức (tiền lãi – interest) và cổ tức, có thu nhập bất thường thuộc loại chịu thuế theo quy định của Chính phủ có thuế suất cùng mức 20%. Những danh mục sau được loại trừ khỏi thuế TNCN:  Lãi từ trái phiếu chính phủ  Bồi thường của quốc gia hoặc trợ cấp  Trợ cấp thất nghiệp, lương hưu và các loại phúc lợi khác  Bồi thường của bảo hiểm  Thu nhập của viên chức ngoại giao được miễn trừ theo luật của Trung Quốc.  Thu nhập khác được chấp thuận (cho phép) theo quy định của Bộ tài Chính.  Thuế TNCN được nộp háng tháng, thu nhập 4.000 NDT đầu tiên được khấu trừ không tính thuế. Ngoài ra còn có mức khấu trừ riêng theo quy định với thu nhập của thương nhân, tác quyền… 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Như vậy nhìn chung thuế thu nhập cá nhân ở Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải tham khảo kinh nghiệm hoạch định chính sách, quản lý và thu thuế thu nhập cá nhân của Trung Quốc, vì so với các nước tham khảo thì Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện tương đồng với Việt Nam nhất trong giai đoạn hiện nay. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học CHƯƠNG 2 : TÌNH HÌNH THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO – CHUẨN BỊ ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN MỚI 2.1. Tình hình thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giai đoạn 2000 đến 2007 Số thu thuế thu nhập trong giai đoạn từ 2000 – 2007 (đơn vị : tr.đồng) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Số thu 784,169 888,108 1,028,143 1,315,861 1,597,052 1,875,938 2,229,000 3,379,288 (Nguồn: Cục thuế TP.HCM) BIỂU ĐỒ TÌNH HÌNH THU THUẾ TNC GIAI ĐOẠN 2000 - 2007 0 500,000 1,000,000 1,500,000 2,000,000 2,500,000 3,000,000 3,500,000 4,000,000 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 NĂM S Ố T H U Số thu Qua biểu đồ ta thấy kể từ năm 2000 cho đến năm 2007 tốc độ thu thuế TNC liên tục tăng qua các năm, đạt gấp nhiều lần, cao nhất vào năm 2007 đạt 3.379.288 bằng 4,31 lần so với năm 2000. So sánh cùng mức tăng của thu ngân sách năm 2007 với năm 2000 là 3,82 lần ta thấy tốc độ tăng của thu thuế TNC tương đương với tốc độ tăng thu nói chung. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Có được kết quả này là do nhiều nguyên nhân:  Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế càng ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp, giáo dục y tế... cũng ngày một gia tăng. Bên cạnh đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích lũy trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu NSNN. Vì vậy thuế TNC được chú ý phát triển để góp phần đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Chính phủ.  Ý thức nộp thuế của người dân dần được nâng cao (bảng số liệu bên dưới), điều đó cho thấy được phần nào nhận thức của đối tượng nộp thuế đối với việc nộp thuế.  Ngành thuế nói chung và Cục thuế TP.Hồ Chí Minh nói riêng thường xuyên theo dõi chặt chẽ các khoản thu, sắc thuế, tăng cường quản lý đối tượng, đôn đốc thu nộp, tận dụng các khoản thu…, trong những năm qua, ngành Thuế đã triển khai nhiều biện pháp tích cực, ráo riết hơn, đảm bảo tăng cường nguồn thu và chống thất thu thuế. Như khi mức tăng trưởng thu đạt thấp, lãnh đạo Tổng cục Thuế đã liên tục có công văn đôn đốc các đơn vị địa phương thực hiện nghiêm các biện pháp quản lý thu. Trong đó, yêu cầu tập trung giám sát tờ khai ngay từ đầu để kịp thời điều chỉnh số thu nộp vào ngân sách, không để đến cuối năm quyết toán mới xem xét, điều chỉnh như mọi năm. Bên cạnh đó là triển khai công tác thanh tra, kiểm tra với chất lượng cao hơn hẳn.  Các thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng và minh bạch giúp nâng cao trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người nộp thuế. Từ đây, Luật quy định rõ các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ khai thuế, hồ sơ miễn giảm thuế, hoàn thuế... để người nộp tự xác định được trách nhiệm của mình và tránh sự tùy tiện của công chức quản lý thuế trong khi thi hành công vụ.  Việc thu hút các dự án ODA, cơ hội đầu tư cũng như các quy định thủ tục đã có nhiều bước thay đổi đáng kể tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài không ngừng tăng lên về cả số lượng và chất lượng, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đã dẫn đến việc gia tăng thêm một số lượng lớn các cá nhân nước ngoài, người Việt Nam có thu nhập cao đóng góp vào tổng số thu của ngành thuế (tham khảo bảng bên dưới). 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Số thuế TNC của người nước ngoài và người Việt Nam qua các năm Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Người NN 376,195 391,819 544,408 741,589 882,130 1,152,953 1,442,431 2,022,414 Người VN 367,336 445,628 421,703 508,130 613,075 629,279 694,067 1,168,641 (Nguồn: Cục thuế TP.HCM) BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỐ THU THUẾ TNC ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI 0 500,000 1,000,000 1,500,000 2,000,000 2,500,000 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 NĂM S Ố T H U Người NN Người VN 2.2. Chuẩn bị áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân mới 2.2.1. Những mặt hạn chế về chính sách và biện pháp quản lý trong việc thực thi thuế TNC  Ý thức người dân về việc khai nộp thuế TNC: Qua số liệu kết quả thu thuế TNC ở phần trên, tuy số thu thuế có tăng chứng tỏ ý thức nộp thuế của người dân được nâng cao. Song, số đối tượng nộp thuế TNC hầu như được thu thông qua đơn vị ủy nhiệm thu là các doanh nghiệp chi trả cho người lao động, hoặc đơn vị ủy nhiệm thu là đơn vị quản lý. Việc ủy nhiệm thu được quy định trong Pháp 55 Đề tài nghiên cứu khoa học lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, mang tính chất bắt buộc các đơn vị có chi trả phải thực hiện. Đây là một biện pháp tốt để có kết quả thu trong các năm qua, nhưng cũng đồng thời cho thấy sự thiếu công bằng và bất hợp lý trong việc quy định các biện pháp hành thu của Pháp lệnh. Bởi lẽ chỉ những người làm công ăn lương trong các đơn vị được ủy nhiệm thu mới bị quản lý thu nhập và đóng thuế TNC, còn những đối tượng khác không nằm trong các đơn vị ủy nhiệm thu như trên thì bị bỏ sót, việc ủy nhiệm thu của ngành thuế cho các đơn vị có tính chất áp đặt, bắt buộc không có sự bàn bạc, góp ý từ đó dẫn đến sự thiếu nhiệt tình và trách nhiệm của các đơn vị được ngành thuế ủy nhiệm. Mặt khác, tiền hoa hồng cho các đơn vị được ủy nhiệm thu thuế, kê khai và quyết toán thuế TNC quá thấp cũng là yếu tố làm cho các đơn vị thiếu nhiệt tình. Điều quan trọng hơn, phải hiểu rằng nghĩa vụ thuế đối với xã hội là trách nhiệm của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, còn quản lý và thu thuế là trách nhiệm của các cơ quan chức năng mà trước hết là của ngành thuế, cho nên việc ủy nhiệm cho các đơn vị thu hộ chưa có chính sách khen thưởng, xử phạt một cách công minh thì không thể khuyến khích các đơn vị làm việc thay cho ngành thuế được. Hơn nữa, đây là một sắc thuế mới đã quen với các nước đã phát triển, nhưng rất mới mẻ với suy nghĩ, tập quán của người dân chúng ta; cho nên ý thức của người dân về việc kê khai nộp thuế chưa cao, chưa phải là niềm tự hào khi góp một phần thu nhập của mình vào ngân sách Nhà nước.  Về công tác quản lý: Về công tác quản lý, việc kết hợp các biện pháp và nỗ lực hiện nay của ngành thuế cũng chưa phải là hữu hiệu khi thực trạng hiện nay người lao động Việt Nam thường được trả thu nhập và tiêu dùng bằng tiền mặt (không sử dụng tài khoản ngân hàng) thì cơ quan thuế khó có thể kiểm soát và đối chiếu được thu nhập thực tế. Các cá nhân người nước ngoài làm việc tại các tổ chức kinh tế xã hội như tổ chức tư vấn, dạy học, công trường… và các cá nhân người Việt Nam làm việc ở nước ngoài hoặc hành nghề tự do trong nước như ca sĩ, luật sư môi giới… thì hầu như chưa thể quản lý được.  Về cơ sở pháp lý của chính sách TNC: Xét về mặt pháp lý, chính sách thuế TNC chưa thật sự vững chắc để thực thi trong một thời gian lâu dài ổn định. Pháp lệnh thuế TNC được ban hành 27/12/1990, có hiệu lực thi hành từ tháng 4/1991 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay vẫn còn hạn chế là không kiểm soát được thu nhập của thành phần có thu nhập cao và rất cao. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Thuế TNC chưa bao quát hết các nguồn thu và đối tượng thu, hầu như thuế TNC chỉ có thể kiểm soát được đối với nguồn thu nhập “chính đáng” từ tiền lương và những khoản thu không thường xuyên mà việc chi trả Nhà nước có thể kiểm soát được. Phạm vi thu nhập chịu thuế còn hẹp và không còn phù hợp trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Một số khoản thu nhập chưa phải chịu thuế TNC như thu nhập từ tín phiếu, lãi cổ phần, lãi tiền gởi ngân hàng, tiết kiệm, quà biếu, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản… nhằm khuyến khích mọi người tạo ra thu nhập, đảm bảo yêu cầu huy động vốn nhàn rỗi cho Nhà nước nhưng đồng thời làm mất nguồn thu quan trọng và không thực hiện được mục tiêu điều tiết thu nhập, đặc biệt những cá nhân có thu nhập lớn từ tài sản hoặc chuyển nhượng tài sản. Thu nhập có được từ các hộ kinh doanh cá thể đang chịu thuế TNDN chưa được chuyển qua chịu thuế TNCN vì nếu như cá nhân hoạt động kinh doanh thì lợi nhuận họ thu được cũng chính là thu nhập của họ như thế thay vì họ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là 28% trên tổng mức thu nhập của họ thì có thể chuyển sang chịu thuế TNCN, như vậy việc chuyển đổi này sẽ có lợi cho người dân hơn khi họ được trừ phần khởi điểm chịu thuế. Như vậy mặc dù đã có nhiều sự thay đối tích cực trong chính sách thuế thu nhập cá nhân, nhưng vẫn còn đó một số vướng mắc cần được giải quyết trong thời gian sắp tới để tiến tới xây dựng một chính sách thuế hoàn thiện, hợp lý, phù hợp với tiêu chí “Góp phần thực hiện công bằng xã hội”. 2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN Ban hành luật thuế TNCN là cần thiết để thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra: “Áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng xã hội và tạo động lực phát triển”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ…Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Triển khai các nghị quyết của Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra 55 Đề tài nghiên cứu khoa học yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực thu”. Ban hành luật thuế TNCN nhằm thực hiện công bằng xã hội, tăng cường kiểm tra, kiểm soát thu nhập và điều tiết, phân phối lại thu nhập, thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Khác với thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…) động viên thu nhập xã hội thông qua tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân, khác với thuế thu nhập doanh nghiệp điều tiết thu nhập của doanh nghiệp, thuế TNCN động viên một phần thu nhập của cá nhân, thể hiện nghĩa vụ cụ thể của công dân đối với đất nước. Công dân được hưởng những thành quả của đất nước: cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự,…thì đồng thời có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Thuế TNCN được xây dựng trên nguyên tắc “công bằng” và “khả năng nộp thuế”, được thể hiện: người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức nộp thuế cũng khác nhau. Thực hiện nộp thuế TNCN góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư. Chính vì vậy mà thuế TNCN đã được nhiều nước áp dụng từ rất sớm, ngay từ khi nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng chưa cao, điều kiện kiểm soát thu nhập còn hạn chế. Đến nay đã có trên 180 nước trên thế giới áp dụng loại thuế này. Ban hành luật thuế TNCN góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, việc động viên thu nhập của cá nhân vào ngân sách Nhà nước đang được thực hiện bởi 3 văn bản pháp luật thuế: thu nhập của cá nhân kinh doanh thực hiện theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập từ tiền lương, tiền công, trúng thưởng xổ số, chuyển giao công nghệ thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Việc thực hiện chính sách thuế như nói trên trong thời gian qua là tương đối phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách. 55 Đề tài nghiên cứu khoa học Trong những năm tới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được tiếp tục hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ (thị trường tài chính tiền tệ, thị trường vốn, chứng khoán, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ,…) tạo điều kiện cho các cá nhân có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau ngoài nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công (đầu tư vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư tài chính, chuyển nhượng vốn, chứng khoán,…). Đồng thời cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ có người Việt Nam mà người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống, có thu nhập tại Việt Nam cũng ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục áp dụng 3 loại thuế như hiện hành đối với thu nhập của cá nhân là không còn phù hợp:  Chưa đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế: cũng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì nộp thuế 28% trên tổng thu nhập; nhưng thu nhập từ tiền công; tiền công, tiền lương trên mức 5 triệu đồng/ tháng mới nộp thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần từ 10% đến 40%;  Nghĩa vụ thuế còn phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài (người Việt Nam nộp thuế cao hơn).  Chưa có chính sách thuế điều tiết thống nhất TNCN trong 1 văn bản pháp luật như thông lệ quốc tế. Do vậy, việc ban hành Luật thuế TNCN là để hoàn thiện một bước hệ thống chính sách thuế của nước ta, góp phần khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững. 2.2.3. Những điểm mới của Luật thuế TNCN so với chính sách thuế hiện đang áp dụng: Thuế TNCN có diện điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết cá nhân có thu nhập. Thu nhập chịu thuế rất đa dạng, bao gồm: thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như cho vay, tham gia mua cổ phần, góp vốn liên doanh; thu nhập từ chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; thu nhập về trúng thưởng, từ tiền bản quyền; thu nhập từ quà biếu, quà tặng, thừa kế. Do đặc điểm của thuế TNCN có tính đến khả năng của người nộp thuế, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội nên bên cạnh các loại thu nhập chịu thuế, luật thuế của nhiều nước có quy định cụ thể một số 55 Đề tài nghiên cứu khoa học khoản thu nhập không chịu thuế, một số khoản thu nhập được miễn thuế cùng với quy định về giảm trừ gia cảnh. Các nước châu Âu đã coi thuế TNCN là “Nữ hoàng”, ở Châu Á như Nhật Bản lại gọi thuế TNCN là “Vua” của các loại thuế. Sắc thuế này có vị trí quan trọng bậc nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trước hết, loại thuế này thường chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước như: thuế TNCN của Mỹ chiếm 56% tổng thu, Đức và Thụy Điển 45%, Anh 36%, Nhật 29%, Pháp 28%. Tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của một số nước châu á đang phát triển có thấp hơn như: Philippin 17%, Malaysia 15%, Thái Lan 13%. Thứ hai, cùng với khả năng huy động nguồn thu, thuế TNCN còn có chức năng quan trọng hơn, đó là điều tiết, phân phối lại thu nhập trong xã hội. Việc điều tiết được thiết kế phù hợp với khả năng đóng góp của cá nhân, trên cơ sở xem xét đến hoàn cảnh cụ thể của người nộp thuế: đảm bảo người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau, nhưng nếu có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn. Thứ ba, việc thiết kế biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với những thu nhập chủ yếu như thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công đảm bảo chính sách điều tiết được công bằng. Biểu thuế luỹ tiến từng phần được thiết kế theo mức độ tăng dần về thu nhập tính thuế và thuế suất, do đó số thuế phải nộp cũng luỹ tiến tă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh (3).pdf
Tài liệu liên quan