Đề tài Tình hình hoạt động tại Xí nghiệp thiết bị nâng

Theo phương pháp truyền thống, Xí nghiệp có thói quen là luôn luôn tìm cách cân bằng năng lực sản xuất cho các tổ ( tổ tạo phôi, tổ gò, tổ sơn) nhưng sự cân bằng này rất khó đạt được, vả lại mỗi nơi làm việc thường chịu những biến động khác nhau. Vì vậy, không cần thiết phải cân bằng năng lực sản xuất mà cũng chẳng cần thay đổi nó để đáp ứng sự biến động nhu cầu trên thị trường mà chỉ cần sử dụng chúng như thế nào để tạo ra “một dòng linh hoạt” phù hợp với yêu cầu của thị trường.

Nguyên tắc 2: Mức sử dụng nguồn rộng không phải do tiềm năng của nó quy định mà do các ràng buộc khác trong hệ thống.

 

doc72 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 683 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động tại Xí nghiệp thiết bị nâng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng di động theo vị trí đặt sản phẩm của các tổ gò. Tổ sơn cần tăng số lượng gia công thực hiện trong ngày. Khi tổ tạo phôi tăng năng lực sản xuất bằng năng lực sản xuất các tổ gò có thể thực hiện được thì tổ sơn sẽ trở thành nguồn thắt của Xí nghiệp. Để không làm tồn động sản phẩm, tổ sơn cần cố gắng tiến tới đạt được năng lực thực tế, đồng thời nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất qua đào tạo trình độ tay nghề công nhân, tuyển dụng thêm công nhân. 2.2 Sự cân đối của các bộ phận chính – phù trợ – phục vụ sản xuất: + Các bộ phận phù trợ: bộ phận điện, hơi, bộ phận cung cấp dụng cụ. Ba cán bộ kỹ thuật điện luôn đảm bảo yêu cầu về điện cho hoạt động sản xuất trong mọi hoàn cảnh. + Các bộ phận phục vụ sản xuất: Bộ phận kho tàng, lực lượng vận chuyển nội bộ và vận chuyển bên ngoài Xí nghiệp. Bộ phận phù trợ, phục vụ sản xuất luôn đảm bảo mọi yêu cầu của sản xuất. ⇨ Cuối mỗi tuần, Phó giám đốc sản xuất, Phó giám đốc kinh doanh kỹ thuật hiện trường và các tổ trưởng họp giao ban sản xuất. Xí nghiệp có hệ thống đánh giá sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận sản xuất qua 5 chỉ tiêu. Bảng 16: Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch ở các tổ sản xuất TT Các tổ Chỉ tiêu Tổng điểm Kế hoạch Chất lượng Nội quy quy định Vị trí làm việc Sử dụng vật tư Điểm chuẩn 20 30 10 5 5 70 1 Tổ tạo phôi 2 Tổ gò 1 3 Tổ gò 2 4 Tổ gò 3 5 Tổ sơn ( Nguồn: Số liệu phòng hành chính tổng hợp) Qua bảng đánh giá tổng hợp các tổ trưởng sẽ tiến hành tự đánh giá điểm cho tổ mình và sau đó trình lên các cuộc họp giao ban. Tại cuộc họp giao ban hàng tuần, nếu tổ nào có số điểm quá thấp sẽ ngay lập tức được điều chỉnh. Tại đây, mọi vấn đề tắc nghẽn trong quy trình tổ chức sản xuất sẽ được giải quyết một cách triệt để. Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch tại các tổ gò vào tuần cuối tháng 4 năm 2003 như sau: Bảng 17: Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch ở các tổ sản xuất một tuần cuối tháng 4 - 2003 Tt Các tổ Chỉ tiêu Tổng điểm Kế hoạch Chất lượng Nội quy quy định Vị trí làm việc Sử dụng vật tư Điểm chuẩn 20 30 10 5 5 70 1 Tổ tạo phôi 20 29 9 4 4 66 2 Tổ gò 1 20 30 10 5 5 70 3 Tổ gò 2 20 30 10 4 5 69 4 Tổ gò 3 20 28 9 5 5 67 5 Tổ sơn 20 28 10 5 5 68 ( Nguồn: Số liệu phòng Kỹ thuật – KCS) Có thể nói rằng, các tổ đều hoàn thành kế hoạch sản xuất. Tổ tạo phôi có số điểm ít nhất do vi phạm nhiều lỗi về nội quy quy định, vị trí làm việc chưa tốt, sử dụng vật tư chưa tiết kiệm. 3. Sự cân đối giữa các yếu tố sản xuất. Máy móc thiết bị, lao động, nguyên vật liệu là thành phần chính tạo ra sản phẩm của bất kỳ một quá trình tổ chức sản xuất nào. Sự cân đối các yếu tố sản xuất cũng quan trọng như sự cân đối năng lực sản xuất giữa các bộ phận sản xuất chính – phù trợ – phục vụ sản xuất. 3.1. Nguyên vật liệu. Xí nghiệp trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã được ký kết tổ chức mua sắm nguyên vật liệu theo % trên giá bán sản phẩm và khối lượng hàng tồn kho. Hệ thống hai kho Xí nghiệp rất quy củ, sạch sẽ. Theo phương pháp quản lý nguyên vật liệu Just In Time,kế toán, thủ kho và kỹ thuật hiện trường luôn luôn cố gắng đảm bảo cung cấp đủ số lượng nguyên vật liệu cho người công nhân theo kế hoạch Phó giám đốc kinh doanh vật tư. Phương pháp JIT là một phương pháp quản lý khoa học mà Xí nghiệp mới áp dụng trong vài năm gần đây, nhưng nó đã mang lại những hiệu quả nhất định. Bảng 17: Tổng hợp tình hình sử dụng nguyên vật liệu tại Xí nghiệp TT Tổ sản xuất Loại vật tư Số lượng cung ứng Thời gian cung ứng KH Thực tế KH Thực tế 1 Tổ tạo phôi Sắt – thép 5 T/ngày 3.5 T/ ngày 1 ngày 1 ngày 2 Tổ gò 1 Phôi 2 T/ngày 1.5 T/ngày 2 ngày 2 ngày 3 Tổ gò 2 Phôi 2 T/ngày 1 T/ngày 2 ngày 2 ngày 4 Tổ gò 3 Phôi 1 T/ngày 0.5 T/ngày 2 ngày 2 ngày 5 Tổ sơn Bán thành phẩm 4 T/ngày 3 T/ngày 3 ngày 3 ngày ( Nguồn: số liệu phòng Tài chính – Kế toán ) Qua bảng trên ta thấy thời gian cung ứng vật tư của xí nghiệp thực hiện khá tốt và hiệu quả. Thời gian cung ứng hợp lý, đúng thời điểm tạo điều kiện các tổ đều hoàn thành tốt kế hoạch. Tuy nhiên, số lượng nguyên vật liệu cung cấp còn nhiều hạn chế. Tại sao việc không hoàn thành kế hoạch cung cấp số lượng nguyên vật liệu lại xảy ra trên tất cả các tổ? Điều này có thể giải thích bằng năng lực sản xuất giữa các tổ, tổ tạo phôi là trung tâm cấp phát nguyên vật liệu cho ba tổ gò tiến hành gia công, tổ sơn nhận bán thành phẩm từ ba tổ gò. Do tổ tạo phôi chỉ có thể sản xuất 3 T/ ngày nên 3 tổ gò cũng chỉ có thể gia công 3 T/ngày (khi thực tế có thể tiến hành 5T/ngày), dẫn đến tổ sơn cũng chỉ có thể gia công 3 T/ ngày ( khi thực tế có thể tiến hành 4 T/ngày). Tổ tạo phôi không những yếu kém về năng lực sản xuất mà còn yếu kém trong tiết kiệm nguyên vật liệu (trong 1 ngày tổ tạo phôi lãng phí của Xí nghiệp 0.5 tấn thép) điều này dẫn đến sự yếu kém của toàn bộ hệ thống sản xuất Xí nghiệp. 3.2 Máy móc thiết bị. Quản lý sản xuất theo quy trình công nghệ giúp xí nghiệp tận dụng triệt để mọi nguồn lực của máy móc thiết bị. Mỗi một người công nhân gò sẽ được trang bị những dụng cụ làm việc: + Khoan cầm tay. + Mài cầm tay. + Máy làm sạch cầm tay. + Mặt nạ an toàn. * Tổ tạo phôi có trách nhiệm quản lý một máy cắt thép cố định và mỗi người công nhân tạo phôi được trang bị thêm: + Máy cắt thép di động. + Mặt nạ an toàn. * Mỗi thành viên trong tổ sơn quản lý: + Máy làm sạch cầm tay. + Thiết bị phun sơn. Có thể nói rằng xí nghiệp thiết bị nâng đã trang bị máy móc thiết bị khá toàn diện cho mỗi công nhân sản xuất. 3.3. Lao động: Bảng 18: Cơ cấu lao động tại các tổ năm 2002 thị trường Chỉ tiêu Bộ phận sản xuất chính Tổ tạo phôi Tổ gò 1 Tổ gò 2 Tổ gò 3 Tổ sơn 1 Tổng lao động 5 19 22 13 4 2 Theo giới tính + Nam 5 19 22 13 2 + Nữ 0 0 0 0 2 3 Theo cấp bậc + Bậc 7/7 0 2 2 1 0 + Bậc 6/7 2 3 5 2 1 + Bậc 5/7 2 6 6 4 2 + Bậc 4/7 1 4 3 3 1 + Bậc 3/7 0 3 4 2 0 + Bậc 2/7 0 1 2 1 0 + Bậc 1/7 0 0 0 0 0 (Nguồn: Số liệu phòng Hành chính tổng hợp) Số lao động bố trí tại các tổ phù hợp với nhiệm vụ của từng bộ phận sản xuất. Các công nhân có tay nghề cao đều được sắp xếp tại các nơi làm việc cần trình độ tay nghề như tại các tổ gò 1, 2, 3. Điều này chứng tỏ ban lãnh đạo Xí nghiệp đã có một sự quan tâm nhất định đến sự cân đối lực lượng lao động. Việc phân công bố trí sắp xếp công nhân một cách hợp lý giúp các tổ luôn hoàn thành kế hoạch. ⇨ Có thể nói rằng, các yếu tố sản xuất dưới sự quản lý của ban lãnh đạo xí nghiệp đã phối hợp khá tốt và đồng bộ. Tuy nhiên, để có thể tổ chức sản xuất tốt hơn cần nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên, trang bị thêm thiết bị cắt thép bằng máy tính và quản lý nguyên vật liệu theo mô hình JIT cần được hoàn chỉnh. 4. Phân tích công tác tổ chức lao động. 4.1 Phân công bố trí làm việc. Trong quá trình phân tích sự cân đối các yếu tố sản xuất, chúng ta đã nhận thấy lực lượng lao động được phân công theo cấp bậc kỹ thuật công việc và theo nhiệm vụ sản xuất của mỗi tổ. 4.1.1 Tổ tạo phôi: gồm 5 người, toàn bộ là nam. Với quá trình sản xuất bằng một máy cắt thép vầ bằng tay, tổ sơn được bố trí như sau: - 2 người điều khiển máy cắt thép cố định. - 2 người điều khiển máy cắt thép cầm tay. - 1 người điều khiển thiết bị nâng hạ. Đây là cách sắp xếp hợp lý trong điều kiện hiện tại của xí nghiệp. Nếu xí nghiệp được trang bị thêm hệ thống điều khiển cắt thép bằng máy vi tính thì có thể giảm bớt 2 lao động sang làm ở vị trí khác - 2 người điều khiển hệ thống cắt thép bằng máy vi tính. - 1 người điều khiển thiết bị nâng hạ. 4.1.2 Các tổ gò: toàn bộ đều là nam giới. Tổ 1: 19 người; Tổ 2: 22 người; Tổ 3: 13 người. Trước khi tiến hành bàn giao, nghiệm thu sản phẩm hoàn chỉnh các tổ trưởng tổ gò phải phân công bố trí lao động sao cho đảm bảo 2 nhiệm vụ: - Một số công nhân tiến hành gia công từng phần sản phẩm. - Một số công nhân tiến hành lắp ráp sản phẩm tại hiện trường. Vì vậy số lượng công nhân trong mỗi tổ cũng sẽ biến động theo đơn đặt hàng trước và đơn đặt hàng đang sản xuất. Thông thường, số người lắp ráp tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp về kỹ thuật của đơn hàng. Việc phân công bố trí làm việc tại các tổ gò được các tổ trưởng tiến hành theo kinh nghiệm, theo trình độ lành nghề của từng công nhân đối với từng công việc. Do đó chưa quán triệt nguyên tắc tổng thời gian thực hiện công việc là ngắn nhất, Xí nghiệp cần quan tâm nâng cao trình độ phân công lao động của các tổ trưởng qua giáo dục, đào tạo, hướng dẫn. 4.1.3 Tổ sơn: gồm 4 người: 2 nam và 2 nữ. Do tổ sơn thực hiện chuyên môn hoá cao, mỗi công nhân đều có một trình độ lành nghề nhất định. Phân công bố trí lao động thực hiện công việc theo nguyên tắc thời hạn hoàn thành sớm nhất. Tổ trưởng tổ sơn sẽ liên hệ với các tổ trưởng tổ gò để xác định lịch làm việc cho các thành viên trong tổ mình, nhận các văn bản yêu cầu kỹ thuật sơn từ kỹ thuật hiện trường và Phó giám đốc sản xuất. Các công nhân tổ sơn hoạt động, làm việc di động theo vị trí nơi đặt thành phẩm đã được gia công từ các tổ gò. 4.2 Phân công ca làm việc. Do tính chất công việc cơ khí: tiếng ồn, bụi công nghiệp sẽ làm căng thẳng đầu óc, giảm sức khoẻ nếu làm việc liên tục theo giờ hành chính. + Sáng: 7 giờ 45 đến 12 giờ. + Chiều: 12 giờ 45 đến 4 giờ 30. Ban lãnh đạo quyết định tổ chức làm việc có nghỉ giữa giờ, giúp công nhân có thể phục hồi sức lực, Xí nghiệp tổ chức ca làm việc như sau: + Sáng: 7 giờ 45 đến 10 giờ, 10 giờ 15 đến 12 giờ. + Chiều: 12 giờ 45 đến 2 giờ và 2 giờ 15 đến 4 giờ 30. Quá trình tổ chức ca làm việc như trên đã đem lại nhiều niềm vui và sự thoải mái cho người công nhân. Đây cũng là một tiến bộ của ban lãnh đạo xí nghiệp khi nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động. 4.3 Tổ chức các hoạt động cho người lao động. Cán bộ xí nghiệp chưa được quan tâm đúng mức đến tổ chức các hoạt động cho người lao động. Ban lãnh đạo chủ yếu chỉ chú trọng nhiều đến kỹ thuật, lấy đó làm điều kiện quyết định tăng năng suất lao động, ít chú ý đến tìm các biện pháp kỹ thuật để giảm nhẹ hiện tượng quá tải trong công việc có hại cho sức khoẻ. 4.3.1. Tổ chức nơi làm việc: * Xí nghiệp đã đạt được thành tích sau: + Tại các tổ đều có các thiết bị quạt vừa để chống nóng, vừa để định hướng bụi công nghiệp. + Có 4 phòng quản lý trên tầng 2, bên dưới tầng 1 là nhà kho, luôn cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu khi cần thiết. + Có 01 trạm phát điện riêng, phục vụ cho sản xuất liên tục ngay trong trường hợp xấu nhất. Bên cạnh đó, Xí nghiệp còn có 3 kỹ sư điện vừa đảm bảo điện cho sản xuất, vừa để sửa chữa máy móc thiết bị, đặt biệt là máy cắt phôi. * Hạn chế: Bên cạnh thành tích trên, ban lãnh đạo cần quan tâm đến những hạn chế còn tồn tại: + Trang thiết bị lạc hậu dẫn đến người công nhân dễ bị hao phí về thời gian, sức lực vì hàng loạt công việc phụ. + Việc sắp xếp bố trí mặt bằng chưa hợp lý nên chưa rút ngắn thời gian gia công sản phẩm, năng suất lao động còn thấp. + Trạng thái tâm lý căng thẳng do thiếu tín hiệu thông tin phòng ngừa tai nạn, cũng như trang bị bảo hộ lao động. + Chưa có biện pháp phòng chống tiếng ồn của máy móc dẫn đến tác hại bệnh nghề nghiệp. + Thiết bị nối dây điện giữa các nơi sản xuất chưa bố trí thật tốt. Dây nối điện còn dài và tiếp xúc trực tiếp xuống nền nhà, nguyên liệu; không đảm bảo an toàn lao động, do đó xí nghiệp cần xem xét lại. 4.3.2. Tổ chức nơi nghỉ ca giữa giờ cho công nhân sản xuất. + Nơi làm việc có 3 chỗ phục vụ cho công nhân nghỉ ca giữa giờ làm việc - Tổ gò 1 và tổ tạo phôi có chung một nơi phục vụ làm việc. - Tổ gò 2 và tổ gò 3 có nơi phục vụ làm việc riêng. Các nơi nghỉ ca giữa giờ được bố trí ngay tại nơi làm việc, rất tiện lợi cho công nhân khi cần nghỉ ngơi sau quá trình sản xuất căng thẳng, kéo dài. Tại các nơi này đều có đầy đủ nước, quạt phục vụ kịp thời; tạo mối đoàn kết chặt chẽ giữa những người công nhân và sự tin tưởng, gắn bó của họ với xí nghiệp. 4.3.3. Tổ chức nơi phục vụ công nhân sản xuất. + Căng tin (nơi phục vụ ăn uống) của xí nghiệp đồng thời là căng tin của công ty. Nơi này có diện tích rộng, bố trí ngay gần xưởng tạo điều kiện thuận lợi cho người công nhân được ăn uống đầy đủ, tận dụng triệt để thời gian nghỉ trưa giữa hai ca làm việc sáng và chiều + Về tổ chức y tế của xí nghiệp cũng chính là tổ chức y tế của công ty. Vì vậy việc chăm sóc sức khoẻ của người công nhân luôn đảm bảo. + Nơi phục vụ các hoạt động cá nhân: tắm, rửa tay chân, WC... Xí nghiệp chưa phục vụ thật tốt. Nơi để tắm rửa còn rất bẩn. Số lượng nam giới tiến hành sản xuất là chủ yếu nên ý thức tự giữ gìn vệ sinh nơi phục vụ sinh hoạt cho mình còn nhiều hạn chế. Xí nghiệp có 3 công nhân chuyên về công tác vệ sinh công cộng nhưng hoạt động chưa thật sự có hiệu quả. + Nơi nghỉ trưa của công nhân xí nghiệp chưa có. + Tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho người lao động, Xí nghiệp chỉ tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, tham quan nghỉ phép theo quy định pháp luật lao động về các ngày lễ và chương trình hoạt động của công ty. Ngoài ra xí nghiệp không hề tổ chức các hoạt động ngoại khoá khác. B. Tổ chức về mặt thời gian: Để tiến hành sản xuất, ban lãnh đạo phải lập quy trình công nghệ một cách tỉ mỉ cho từng chi tiết sản phẩm. Công việc sẽ giao cụ thể cho từng nơi làm việc phù hợp với kế hoạch - tiến độ; trên cơ sở các tài liệu kỹ thuật như bản vẽ. Kiểm soát quá trình sản xuất yêu cầu hết sức chặt chẽ đối với các nơi làm việc, khả năng hoàn thành từng đơn hàng. Chu kỳ sản xuất sẽ làm cở sở cho việc dự tính thời gian thực hiện các đơn hàng, lập kế hoach tiến độ. Chu kỳ sản xuất biển hiện trình độ kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất của Xí nghiệp. Khi chu kỳ sản xuất càng ngắn, nó càng biểu hiện trình độ sử dụng hiệu quả các máy móc thiết bị, diện tích sản xuất. Chu kỳ sản xuất ảnh hưởng đến nhu cầu vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Trong quá trình cạnh tranh nhiều biến động, xí nghiệp đang tìm mọi biện pháp rút ngắn chu kỳ sản xuất. 1.Kết cấu chu kỳ sản xuất Cổng trục và cầu trục là hai sản phẩm truyền thống của xí nghiệp. Xí nghiệp đang đặt mục tiêu trở thành doanh nghiệp lắp đặt thiết bị nâng lớn nhất, có uy tín nhất trên thị trường Miền Bắc. Do tầm quan trọng của hai loại sản phẩm trong hoàn thiện tổ chức sản xuất tại Xí nghiệp Thiết bị nâng, ta sẽ đi sâu nghiên cứu chu kỳ sản xuất các sản phẩm này và các nhân tố ảnh hưởng đến rút ngắn thời gian công nghệ. Kết cấu chu kỳ sản xuất thiết bị gồm: + Thời gian hoàn thành các bước công việc theo quá trình công nghệ + Thời gian kiểm tra kỹ thuật. + Thời gian tự nhiên tác động vào đối tượng lao động. + Thời gian gián đọan do sản phẩm dở dang ngừng vận động, dừng làm việc tại nơi làm việc 2- Các yếu tố ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất sản phẩm + Trình độ cơ giới hoá, tự động hoá nâng cao sẽ giảm thời gian gia công gia côngchế tạo sản phẩm, rút ngắn thời gian công nghệ. + Bố trí mặt bằng hợp lý làm giảm thời gian vận chuyển nguyên vật liệu từ kho hoặc tổ tạo phôi đến các nơi làm việc, hạn chế thời gian gián đoạn do sản phẩm dở dang ngừng vận động, dừng làm việc. + Trình độ quản lý của cán bộ lãnh đạo quyết định năng lực sản xuất, thời gian sản xuất toàn bộ hệ thống. + Khả năng, thời gian cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất sẽ ảnh hưởng hoàn thành kế hoạch các bộ phận sản xuất chính. + Phân công lao động trong các tổ sản xuất quyết định tổng thời gian hoàn thành các bước công việc dài hay ngắn. 3. Phương thức phối hợp các bước công việc: Tại xí nghiệp áp dụng phương thức hỗn hợp hay còn gọi là phương thức song song tuần tự. Theo phương thức này, khi chuyển đối tượng đối tượng lao động từ bước công việc trước sang công việc sau mà thời gian bằng nhau hoặc thời gian bước công việc trước ngắn hơn bước công việc sau thì chuyển từng cái một (tức là theo phương thức song song). Trái lại, khi thời gian bước công việc trước dài hơn bước công việc sau thì chuyển theo cả đợt (tức là theo phương thức tuần tự). áp dụng phương thức này sẽ loại trừ được những trường hợp thiết bị, máy móc và công nhân phải tạm ngừng sản xuất để chờ đợi đối tượng lao động, nhờ đó tận dụng được thời gian chưa sản xuất loại chi tiết này để sản xuất chi tiết khác. Thời gian quá trình công nghiệp theo phương thức này tuy dài hơn thời gian quá trình công nghiệp theo phương thức song song nhưng lại ngắn hơn thời gian quá trình công nghiệp theo phương thức tuần tự. 4. Lịch trình sản xuất tại Xí nghiệp Theo quy trình lập kế hoạch, tổ chức sản xuất đã trình bày ở trên, việc lập lịch trình sản xuất sẽ do Phó giám đốc Xí nghiệp sản xuất trực tiếp làm dựa trên các hợp đồng kinh tế ký kết. Theo bảng này sản phẩm sẽ được giao cho các tổ làm việc. Tổ làm việc sau sẽ nhận nguyên công của tổ làm việc trước. * Ưu điểm: + Kết hợp được cả lịch trình sản xuất và phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm. Việc này có thể làm giảm sự nhầm lẫn giữa thực hiện và kiểm tra sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi khi đánh giá mức độ hiệu quả sản xuất của các tổ qua phiếu này. + Nội dung nêu rõ thời gian thực hiện, người thực hiện đây là những nội dung chính của một lịch trình sản xuất. Nhờ các nội dung này, trách nhiệm của các tổ sẽ rõ ràng. Ban quản lý Xí nghiệp có thể theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đơn hàng một cách tốt nhất. Bảng 21: Phiếu giao việc kiêm phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập kho Xí nghiệp thiết bị nâng Tổ sản xuất: Phiếu giao việc kiêm phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập kho Trích lệnh: Số: Tên sản phẩm: . Người thực hiện: Nội dung sản xuất: Thời gian thực hiện từ ngày: đến ngày .. Tt Tên chi tiết sản phẩm Ký hiệu bản vẽ Phần giao Phần thực hiện S.lượng Đơn giá Do KCS ghi Do LĐ TL Ghi thành tiền SL đạt SL và % đạt 1 2 3 4 5 KCS Thủ kho Lao động tiền lương Ngàythángnăm.. Giám đốc Xí nghiệp * Nhược điểm: Bên cạnh ưu điểm mà bảng phân công, phân giao công việc đem lại, còn có những hạn chế sau: + Chính sự kết hợp giữa lịch sản xuất và phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm mà không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của một phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm. Phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm phải nêu bật được sự sai phạm kỹ thuật xảy ra ở đâu ? Tại nguyên công nào ? Mức độ tác hại của sai phạm ? Tuy nhiên phiếu này chỉ có thể đánh giá được mức độ đảm bảo chất lượng của tổ thực hiện nguyên công chế tạo sản phẩm. + Nội dung của bản còn chưa nói rõ yêu cầu định mức nguyên vật liệu. Chính yêu cầu này sẽ giúp các tổ làm việc có hiệu quả kinh tế hơn, tiết kiệm nguyên vật liệu. + Bảng lịch trình sản xuất phần nào thể hiện tổ chức sản xuất của Xí nghiệp về mặt thời gian khá tốt. Ban lãnh đạo xuất phất từ các phiếu giao việc kiêm phiếu kiểm tra chất lượng sản phẩm để bố trí sắp xếp công việc giữa các tổ một cách liên tục. IV. Kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. (Kết quả sản xuất kinh doanh thể hiện trên bảng 22) Các chỉ tiêu đánh giá trên cho biết Xí nghiệp hoạt động có hiệu quả không? Kết quả các chỉ tiêu này sẽ càng tốt nếu giá trị càng cao. So sánh 3 năm ta thấy, năm 2001 Xí nghiệp đã hoạt động thực sự hiệu quả khi Công ty bắt đầu tiến hành cổ phần hoá. Năm 2002 các chỉ tiêu đều cho thấy hiệu quả hoạt động Xí nghiệp có kém đi. Tuy nhiên mức độ chệnh lệch là rất nhỏ, vì vậy ban quản lý cần phải xem xét lại bộ máy hoạt động cả về tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh kết quả quá trình tổ chức sản xuất, đồng thời nó cũng tác động trở lại để tổ chức và tổ chức lại sản xuất đạt tốt hơn. Khi Xí nghiệp kinh doanh có nhiều lãi dẫn đến lợi nhuận cao sẽ trang bị thêm máy móc thiết bị cho sản xuất; hoàn thiện tổ chức sản xuất, bộ máy quản lý. V. Đánh giá và nhận xét. Phân tích thực trạng Xí nghiệp cho chúng ta một cái nhìn toàn cảnh về những tích cực và hạn chế của tổ chức sản xuất. Trên cơ sở nhận xét này đề ra phương hướng biện pháp hoàn thiện sản xuất trong thời gian tới. 1. Những mặt tích cực về tổ chức sản xuất tại Xí nghiệp 1.1. Tổ chức về mặt không gian: + Cơ cấu sản xuất và hình thức xây dựng các bộ phận: Phân loại theo tổ chức sản xuất thì cơ cấu sản xuất của Xí nghiệp là hình thức tổ chức hàng loạt mhỏ. Việc xây dựng các bộ phận sản xuất thành các tổ làm việc theo nhóm công nghệ tạo nhiều thuận lợi trong việc phân giao công việc và hoạch toán mức độ hoàn thành kế hoạch. + Bố trí mặt bằng sản xuất: Giữa các nơi làm việc có một sự phân chia vị trí nhất định, tại mỗi nơi được bố trí các máy chuyên dụng (thiết bị nâng hạ) riêng. Chính nhờ sự sắp xếp này tạo nhiều thuận lợi cho cán bộ kiểm tra giám sát quá trình thực hiện công việc, chấp hành nội quy kỷ luật người công nhân. + Sự cân đối năng lực sản xuất các bộ phận sản xuất: các bộ phận chính - phù trợ – phục vụ luôn luôn phối hợp cùng nhau trong việc chế tạo sản phẩm. Sự hoàn thành kế hoạch của bộ phận này sẽ là sự hoàn thành kế hoạch của bộ phận khác. Nhìn chung các bộ phận này hoạt động khá thống nhất, có sự ràng buộc nhau một cách rõ nét. + Sự cân đối của các yếu tố sản xuất: lao động bố trí khá đều giữa các tổ và khá tương ứng với mức độ công việc từng bộ phận sản xuất. Người công nhân được trang bị đầy đủ thiết bị khi làm việc. Bên cạnh đó quản lý nguyên vật liệu được tổ chức một cách quy củ, phục vụ kịp thời yêu cầu sản xuất. + Quá trình tổ chức lao động: - Ban lãnh đạo Xí nghiệp đã có một sự quan tâm nhất định đến người lao động thông qua chính sách nghỉ ca giữa giờ làm việc sáng và chiều, vị trí nơi phục vụ làm việc bố trí tương đối phù hợp. - Xí nghiệp có hệ thống căng tin chung với hệ thống căng tin chung của Công ty nên rất sạch sẽ thoáng mát. Thức ăn đảm bảo chất lượng, hợp khẩu vị. Phòng căng tin là nơi công nhân nghỉ ngơi phục hồi sức lực nên nó đóng vai trò rất quan trọng. Tổ chức lao động tại Xí nghiệp đã đạt được một số thành tích nhất định. 1.2. Tổ chức sản xuất về mặt thời gian Phương thức sản xuất tuần tự vừa phù hợp với loại hình sản xuất, vừa rút ngắn chu kỳ sản xuất. Quá trình chế tạo sản phẩm gần diễn ra một cách tương ứng với tên gọi các tổ (tổ tạo phôi - các tổ gò - tổ sơn) tạo điều kiện tổ chức sản xuất được phối hợp đều đặn. Thời gian sản xuất được xí nghiệp tiến hành đo đạc một cách chính xác, cụ thể; điều này tạo lợi thế rất lớn khi phân giao công việc, tính đơn giá công việc và lập lịch trình sản xuất. 1.3. Kết quả sản xuất kinh doanh Mặc dù mới đi vào hoạt động 2 năm nhưng Xí nghiệp đã xây dựng được lòng tin từ phía bạn hàng, tạo lập được một chỗ đứng tương đối trên thị trường và đã gặt hái nhiều lợi nhuận. Với kết quả sản xuất kinh doanh này ban lãnh đạo sẽ không gặp nhiều khó khăn trong huy động vốn cổ đông hay xin giấy phép đầu tư của Công ty nhằm nâng cao quá trình cơ giới hoá - tự động hoá, hoàn thiện tổ chức sản xuất. 2. Những mặt hạn chế: Bên cạnh những mặt tích cực mà Xí nghiệp đã đạt được tổ chức sản xuất còn những hạn chế sau: 2.1. Tổ chức sản xuất về không gian + Bố trí mặt bằng sản xuất: Xí nghiệp sắp xếp vị trí các nơi làm việc chưa thật hợp lý. Quãng đường vận chuyển nguyên vật liệu còn lớn; cùng với việc tổ gò 2 còn phải hoạt động ngoài trời là việc sắp xếp phôi tại tổ phôi còn lộn xộn. Trong xí nghiệp, hành lang làm việc hầu như không có. + Kiến trúc không gian: Không gian của Xí nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế bất cập; chưa có bản tin hướng dẫn sử dụng an toàn máy móc thiết bị, hệ thống tuyên truyền thông tin vẫn còn yếu kém. Bên cạnh đó chưa có thiết bị chống bụi, chống ồn cho người lao động. +Sự cân đối năng lực sản xuất giữa các bộ phận sản xuất: - Các bộ phận sản xuất chính phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của tổ tạo phôi. Tổ tạo phôi cắt phôi thủ công, việc cắt phôi do đo đạc bằng tay sẽ dẫn đến tỷ lệ sai sót có thể lớn, không thể tiết kiệm nguyên vật liệu do thừa đầu mẩu, mảnh vụn và rất tốn kém về mặt thời gian dẫn đến kéo dài chu kỳ sản xuất, giảm năng suất lao động. Tổ tạo phôi là một nguồn thắt của xí nghiệp. Khi tổ tạo phôi chưa tiến hành các biện pháp nâng cao năng lực sản xuất thì các tổ khác không thể phất huy hết năng lực sản xuất của mình. Số lượng phôi mà tổ tạo phôi cắt được sẽ quyết định khối lượng xí nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, bên cạnh nâng cao năng lực sản xuất là tiến hành tiết kiệm nguyên vật liệu tại tổ tạo phôi sẽ làm giá thành sản xuất giảm, rút ngắn chu kỳ sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao. Để làm được điều này, ban lãnh đạo xí nghiệp cần nhanh chóng huy động vốn, đầu tư hệ thống máy vi tính cắt phôi tự động. - Bộ phận phục vụ điện cho sản xuất tồn tại tình trạng kéo dây nối từ ổ đến nơi làm việc dài, tiếp xúc trực tiếp trên sàn không bảo đảm an toàn lao động. + Sự cân đối các yếu tố sản xuất: Trang bị – máy móc: Các thiết bị vạn năng trang bị cho người công nhân khá tốt và đầy đủ. Tuy nhiên quá trình cơ khí hoá - tự động hoá cần nâng cao hơn nữa. Thể hiện qua trang bị máy cắt phôi bằng máy vi tính, thiết bị chống ồn và thiết bị vệ sinh bụi khí độc hại công nghiệp. + Tổ chức các hoạt động cho người lao động: - Chưa thực sự quan tâm đến tổ chức nơi làm việc cho công nhân, thể hiện thiếu tín hiệu an toàn lao động, trang thiết bị bảo hộ lao động tránh độc hại, tiếng ồn. - Chưa có hệ thống công trình vệ sinh sạch sẽ, hợ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1972.doc
Tài liệu liên quan