Đề tài Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam

CHƯƠNG 1 - ĐĂC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỔ CHỨC LƯU

 THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ

 TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1

1-/ TỔ CHỨC LƯU THÔNG TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ

 THỊ TRƯỜNG. 1

1.1-/ Lưu thông và vị trí của lưu thông trong nền kinh tế quốc dân 1

1.2-/ Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch tập trung 7

1.3-/ Kinh tế thị trường và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất. 12

1.3.1. Kinh tế thị trường và vai trò của lưu thông. 12

1.3.2. Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường 16

1.3.3. Yêu cầu của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị

 trường 20

1.3.4. Nhà nước và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất tư liệu sản xuất trong nền

 kinh tế thị trường 23

2-/ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ

 CƠ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 27

2.1-/ Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở việt nam và vai trò của phân

 bón vô cơ 27

2.2-/ Vai trò của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ có hiệu quả trên thị

 trường Việt nam 31

2.2.1. Phát triển nông nghiệp- mục tiêu mũi nhọn của nền kinh tế việt nam 32

2.2.2. Ổn định thị trường phân bón vô cơ trong nước và đảm bảo có hiệu quả quá

 trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng phân bón vô cơ ở Việt nam 35

2.2.3. Đối với Nhà nước. 36

2.2.4. Đối với xã hội và môi trường 36

2.3-/ Các nội dung cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trên thị

 trường ở Việt nam 37

2.3.1. Hệ thống các quan điểm về tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam 37

2.3.2. Phân bón vô cơ- đối tượng quản lý và điều tiết của nhà nước. 38

2.3.3. Phân định hệ thống các cơ quan kinh doanh doanh phân bón vô cơ ở Việt

 nam 42

2.3.4. Lựa chọn và sử dụng các công cụ tổ chức lưu thông phân bón vô vơ trên

 thị trường Việt nam 49

2.3.4.1./ Chương trình có mục tiêu phát triển thương mại của nhà nước. 50

2.3.4.2/ Một số công cụ, biện pháp chủ yếu được nhà nước sử dụng để quản lý

 và điều tiết lưu thông hàng hoá và phân bón vô cơ. 57

3-/ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN

 VÔ CƠ 78

3.1-/ Đài Loan: 78

3.2-/ Thái Lan. 80

3.3-/ Inđônêsia 81

3.4-/ Ấn Độ. 81

3.5-/ Bangladesh. 82

3.6-/ Miến Điện. 82

3.7-/ Trung Quốc. 82

3.8-/ Nhật Bản. 83

3.9-/ Malaysia. 84

3.10-/ Nepal. 85

3.11-/ Pakistan. 86

CHƯƠNG 2 - NGHIÊN CỨU, PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LƯU THÔNG

 PHÂN BÓN VÔ CƠ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 87

1-/ TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM-CÁC GIAI

 ĐOẠN PHÁT TRIỂN 87

1.1-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch

 hoá tập trung 87

1.1.1. Lưu thông phân bón vô cơ- một bộ phân của hệ thống cung ứng vật tư kỹ

 thuật của nền kinh tế quốc dân 87

1.1.2. Màng lưới cung ứng phân bón vô cơ trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung 90

1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ

 kế hoạch hoá tập trung. 91

1.2-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trong giai đoạn chuyển sang cơ

 chế thị trường(1990-1999) 95

1.2.1. Quan điểm của nhà nước về tổ chức quản lý lưu thông phân bón vô cơ

 trên thị trường ở Việt nam 95

1.2.2. Hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực lưu thông

 phân bón vô cơ 96

1.2.3. Hệ thống cung ứng phân bón vô cơ thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế 100

1.2.4. Các chính sách và công cụ quản lý, điều tiết lưu thông phân bón vô cơ

 của Nhà nước (1990-1999) 100

 1.2.4.1 Phân phối, giá cả, kế hoạch hoá 100

 1.2.4.2./ Các chính sách khác: 101

2-/ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT

 NAM TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN SANG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

 (1990-1999) 106

2.1-/ Cầu phân bón vô cơ trên thị trường Việt nam và xu hướng vận động 106

2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu phân bón vô cơ 106

2.1.2. Dự báo nhu cầu thị trường về phân bón vô cơ 110

2.2-/ Cung phân bón vô cơ trên thị trường và xu hướng vận động 113

2.2.1. Các doanh nghiệp sản xuất phân bón vô cơ trong nước và xu hướng

 phát triển 113

2.2.2. Phân tích nhập khẩu phân bón vô cơ và xu hướng nhập khẩu 128

2.3-/ Giá cả phân bón vô cơ trên thị trường việt nam và xu hướng vận động 144

2.3.1 Tình hình chung: 144

2.3.2. Nguyên nhân 152

2.4-/ Cạnh tranh và xu hướng vận động 154

3-/ KẾT LUẬN VỀ TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT

 NAM HIỆN NAY 155

CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM

 HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN

 BÓN VÔ CƠ Ỏ VIỆT NAM HIỆN NAY 157

1-/ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA CHO

 VIỆC TỔ CHỨC LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM 157

2-/ NHU CẦU PHÂN BÓN CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI. 159

3-/ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ ỔN ĐỊNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ KINH

 DOANH PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở VIỆT NAM 161

3.1-/ Vấn đề tổ chức sản xuất phân bón trong nước. 161

3.2-/ Vấn đề nhập khẩu phân bón: 164

3.3-/ Vấn đề tổ chức thị trường phân bón trong nước. 166

4-/ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH PHÂN

 BÓN VÔ CƠ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 167

4.1-/ Hoàn thiện hệ thống chiến lược: 167

4.2-/ Hoàn thiện kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh

 phân bón vô cơ: 168

4.3-/ Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường. 168

4.4-/ Hoàn thiện cơ cấu tổ chức. 171

4.5-/ Hoàn thiện công tác tạo nguồn thu mua hàng hoá . 172

4.6-/ Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu. 175

4.7-/ Hoàn thiện mạng lưới tiêu thụ hàng hoá: 178

4.8-/ Hoàn thiện hoạt động dự trữ của các doanh nghiệp kinh doanh phân

 bón vô cơ. 180

4.9-/ Giải pháp nhằm tự tạo một phần vốn ngoại tệ: 181

4.10-/ Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu kinh doanh: 181

4.11-/ Hoàn thiện hệ thống thông tin và điều hành kinh doanh. 183

5-/ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH

 ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC VỚI LƯU THÔNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở

 VIỆT NAM 185

KẾT LUẬN 193

 

doc196 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng, hoạt động thông qua các cơ quan Nhà nước như Công ty Phát triển ruộng đất, Công ty Trồng và Phục hồi rừng, Hiệp hội Nông dân toàn quốc, Liên đoàn Nông nghiệp. Gần đây Nhà nước mở rộng hoạt động cả trong các mặt sản xuất và nhập khẩu phân bón, nhưng khu vực tư nhân vẫn giữ vị trí lớn nhất trong khâu cung ứng. Mặc dầu chỉ có ít công ty lớn khống chế thị trường, nhưng vẫn còn có khá nhiều nhà kinh doanh và phân phối cỡ nhỏ và nghiệp dư, kiêm nhiệm. Một trong những nhà phân phối bán buôn cỡ lớn là Hiệp hội Nông dân toàn quốc, làm nhiệm vụ phân phối phân bón và các vật tư nông nghiệp khác cho các tổ chức của Nhà nước và các khách hàng bán lẻ đang hoạt động. Các chi nhánh của Hiệp hội Nông dân toàn quốc cũng có những kho nhỏ bán phân trực tiếp cho nông dân. Hiệp hội Nông dân toàn quốc cũng là một thành viên của Liên đoàn Nông nghiệp, vì vậy Hiệp hội cũng tham gia quản lý việc phân phối thóc và bù giá cho phân bón. ở cấp cơ sở, có thể phân chia thành 4 loại cửa hàng phân phối: - Cửa hàng bán lẻ tư nhân: Trước năm 1979, có khoảng 600 cửa hàng bán lẻ tư nhân hoạt động. Năm 1984, thực hiện chính sách bù giá trong khâu phân bón, số cửa hàng giảm bớt, ước lượng có khoảng 500 cửa hàng. - Tổ chức của nông dân. Những tổ chức này chịu trách nhiệm phân phối phân bón tới những thành viên của tổ chức cơ sở, có thực hiện chính sách bù giá. Nông dân không phải là thành viên của tổ chức cũng được mua phân bón tại các cửa hàng của tổ chức nông dân. - Cơ quan Phát triển và Cải tạo đất của Nhà nước. Những cơ quan lớn nhất về loại này là Hội liên hiệp Phát triển đất, Hội những người sản xuất nhỏ và Phát triển cao su, Liên đoàn Củng cố và Cải tạo đất. Các tổ chức này cũng có các cửa hàng phân phối và kho tàng ở các cơ sở. - Tập đoàn: Một đặc điểm trong sản xuất nông nghiệp của Malaysia là có những tập đoàn khá lớn, những tập đoàn này chủ yếu là kinh doanh trồng cao su, cọ dầu, ca cao và dừa. Những tập đoàn lớn đặt mua phân bón ở nhà nhập khẩu hoặc nhà sản xuất. Những tập đoàn nhỏ có thể mua phân bón của các cửa hàng tư nhân. 3.10-/ Nepal. Phân bón ở Nepal đến tay nông dân thông qua các hợp tác xã và cửa hàng tư nhân. Màng lưới phân phối phân bón bao gồm Công ty Đầu tư nông nghiệp, hợp tác xã và nhà buôn tư nhân. Công ty Đầu tư Nông nghiệp cung cấp phân bón cho các Liên hiệp hợp tác xã cấp huyện. Số nhà buôn tư nhân ở đây ngày càng tăng, trong khi các hợp tác xã không hoạt động hoặc hoạt động kém. Gần đây, theo con số thống kê, có 1.400 cửa hàng tư nhân và 670 cửa hàng hợp tác xã. Các Liên hiệp hợp tác xã cấp huyện được thành lập từ năm 1967 nhưng hoạt động kém hiệu quả do quản lý và kiểm soát tồi. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp chịu trách nhiệm đầu tư cho các Liên hiệp này là người bán buôn, được Công ty Đầu tư Nông nghiệp cung cấp hàng để rồi cung cấp lại cho các hợp tác xã và cửa hàng tư nhân. 3.11-/ Pakistan. Chiến lược của Chính phủ đối với ngành nông nghiệp là tiến hành cân đối nhu cầu sử dụng phân bón với mục đích bảo đảm đủ phân bón cho cây trồng với giá cả hợp lý. Trước kia phân bón do các công ty Nhà nước nhập khẩu, sản xuất và cung ứng cho nông dân với giá rất rẻ. Từ năm 1986, Chính phủ đã nới lỏng việc kiểm soát kinh doanh phân bón, bãi bỏ kiểm soát việc nhập, sản xuất phân Urea. Năm 1993 bãi bỏ quy chế về kiểm soát đối với sản xuất, nhập khẩu phân phốt phát. Tháng 10/1994 bãi bỏ kiểm soát về nhập khẩu, kinh doanh phân Kali. Phần trợ giá của Chính phủ cũng giảm đi. Mặc dù việc nhập khẩu phân Urea không còn bị kiểm soát từ năm 1986 nhưng mãi đến năm 1994 tư nhân mới nhảy vào lĩnh vực này. Năm 1994 và 1995, tư nhân đã nhập khẩu 0,2 triệu tấn phân bón trong tổng số 1 triệu tấn nhập khẩu. Chính phủ chủ trương chuyển giao quyền sở hữu đại bộ phận các nhà máy sản xuất phân bón sang cho tư nhân. Một số nhà máy đã và sẽ được bán cho tư nhân. Ngày nay việc kinh doanh phân bón do các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân tiến hành. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã có một hệ thống kinh doanh hoàn thiện, họ cũng được hưởng các đặc quyền về nhập phân bón như các doanh nghiệp Nhà nước. Tư nhân hoá phân bón ở Pakistan là một thắng lợi, một chủ trương đúng đắn, từng bước và thận trọng. Những vấn đề rút ra qua kinh nghiệm các nước. - Phân bón là loại vật tư quan trọng. Để bảo vệ lợi ích của nông dân phần lớn Chính phủ các nước đều có can thiệp nhất định, không hoàn toàn phó mặc cho thị trường quyết định. Tuỳ tình hình cụ thể của mỗi nước mà mức độc can thiệp có khác nhau. - Tuy vậy, hiện nay các nước này đang nới lỏng sự điều hành trực tiếp của Chính phủ trong lĩnh vực phân bón, cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh, sản xuất, nhập khẩu, nhiều nước đã cho tự do kinh doanh trong lĩnh vực này rất sớm. Chương 2 Nghiên cứu, phân tích tình hình lưu thông phân bón vô cơ của Việt nam hiện nay 1-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam-các giai đoạn phát triển 1.1-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung 1.1.1. Lưu thông phân bón vô cơ- một bộ phân của hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân Thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung ở Việt Nam có thể tính từ năm 1988 trở về trước. Đặc trưng cơ bản của cơ chế này là những vấn đề kinh tế trung tâm của sản xuất: sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu, cách thức sản xuất và sản xuất với giá cả nào, bán cho ai đều do nhà nước chỉ định. Do đó các chính sách về lưu thông nói chung dược khái quát cô đọng là: thời kỳ độc quyền. Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự tập trung cao độ trong cung ứn vật tư- kỹ thuật. Việc cung ứng vật tư kỹ thuật được tổ chức theo nguyên tắc ngành. Có nghĩa là: - Các cơ quan cung ứng và cơ sở vật tư kỹ thụât gắn liền với từng Bộ từng ngành. - Việc phân phối sản phẩm có công dụng sản suất-kỹ thuật do các Bộ sản xuất ra tiến hành - Việc cung ứng vật tư- kỹ thuật, tức là loĩnh vực lưu thông của các tư liệu dản xuất, tồn tại chỉ như là quá trình vật chất chứ không phải là lĩnh vực hoạt động - Chức năng phối hợp liên ngành do uỷ ban kế hoạch nhà nước đảm nhận. Ưu điểm cơ bản và duy nhất của hệ thống này là khả năng phối hợp chính xác giữa kế hoạch sản xuất với kế hoạch tiêu thụ, tức là giữa cung ứng sản phẩm ở cùng một cấp, tập trung ở một Bộ. Tuy nhiên nhược điểm của hệ thống này là : Do mỗi bộ đều có cơ quan cung ứng riêng của mình, cho nên trên phạm vi cả nước xảy ra tình trạng vận chuyển ngược chiều nhau, trùng lặp rất nhiều- các bộ đều vận chuyển vật tư đến các cơ sở của mình trên khắp đất nước, và ngược lại. Thời kỳ này, sản xuất nông nghiệp được tổ chức dưới hai hình thức: Hợp tác xã sản xất nông nghiệp (thuộc sở hữu tập thể của nông dân); Nông trường quốc doanh (thuộc sở hữu Nhà nước). Tuy có hai hình thức sở hữu và hai hình thức tổ chức khác nhau song cả hai đều phải chịu sự quản lý và chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của Nhà nước thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn. Các cơ sở sản xuất nông nghiệp muốn sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, phân phối các sản phẩm làm ra theo tỷ lệ thế nào, các sản phẩm thừa tiêu thụ ở đâu, với giá bao nhiêu, tất cả đều phải theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Trong thời kỳ này kinh tế hộ nông dân dường như không được quan tâm, người nông dân làm việc hoàn toàn thụ động theo sự chỉ đạo của ban quản lý hợp tác xã. Với chủ trương từng huyện phải phấn đấu tự trang trải lấy nhu cầu lương thực trên địa bàn của huyện mình và kiểm soát hết sức chặt chẽ việc giao lưu các loại nông sản phẩm từ vùng này sang vùng khác, nên sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu là sản xuất lương thực và mang nặng tính tự cấp, tự túc. Vì có chế như vậy, nên gần như nông dân không gắn bó với đồng ruộng, không quan tâm đến công việc sản xuất nông nghiệp - các ban quản trị hợp tác xã thì phần lớn trình độ chuyên môn và quản lý đều yếu kém, tham ô, lãng phí của tập thể, ít quan tâm đến sản xuất. Nhu cầu phân hoá học trong thời kỳ này (chủ yếu là phân Urê và phân lân) theo sự tính toán của các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước là khoảng 1 triệu tấn một năm (trong đó phân ure khoảng 800.000 tấn, phân lân khoảng 200.000 tấn). Trong thời kỳ này Chính phủ Việt Nam cũng đã nhờ Chính phủ Liên xô xây cho nhà máy Supe phốt phát Lâm thao - Phú Thọ chuyên sản xuất phân lân (100.000 tấn/năm) và Chính phủ Trung quốc xây cho nhà máy phân đạm Hà Bắc (60.000 tấn/năm), chuyên sản xuất ure và nhà máy phân lân Văn điển. Để có phân hoá học cung cấp cho sản xuất nông nghiệp, buộc Nhà nước Việt Nam phải tiến hành nhập phân của nước ngoài. Việc nhập khẩu phân bón trong thời kỳ này là từ Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, thông qua các nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước. Theo phương thức này, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ kế hoạch và Đầu tư ) và Bộ tài chính, thay mặt Chính phủ Việt Nam nhận nợ và thanh toán nợ với nước bạn, sau mỗi kỳ kế hoạch mà hai bên đã thoả thuận. Việc nhập phân bón theo nghị định thư có điểm tốt là rất chắc chắn, song lại có nhược điểm rất lớn là phía bạn hàng lúc nào họ giao lúc đó. Buộc phía Việt Nam cứ phải nhận vì thế thường diễn ra hiện tượng; lúc sản xuất nông nghiệp cần phân thì không có phân, lúc không cần thì phân lại về. Phân bón ở Việt Nam được nhập theo Nghị định thư và chủ yếu là của Liên Xô, với giá thấp hơn giá thị trường Quốc tế. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam ở thời kỳ này đang gặp khủng hoảng nặng, kinh tế không phát triển, giá trị đồng tiền Việt Nam liên tục giảm. Trước tình hình này. Chính phủ chỉ đạo không bán phân bón bình thường mà áp dụng cơ chế bán đối lưu, gọi là bán theo hợp đồng kinh tế hai chiều. Điều này có nghĩa là, Nhà nước bán phân bón cho nông dân theo số lượng tương ứng với số lượng hàng nông sản mà nông dân bán cho Nhà nước (về mặt giá trị), ở đây lấy tỷ lệ giữa urê và lúa làm tiêu chuẩn. Cơ chế bán phân bón theo hợp đồng kinh tế hai chiều được chấp nhận là cơ chế có hiệu quả phù hợp với giai đoạn kế hoạch tập trung bao cấp, vì để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượng. Nhà nước cần thiết phải nắm được hàng hoá nông sản trong tay nhằm kìm hãm bớt sự mất giá đồng tiền trong nước. Nhà nước đã tổ chức ra một bộ máy thống nhất từ Trung ương đến tận các huyện về quản lý và cung ứng các loại vật tư nông nghiệp nói chung, phân bón nói riêng cho các hợp tác sản xuất và nông trường quốc doanh - đó là hệ thống các Công ty vật tư nông nghiệp. Tất nhiên, cũng có một số Công ty như Công ty chè, cà phê, cao su được phép nhận phân bón trực tiếp từ Trung ương, không phải thông qua hệ thống Công ty vật tư nông nghiệp các cấp (số này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng số phân bón được nhập về).Số 90% phân bón còn lại Nhà nước trực tiếp giao cho Tổng Công ty vật tư nông nghiệp Việt Nam tiếp nhận và phân phối cho các địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) qua các Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh, thành phố, theo chỉ tiêu (từng tỉnh) đã được Bộ nông nghiệp thoả thuận với Uỷ ban kế hoạch nhà nước và đã được ghi vào chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ để giao cho các Bộ, các tỉnh và thành phố. Sau khi nhận được phân bón do Tổng Công ty vật tư nông nghiệp theo chỉ tiêu kế hoạch - Công ty vật tư nông nghiệp các tỉnh tiến hành phân phối cho các Công ty vật tư nông nghiệp theo chỉ tiêu Uỷ ban nhân dân tỉnh đã duyệt và uỷ ban kế hoạch tỉnh đã giao xuống từng huyện trọng tỉnh. Công ty vật tư nông nghiệp huyện (nơi nào không có Công ty thì phòng nông nghiệp huyện đảm nhận), thực hiện việc phân phối phân bón xuống cho các xã và các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo chỉ tiêu mà Uỷ ban nhân dân huyện đã duyệt. 1.1.2. Màng lưới cung ứng phân bón vô cơ trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung Thời kỳ này: hệ thống cung ứng phân bón do Quốc doanh độc quyền được tổ chức thành 2 cấp: cấp I (Tổng công ty vật tư nông nghiệp Trung Ương) cung ứng đến kho cấp II (Tỉnh), Cấp II cung ứng cho cấp III (Cấp III thuộc cấp II quản lý); Quốc doanh địa phương thực hiện cung ứng 90% nhu cầu phân bón trên địa bàn. sơ đồ 1 - Mô hình cung ứng phân bón vô cơ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung Nước bán phân hoá học trên thế giới Quốc doanh cấp I Nhà nước Việt Nam xây dựng kế hoạch Quốc doanh Việt Nam Cấp II Quốc doanh Vật tư Việt Nam Cấp III Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất Nhập khẩu Giao chỉ tiêu nhập khẩu Sơ đồ 2 - Hệ thống tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung nhập khẩu Nhà máy phân bón Tổng Công ty vật tư Nông nghiệp Công ty vật tư Nông nghiệp tỉnh Công ty vật tư Nông nghiệp huyện Hợp tác xã Nông nghiệp Nông dân 1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước quản lý tập trung, toàn diện và chặt chẽ. Số lượng và giá cả các loại vật tư, cung ứng cho ai đều do Nhà nước quy định và giao kế hoạch pháp lệnh. Nhà nước như là chủ thể sản sản xuất lại như vừa là chủ thể của kinh doanh, “nhà nước mua, nhà nước bán, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước chịu bù”. Trong đó từ năm 1981 về trước Nhà nước bán vật tư cho nông dân và thu lại bằng tiền. Các công ty cung ứng phân bón của nhà nước được tổ chức thành một hệ thống với nhiều tầng nấc, cấp nọ phải bán cho cấp kia theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh bắt buộc. Thực chất là độc quyền cung ứng phân bón; thực hiện một chế độ nghiêm ngặt về cung ứng phân bón cho người tiêu dùng theo định lượng, định xuất thông qua chế độ tem phiếu. Tuy nhiên nhìn chung trong thời kỳ này, quan hệ trao đổi được hình thành theo hướng có lợi cho người sản xuất, Nhà nước chủ trương khuyến khích người nông dân sử dụng phân bón để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng, Nhà nước không thực hiện việc tích luỹ trong khâu kinh doanh phân bón.Tỷ giá trao đổi giữa phân bón và lúa trong giai đoạn này là : Giá thu mua Giá bán urê Tỷ lệ Thóc trong HĐ Trong HĐ Thóc/urê - Đợt điều chỉnh giá tháng 10/85 : + ĐB Bắc bộ 2,5 đ/kg 5,6 đ/kg 2,24 + ĐB Nam bộ 1,75 đ/kg 5,0 đ/kg 2,85 - Đợt điều chỉnh giá tháng 10/87: + ĐB Bắc bộ 31 đ/kg 62,5 đ/kg 2,0 + ĐB Nam bộ 25 đ/kg 62,5 đ/kg 2,5 Với chủ trương thống nhất quản lý phân bón, vì thế các trạm kiểm soát mang tính “ngăn sông cấm chợ” mọc lên như nấm ở khắp nơi, thị trường bị chia cắt theo ranh giới hành chính; những người kinh doanh, buôn bán phân bón ngoài quốc doanh bị coi là vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt cả hành chính và kinh tế. Từ năm 1982 đến 1989 Nhà nước cung ứng vật tư cho nông dân để thu lại nông sản, gọi là “đối lưu nông sản”. Tỷ lệ trao đổi được quy định tuỳ theo loại vật tư và theo thời kỳ khác nhau: 1 kg Urea năm 1982-1984 tương ứng với 3 kg lúa, 1 kg phân lân suppe quy định đổi 0,5-1 kg thóc, 1 kg kali đổi 0,3 kg thóc. Hạn chế của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ thời kỳ là: Vật tư của Nhà nước bị thất thoát ở nhiều khâu. Nhà nước không thu lại lượng nông sản tương ứng với số vật tư ứng ra. - Theo báo cáo của Đoàn thanh tra thu mua nông sản (Quyết định số 315-ngày 7/11/1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) cho thấy: + Chỉ trong 2 năm 89-87, 9 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long còn nợ vật tư theo hợp đồng là 782.046 tấn thóc, tỷ lệ thất thu là 37%. + 5 tỉnh miền Bắc là Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh (cũ), Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh (cũ) còn nợ 213.725 tấn thóc, tỷ lệ thất thu 35,44%. - Báo Nhân dân số 12.078 ngày 5/8/1987 đăng lại kết quả của các đoàn thanh tra vật tư cho biết: trong 3 năm 1983-1985, riêng 9 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như sau: + Vật tư tính ra quy thóc: 3.699.410 tấn. + Đã thu được quy thóc: 2.593.218 tấn. + Còn lại chưa thu được: 1.106.192 tấn. Tỷ lệ thất thu 29,9%. - Như vậy từ 1983-1987, riêng Đồng bằng sông Cửu Long nợ lên tới 1.888.238 tấn thóc, tỷ lệ thất thu khoảng 30%. - Nguyên nhân do: a. Cán bộ chiếm dụng: Theo báo cáo của Uỷ ban Thanh tra tỉnh An Giang từ 1983-1986 thì 5% số nợ là do cán bộ chiếm dụng, trong đó chủ yếu là cán bộ hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, cán bộ xã. Nhiều cán bộ chiếm dụng vật tư quy ra hàng chục, vài chục tấn thóc. b. Do dân nghèo, do thiên tai: - Uỷ ban Thanh tra tỉnh An Giang cho biết: 50% số nợ là do dân nghèo hoặc thiên tai nên không có khả năng trả nợ. - Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình trong công văn số 19/TT-UB ngày 19/4/1988 xin Nhà nước xoá nợ 2 năm 1986, 1987 là 24.691 tấn thóc với lý do vụ chiêm xuân 86 sâu bệnh, rét kéo dài, năng suất giảm (chỉ bằng 70% so với năm 1985), vụ mùa 86 bị cơn bão số 5 gây thiệt hại nặng nền. Vụ chiêm xuân 87 do thời tiết nóng ấm, sâu bệnh nhiều làm giảm năng suất, sản lượng. c. Dùng vật tư vào mục đích khác: Dùng vật tư vào mục đích khác xảy ra phổ biến ở các địa phương. Tình Hà Sơn Bình (cũ) năm 1986 nhận 38.952 tấn phân đạm tiêu chuẩn của Nhà nước để thu mua nông sản nhưng đến tỉnh, tỉnh đã giữ lại 3.499 tấn (8.9%); về đến huyện huyện giữ lại 3.740 tấn (10%) (Báo cáo của đoàn thanh tra vật tư). d. Tỷ lệ trao đổi có loại, có lúc không phù hợp: Nhà nước quy định 1kg kali đổi 1,2 kg thóc nhưng nông dân nhiều nơi đề nghị 0,3-0,4 kg thóc, có nơi đề nghị không thu thóc (chỉ bán thu tiền). Một kg supe lân quy định đổi 1kg thóc: ở miền Nam nông dân chấp nhận nhưng ở miền Bắc nông dân đề nghị 0,4-0,5 kg thóc; một số địa phương đề nghị không thu thóc. e. Tổn thất do hao hụt: Tổn thất do hao hụt xẩy ra rất lớn. Tổng kết của Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nước về hao hụt phân đạm từ 1984-1986 cho loại phân urea rời như sau: - Sang mạn tại vùng neo hao 3,4%. - Vận chuyển đường thuỷ với cự li trên 50 km hao 7,0%. - Bốc xếp, vận chuyển bằng ô tô với cự li trên 50 km hao 1,9%. - Bảo quản, bốc xếp tại kho từ 10-25 ngày hao 0,4%. - Đóng gói hao 2%. Chỉ riêng 5 công đoạn trên đã hao 14,7%; chưa kể hao hụt trong khâu bảo quản tại kho hợp tác xã và các khâu khác cho đến khi vật tư đến tay nông dân. g. Gây căng thẳng về thiếu vật tư, điều hành của Nhà nước trở nên bận rộn: Do giá vật tư quy định của Nhà nước thấp nên vật tư bị lợi dụng mua đi bán lại để kiếm chênh lệch. Cũng do giá thấp nên địa phương và các ngành không dám nhập vật tư ngoài kế hoạch vì nhập theo giá thị trường thế giới, bán theo giá quy định của Nhà nước, sẽ lỗ vốn lớn. Vật tư lúc nào cũng ở trong tình trạng thiếu nghiêm trọng, nhiều lúc gây thành “cơn sốt” giá. Các cuộc họp để xử lý vật tư thiếu thường xuyên diễn ra ở các cấp, các ngành, từ các cơ quan điều hành cao nhất của Chính phủ như Văn phòng Chính phủ, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Nông nghiệp - Công nghiệp thực phẩm, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính đến các tỉnh, huyện. Chính phủ luôn bị chỉ trích là điều hành kém, nhiều lần bị Quốc hội chất vấn vì để thiếu vật tư nông nghiệp. Tình hình trên đã không có lợi cho cả Nhà nước và nông dân. 1.2-/ Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trong giai đoạn chuyển sang cơ chế thị trường(1990-1999) 1.2.1. Quan điểm của nhà nước về tổ chức quản lý lưu thông phân bón vô cơ trên thị trường ở Việt nam Cùng với sự đổi mới chung của cơ chế kinh tế, từ tháng 5-1989 đến nay sự vô lý trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung trên đã được Đảng và nhà nước ta chủ trương bãi bỏ và thay vào đó là một chính sách thương mại đã được thay đổi căn bản: Từ độc quyền chuyển sang tự do hoá lưu thông với nhiều thành phần kinh tế cìng tham gia mua bán, kinh doanh phân bón đã làm sôi động thị trường phân bón vô cơ. Tự do lưu thông với đặc trưng cơ bản của nó là thị trường không còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, tình trạng ngăn sông cấm chợ bị xoá bỏ, thị trường phân bón thông suốt, các thành phần kinh tế cạnh tranh nhau trong kinh doanh; người nông dân được tự do tìm kiếm nơi nào, tổ chức nào bán phân bón vô cơ rẻ nhất để mua. Sự giải phóng cơ chế mua bán theo nghĩa vụ, đổi chác, phân phối đã tạo thuận lợi cho hạch toán kinh doanh, lấy mục tiêu hiệu quả làm động lực đã giúp cho việc điều hoà cung cầu phân bón tốt hơn, ngưòi nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất. Trong các thành phần kinh tế tham gia tổ chức lưu thông phân bón hiện nay các doanh nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp, không còn độc quyền, bản thân họ cũng bình đẳng như các thành phần kinh tế khác trong cơ chế mới với những đặc trưng là: Thị trường bình đẳng thông suốt+ cạnh tranh+ Giá cả thoả thuận+ Nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Đi đôi với hệ thống cung ứng phân bón theo hướng tự do lưu thông Nhà nước cũng thực hiện tự do hoá giá cả- có nghĩa là về cơ bản giá phân bón do thị trường quyết định. Tuy vậy, nhưng để nông dân được hưởng mức giá bình ổn nhất là khi thời vụ cần có phân bón chăm sóc cây trồng Nhà nước đang sử dụng quỹ bình ổn giá để hỗ trợ cho kinh doanh phân bón dự trữ lưu thông một số lượng phân ure nhất định để chủ động bán ra ở thời điểm bình thường cũng khi thời vụ hoặc ở thời điểm giá cả tăng cao, bảo đảm để nông dân mua được đạm ure xoay quanh định hướng 1 ure tương đương 2 lúa mà nông dân đồng bằng Sông Cửu Long và khoảng 1,5 lúa ở đồng bằng sông Hồng đã chấp nhận. Bước sang năm 1994, 1995 và đặc biệt là từ năm 1997 với Quyết định 140/TTg(07/3/1997) và quyết định 141/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã đánh dấu một bước đổi mới quan trọng về cơ chế quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực lưu thông, nhập khẩu phân bón. Với việc chỉ định các đầu mối nhập khẩu phân bón, tuy nhiên các đầu mối nhập khẩu được sàng lọc, giảm bớt số lượng, coi trọng tiêu chuẩn chất lượng và năng lực thực sự về tài chính, tiếp thị. Đã tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh phân bón chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng Nhập khẩu và cung ứng kinh doanh phân bón trên thị trường. Bên cạnh việc quản Nhập khẩu phân bón vô cơ bằng đầu mối và hạn ngạch (Quyết định 336/CP ngày 06/4/1999 xác định hạn ngạch chỉ là định hướng), Nhà nước còn sử dụng các biện pháp hạn chế nhập mạnh như tăng thuế suất, áp dụng chế độ phụ thu, cấm các đơn vị không có đủ các điều kiện về tài chính, mạng lưới cung ứng nhập khẩu phân bón....Đây chính là các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng lãi nhập lỗ bỏ của các đơn vị kinh doanh cung ứng phân bón vô cơ trên thị trường. 1.2.2. Hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực lưu thông phân bón vô cơ Như trên đã phân tích, trong tổng khối lượng nhiều triệu tấn phân hoá học tiêu dùng hàng năm thì sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 65% nhu cầu về lân, chưa tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nước vẫn chưa sản xuất được. Do vậy hàng năm nước ta vẫn phải bỏ ra hàng triệu USD để nhập khẩu phân bón. Từ nhiều năm nay nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý khác nhau, quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn vị đầu mối được kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cước vận chuyển phân bón Bắc-Nam lên Miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi suất ưu đãi... .Tuy nhiên, những năm gần đây, hệ thống cung ứng phân bón phải đối mặt với những thử thách to lớn và trải qua mấy nấc thăng trầm tương ứng với những phương sách quản lý khác nhau của nhà nước. Có thể khẳng định trong cơ chế thị trường, không thể thiếu vai trò quản lý vĩ mô, kế hoạch định hướng của nhà nước và sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành với vấn đề quản lý và điều tiết phân bón vô cơ ở nước ta. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh phân bón vô cơ phải nhằm mục tiêu đưa việc nhập khẩu và kinh doanh phân bón vào nề nếp, nhằm cung ứng đủ và kịp thời phân bón vô cơ trực tiếp đến hộ nông dân phục vụ sản xuất với giá cả hợp lý, gắn việc cung ứng vật tư, dịch vụ (trước hết là phân bón ) với việc thu mua lúa hàng hoá của nông dân thành một hệ thống bảo đảm sự quản lý và điều hành của Nhà nước. Cụ thể là: * Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch cân đối Cung- cầu phân bón trong từng vụ, của từng miền trong cả nước, cùng Bộ thương mại theo dõi và kiểm tra tiến độ hàng về, tình hình Cung ứng và giá cả phân bón trong cả nước, đề xuất ý kiến điều chuyển kịp thời lượng phân bón cần nhập khẩu hàng năm phục vụ sản xuất nông nghiệp trình Chính phủ quyết định. * Bộ Công nghiệp thông báo việc sản xuất phân bón vô cơ trong nước hàng năm và quy hoạch tổng thể chiến lược phát triển ngành sản xuất phân bón đến năm 2000 và 2010 theo hướng tăng nhanh sản xuất trong nước thay thế dần nhập khẩu với hình thức tự vay vốn hoặc liên doanh để sản xuất phân bón. * Bộ Thương mại chịu trách nhiệm, điều hành nhập khẩu phân bón theo kế hoạch chung và cân đối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, thông báo chỉ tiêu nhập khẩu cho từng doanh nghiệp. Từ đó Chủ tịch UBND tỉnh thành phố thông báo doanh nghiệp cho Bộ Thương mại, Cục Hải quan, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, các doanh nghiệp được thông báo làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải Quan. * Ngân hàng Nhà nước Việt nam cùng Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc quản lý, sử dụng tiền bán hàng của các doanh nghiệp nhập khẩu để đảm bảo thanh toán với nước ngoài khi đến hạn. Khi được Chính phủ phê duyệt hạn ngạch nhập khẩu phân bón, Ngân hàng Nhà nước Việt nam chỉ đạo các ngân hàng Thương mại bảo lãnh cho các doanh nghiệp được chỉ định nhập khẩu phân bón vay trả chậm nước ngoài và được lấy giá trị hàng hoá phân bón nhập khẩu làm bảo đảm và ký quỹ với mức thấp nhất theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt nam. Đối với một số doanh nghiệp được giao nhập k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0219.doc
Tài liệu liên quan