Đề tài Vai trò của các phương thức thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

 

Chương I: Cơ sở lý luận về phương thức thanh toán quốc tế 1

I. Vai trò của các phương thức thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh doanh XNK 1

1. Khái niệm về phương thức thanh toán quốc tế. 1

2. Vai trò của các phương thức thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 1

II. các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay 2

1. Phương thức chuyển tiền (Remittance) 3

2.Phương thức ghi sổ (Open account) 5

3. Phương thức nhờ thu (Collection of payment) 6

4. Phương thức thư uỷ thác mua (Authority to Purchase) 8

5. Phương thức bảo đảm trả tiền (Letter of Guaran tee – L/G) 9

6. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credits) 10

6.1. Khái quát chung về phương thức tín dụng chứng từ. 10

6.2. Thư tín dụng – một phương tiện quan trọng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Letter of Credit – L/C) 14

6.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ 22

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1024 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của các phương thức thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp một dịch vụ nào đó cho khách hàng, sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, uỷ thác ngân hàng của mình thu hộ số tiền ghi trên tờ hối phiếu đó. Các bên tham gia: + Người bán tức là người xuất khẩu người hưởng lợi. + Người mua tức là người nhập khẩu người trả tiền. + Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận uỷ thác của người bán để thu tiền hộ. + Ngân hàng bên mua là ngân hàng đại lý cho ngân hàng bên bán ở nước người mua. Như vậy trong phương thức này có sự tham gia của phương tiện thanh toán là hối phiếu. Các loại phương thức nhờ thu a. Nhờ thu phiếu trơn (Clean collection) Là hình thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua chỉ căn cứ trên hối phiếu mình lập ra còn bộ chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. Quy trình tiến hành nghiệp vụ: Ngân hàng đại lý Người mua (nhàNK) Người bán (nhàXK) Ngân hàng đại lý Ngân hàng uỷ thác (3) (6) (4) (5) (7) (2) (1) Sơ đồ 2: Quy trình tiến hành nghiệp vụ của phương thức nhờ thu. (1) Người bán giao hàng và lập bộ chứng từ gửi thẳng cho người mua. (2) Người bán ký phát hối phiếu và uỷ thác cho ngân hàng của mình đòi tiền hộ. (3) Ngân hàng uỷ thác gửi thư uỷ nhiệm cùng hối phiếu cho ngân hàng địa lý để nhờ thu tiền ở người mua. (4) Ngân hàng đại lý chuyển hối phiếu cho người mua và yêu cầu người mua trả tiền hoặc ký chấp nhận trả tiền hối phiếu. (5) Người mua hoặc trả tiền hoặc ký chấp nhận hoặc từ chối thanh toán hối phiếu. (6) Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho ngân hàng nhờ thu hoặc hoàn lại hối phiếu đã được chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán. (7) Ngân hàng uỷ thác chuyển tiền cho người bán hoặc thông báo hối phiếu đã được chấp nhận thanh toán hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối thanh toán cho người bán (Nếu hối phiếu được chấp nhận ngân hàng sẽ giữ lại, đến hạn ngân hàng sẽ đòi tiền người mua và chuyển cho người bán). Phương thức nhờ thu phiếu trơn chỉ áp dụng trong trường hợp người mua và người bán tin cậy lẫn nhau và thường sử dụng trong hợp đồng dịch vụ nhiều hơn là hợp đồng hàng hóa. b. Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection) Là phương thức nhờ thu mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng lập một bộ chứng từ hàng hoá và nhờ ngân hàng thu hộ tiền từ hối phiếu với điều kiện người mua trả tiền hối phiếu hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới trao cho họ bộ chứng từ hàng hoá để nhận hàng. Trình tự nghiệp vụ về cơ bản là giống như phương thức nhờ thu phiếu trơn, nhưng có điểm khác là: ở khâu(1) người bán chỉ giao hàng không kèm bộ chứng từ, ở khâu(2) người bán lập bộ chứng từ thanh toán bao gồm cả hối phiếu và chứng từ hàng hoá, ở khâu(4) ngân hàng đại lý chỉ trao chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng cho người mua nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu. Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ người ta chia ra làm hai loại là: Bên mua trả tiền hối phiếu đổi chứng từ (Document against payment – D/P) và bên mua chấp nhận trả tiền hối phiếu đổi chứng từ (Document against acceptance – D/A). Với việc uỷ thác cho ngân hàng khống chế chứng từ hàng hoá người mua quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn phương thức nhờ thu phiếu thu phiếu trơn. Tuy vậy phương thức nhờ thu kèm chứng từ vẫn không khống chế được việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài hoặc từ chối nhận chứng từ hàng hoá để kéo dài hoặc không trả tiền cho người bán khi thị trường hàng hoá bất lợi cho mình. Hơn nữa ngân hàng chỉ là người trung gian không chịu trách nhiệm về việc trả tiền của người mua. Vì vậy phương thức này cũng chỉ áp dụng trong trường hợp các bên có quan hệ tin cậy lẫn nhau, và với loại hàng khó tiêu, hàng mẫu đem triển lãm, hàng bán để thăm dò thị trường. 4. Phương thức thư uỷ thác mua (Authority to Purchase) Phương thức thư uỷ thác mua là một phương thức thanh toán trong đó Ngân hàng nước người mua theo yêu cầu của người mua viết thư cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài yêu cầu ngân hàng này thay mặt để mua hối phiếu của người bán ký phát cho người mua, Ngân hàng đại lý căn cứ điều khoản của thư uỷ mua mà trả tiền hối phiếu, ngân hàng bên mua thu tiền của người mua và giao chứng từ cho họ. Phương thức thư uỷ thác mua không phải là dựa vào sự tín nhiệm của ngân hàng bên mua, mà là yêu cầu ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền hối phiếu ký phát, cho nên ngân hàng bên mua phải đem một số ngoại tệ tương ứng với số tiền hối phiếu gửi trước ngân hàng đại lý ở nước ngoài. Khi người bán đem hối phiếu đến ngân hàng thông báo được uỷ thác mua hối phiếu thì ngân hàng phải trả tiền hối phiếu đó, người bán không phải trả tiền lợi ích chiết khấu. Lợi tức này do người mua chịu, lợi tức này tính từ ngày ngân hàng thông báo trả tiền hối phiếu cho đến ngày thu hồi tiền hối phiếu ở người mua. Phương thức này thường dùng trong trường hợp người xuất khẩu không tin tưởng vào khả năng thanh toán của người nhập khẩu thường là thương nhân xuất khẩu ở nước giàu và người nhập khẩu ở nước nghèo. Thường áp dụngtrong mua bán các mặt hàng khan hiếm, bán chạy trả tiền ngay. 5. Phương thức bảo đảm trả tiền (Letter of Guaran tee – L/G) Phương thức bảo đảm trả tiền tức là việc ngân hàng bên mua theo yêu cầu của người mua viết cho người bán một cái “thư bảo đảm trả tiền” bảo đảm sau khi hàng của bên bán đã gửi đến địa điểm của bên mua quy định, sẽ trả tiền hàng. Thanh toán theo phương thức L/G có ba loại: ã Hàng đến trả tiền ngay: Khi hàng đến bến và dỡ xuống xong, ngân hàng mở L/G hay ngân hàng đại lý của nó ở cửa khẩu điện cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả tiền cho người bán. Hoặc người bán xuất trình cho ngân hàng chứng nhận của công ty thuê tàu là hàng đã đến bến và dỡ xuống xong thì ngân hàng tự động trả tiền cho người bán, áp dụng trong trường hợp người bán tín nhiệm và hàng không phải kiểm nghiệm. ã Kiểm nghiệm xong trả tiền: Hàng đến bến, sau khi kiểm nghiệm xong, nếu đúng qui cách phẩm chất và số lượng, người mua mới trả tiền. ã Hàng đến trả tiền một phần: Hàng đến trả tiền một phần, phần còn lại sau khi có kết qủa kiểm nghiệm xong sẽ trả nốt. 6. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credits) 6.1. Khái quát chung về phương thức tín dụng chứng từ. Theo định nghĩa của “Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” của phòng Thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 1993 số 500 thì: Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người xin mở thư tín dụng) hoặc nhân danh chính mình trả tiền cho người thứ ba hoặc trả cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba (người hưởng lợi) hoặc chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát. Hoặc uỷ quyền cho một ngân hàng khác tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận và trả tiền các hối phiếu như thế. Hoặc uỷ quyền cho một ngân hàng khác chiết khấu khi (các) chứng từ quy định được xuất trình với điều kiện của tín dụng thư được thực hiện đúng. ã Quy trình tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ: (6) (5) (2) Ngân hàng thông báo Ngân hàng mở L/C (3) (5) (6) (1) (7) (8) (4) Người bán (nhà XK) Người mua (nhà NK) Sơ đồ 3: Quy trình tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ. (1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở tín dụng thư gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu mở một tín dụng thư cho người xuất khẩu hưởng. (2) Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu. (3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở tín dụng thư đó, khi nhận được thư tín dụng thì chuyển ngay đến người xuất khẩu. (4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì đề nghị Ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng. (5) Sau khi giao hàng xong, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của thư tín dụng, xuất trình qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán. (6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với thư tín dụmg thì tiến hành trả tiền cho người bán. Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu. (7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu. (8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì hoàn trả lại tiền cho ngân hàng mở thư tín dụng, nếu thấy không phù hợp có quyền từ chối trả tiền. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có ba người tham gia có quan hệ chặt chẽ với nhau: Người mua, người bán và ngân hàng. ã Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng + Ngân hàng mở thư tín dụng (The issuing bank) Là ngân hàng có nghĩa vụ căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng của người mua để mở L/C cho người bán và tìm cách thông báo việc mở L/C này cho người bán biết cùng với việc gửi bản gỗc thư tín dụng cho người bán. Thông thường việc thông báo và gửi tín dụng phải thông qua một ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu. Việc sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở thư tín dụng, của người xuất khẩu đối với thư tín dụng đã mở chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của họ. Ngân hàng mở thư tín dụng có trách nhiệm kiểm tra chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy các chứng từ đó phù hợp những điều đã quy định trong thư tín dụng và không mâu thuẫn với nhau thì trả tiền cho người xuất khẩu, ngược lại từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ thanh toán của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra bề ngoài của chứng từ xem có phù hợp với thư tín dụng hay không chứ không chịu trách nhiệm về việc kiểm tra tính chất pháp lý của chứng từ, tính xác thực của chứng từ... Mọi sự tranh chấp về tính bên trong của chứng từ là do người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết. Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào các bất khả kháng như: chiến tranh, đình công, nổi loạn, lũ lụt, hoả hoạn, động đất... Nếu như thư tín dụng hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi có những quy định dự phòng. Ngân hàng mở thư tín dụng phải chịu trách nhiệm và mọi hậu quả do lỗi của mình, và được hưởng một khoản thủ tục phí mở thư tín dụng từ 0,125% đến 0,5% số tiền của L/C. Ngân hàng mở L/C có thể ở nước người mua, hoặc cũng có thể ở nước người bán hay là ở nước thứ ba. + Ngân hàng thông báo (The advising bank) Thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở thư tín dụng ở nước người xuất khẩu. Khi nhận được điện thông báo thư tín dụng của ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung thư tín dụng đã nhận cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã nhận được thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. Khi nhận được bộ chứng từ thanh toán của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó đến ngân hàng mở thư tín dụng. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do sự chậm trễ hoặc mất mát chứng từ trên đường đi tới ngân hàng mở thư tín dụng, miễn là họ chứng minh được rằng đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua bưu điện. Ngoài ra còn có thể có các ngân hàng khác tham gia trong phương thức thanh toán này như: + Ngân hàng xác nhận (The firming bank) Là ngân hàng xác nhận trách nhiệm của mình sẽ cùng ngân hàng mở thư tín dụng bảo đảm việc trả tiền cho người xuất khẩu trong trường hợp ngân hàng mở thư tín dụng không đủ khả năng thanh toán. Ngân hàng xác nhận có thể vừa là ngân hàng thông báo thư tín dụng hay là một ngân hàng khác do người xuất khẩu yêu cầu. Thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. + Ngân hàng thanh toán (The paying bank) Có thể là ngân hàng mở thư tín dụng hoặc có thể là một ngân hàng khác được ngân hàng mở thư tín dụng chỉ định thay mình thanh toán tiền cho người xuất khẩu. Nếu ở nước người bán thì do ngân hàng thông báo đảm nhận trả tiền. + Ngân hàng chiết khấu (The negotiating bank) Là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu có kỳ hạn chưa đến hạn trả tiền do người bán ký phát cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. Trong thực tế nghiệp vụ về tín dụng chứng từ, không nhất thiết phải có đủ các loại ngân hàng nó tham gia. Thông thường chỉ có hai và đôi khi chỉ có một ngân hàng đứng ra làm tất cả các chức năng nói trên của ngân hàng về việc mở thư tín dụng và trả tiền thư tín dụng. ã Quyền lợi và nghĩa vụ của người mua (Người nhập khẩu) Khi hợp đồng mua bán áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì việc mở thư tín dụng của người mua là điều kiện kiên quyết cho người bán thi hành hợp đồng. Người mua phải mở thi tín dụng đúng thời hạn quy định trong hợp đồng. Người mua phải căn cứ vào nội dung của hợp đồng mua bán để làm đơn yêu cầu mở L/C và thường phải ký quỹ từ 0% đến 100% giá trị L/C tại ngân hàng mở L/C. Người mua có quyền từ chối hoàn trả toàn bộ hay một phần của số tiền thư tín dụng cho ngân hàng nếu xét bề ngoài bộ chứng từ không phù hợp với những điều kiện mà người mua đã nêu ra trong thư tín dụng. Trong trường hợp này ngân hàng mở L/C phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những sai sót của mình khi kiểm tra chứng từ. ã Quyền lợi và nghĩa vụ của người bán (Người xuất khẩu) Người bán chỉ giao hàng khi nào được biết người mua đã mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho mình. Người bán phải kiểm tra thư tín dụng xem có đúng với nội dung của hợp đồng mua bán không, nếu sai sót với hợp đồng mua bán hoặc nếu có những điều gì không rõ ràng, không có lợi cho mình thì có quyền yêu cầu người mua sửa đổi hoặc bổ sung thư tín dụng. Nội dung sửa đổi và bổ sung thư tín dụng phải được ngân hàng mở xác nhận thì mới có hiệu lực thanh toán. Sau khi giao hàng, người bán phải lập đầy đủ các chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của L/C. Người bán chỉ thu được tiền nếu như ngân hàng kiểm tra thấy các chứng từ đó phù hợp về hình thức với các điều kiện của thư tín dụng. 6.2. Thư tín dụng – một phương tiện quan trọng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Letter of Credit – L/C) Khái niệm: Thư dụng là một bức thư do một ngân hàng viết ra theo yêu cầu của người nhập khẩu (người xin mở thư tín dụng) cam kết trả tiền cho người xuất khẩu (người hưởng lợi) một số tiền nhất định với điều kiện người này thực hiện đầy đủ những khoản quy định trong lá thư đó. Nội dung của thư tín dụng: Mỗi một thư tín dụng mang những nội dung riêng biệt tuỳ theo nội dung của từng thương vụ, nhưng nhìn chung có những nội dung cơ bản giống nhau và thường không thể thiếu được trong một thư tín dụng, bao gồm: + Số hiệu địa điểm và ngày mở thư tín dụng. Số hiệu của L/C: Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của số hiệu là dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện L/C. Số hiệu của L/C còn được ghi vào các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán của L/C. Địa điểm mở L/C: Là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật. Ngày mở L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh sự cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày ngân hàng mở L/C chính thức chấp nhận đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, tức là một khế ước dân sự giữa ngân hàng và người nhập khẩu đã hình thành kể từ ngày đó, đó là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn quy định trong hợp đồng hay không. + Tên và địa chỉ của các bên có liên quan: Tên và địa chỉ của người nhập khẩu, tên và địa chỉ của người xuất khẩu (người hưởng lợi) + Loại thư tín dụng: Là một nội dung quan trọng của L/C vì mỗi loại L/C có tính chất, nội dung khác nhau, quyền lợi và nghĩa vụ của những người có liên quan với L/C đó cũng rất khác nhau. + Số tiền của thư tín dụng: Số tiền của thư tín dụng là nội dung rất quan trọng, vì vậy việc quy định nó trong L/C do đó cũng rất chặt chẽ. Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thống nhất với nhau. Không thể chấp nhận một L/C có số tiền bằng ghi bằng số và bằng chữ mâu thuẫn nhau. + Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng. Thời hạn hiệu lực của L/C: Là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở L/C (Date of issue) đến ngày hết hiệu lực của L/C (expiry of date). Thời hạn hiệu lực của L/C kéo dài quá thì người nhập khẩu bị đọng vốn, người xuất khẩu có lợi và có thời gian rộng rãi hơn cho việc lập và xuất trình chứng từ thanh toán. Ngược lại thời hạn hiệu lực của L/C quá ngắn lại gây khó khăn cho người xuất khẩu trong việc lập và xuất trình chứng từ thanh toán, vì thời gian quá eo hẹp. Ngoài ra còn phải chú ý là, nếu thời hạn hiệu lực của L/C dưới 3 tháng thì phí thông báo của L/C chỉ phải chịu là 0,1%, còn có trên 3 tháng là 0,2%. Vì vậy cần xác định thời hạn hiệu lực của L/C hợp lý, có nghĩa là vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu vừa không gây khó khăn cho việc xuất trình chứng từ thanh toán của người xuất khẩu. Việc xác định này cần phải thoả mãn các nguyên tăc sau đây: Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được trùng với ngày hết hiệu lực của L/C. Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, không trùng với ngày giao hàng một thời gian hợp lý này được tính tối thiểu bằng tổng số ngày phải có để thông báo L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng thông báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập khẩu. Ngày hết hạn hiệu lực của L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý. Thời tối thiểu phải bằng hoặc lớn hơn 21 ngày làm việc. Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ từ nơi giao hàng đến cơ quan của người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ thanh toán, số ngày vận chuyển chứng từ thanh toán đến ngân hàng mở L/C (ngân hàng trả tiền), số ngày lưu chứng từ tại ngân hàng thông báo. Thời hạn trả tiền của L/C (Date of payment): Thời hạn trả tiền của L/C chỉ việc trả tiền ngay hay trả tiền sau. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của hợp đồng. Nếu việc đòi hỏi tiền bằng hối phiếu, thì thời hạn trả tiền được quy định ngay trong hối phiếu. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền ngay, hoặc nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền ngay, hoặc nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền có kỳ hạn. Song những hối phiếu có kỳ hạn cần phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C. Thời hạn giao hàng (Date of delivery): Thời hạn giao hàng được ghi nhận trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định. Như trên ta thấy thời hạn giao hàng có quan hệ mật thiết với thời hạn hiệu lực của L/C. Nếu vì lý do nào đó mà phải kéo dài thời gian giao hàng, thì đương nhiên ngân hàng mở L/C cũng phải hiểu rằng thời hạn hiệu lực của L/C cũng mặc nhiên được kéo dài ra bấy nhiêu ngày. Ngược lại nếu thời hạn hiệu lực của L/C kéo dài thì không có nghĩa là thời hạn giao hàng cũng được kéo dài. + Những nội dung về hàng hoá Tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu,... cũng được ghi đầy đủ vào L/C. + Những nội dung về vận tải , giao nhận hàng hoá: Điều kiện cơ sở giao hàng (FOB, CIF, C&f...) nơi gửi hàng hóa và nơi giao hàng, cách vận chuyển và cách giao hàng... cũng được ghi vào L/C. Nếu nhận thấy những điều kiện giao hàng ghi trong L/C không thể thực hiện được thì người xuất khẩu có thể đề nghị điều chỉnh L/C. + Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình. Đó là nội dung then chốt, bởi vì bộ chứng từ thanh toán quy định trong L/C là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều quy định của L/C. Do vậy ngân hàng mở L/C phải dựa vào đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định trong L/C. Các loại chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình, nhiều hay ít phụ thuộc vào yêu cầu của người nhập khẩu, mà các yêu cầu này thường được thoả thuận trong hợp đồng. Số lượng của mỗi loại chứng từ thanh toán mà người xuất khẩu phải xuất trình. Yêu cầu về việc ký phát các loại chứng từ này cần phải được nêu rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ trong L/C. Các yêu cầu này xuất phát từ đặc điểm của hàng hóa, của phương thức vận tải và giao nhận, của công tác giao nhận và tín dụng, của tính chất hợp đồng và các nguồn pháp lý có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đó. Thường người nhập khẩu và ngân hàng mở thư tín dụng buộc người xuất khẩu phải xuất trình những loại chứng sau đây: Hoá đơn thương mại (Commercial invoice) Vân đơn đường biển (Bill of lading) hoặc vận đơn hàng không (airwaybill) hoặc vận đơn đường sắt (Railwaybill) Hối phiếu (Bill of exchange) Phiếu đóng gói (Packinh List) Phiếu trọng lượng (Weight List) Chứng từ bảo hiểm (insurance Document – I/P hoặc I/C) Giấy chứng nhận số lượng (Certifficate of Quantity) Giấy chứng nhận số lượng (Certifficate of Quantity) Giấy chứng nhận xuất xứ (Certiffcate of origin) Hoá đơn lãnh sự hoặc hoá đơn hải quan (Consular Invoice hoặc Customs Invoice) Ngoài ra đối với các hàng hoá như thực phẩm, động thực vật tươi sống, người xuất khẩu còn cần phải xuất trình một số giấy tờ bổ sung như: Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật (Phytosanitary Certificate) Giấy chứng nhận vệ sinh (Sanitary Certificate) Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật (Varitary Certificate) + Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở thư tín dụng: Đây là nội dung cuối cùng của L/C và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở thư tín dụng đối với thư tín dụng này. Nội dung cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C trong các mẫu L/C là tương tự nhau cùng nói lên rằng: Đây là sự cam kết thực sự (engagement) Là sự cam kết có điều kiện (engagement of condition) Là sự cam kết dự phòng (qualified engagement) Tức là ngân hàng chỉ cam kết tôn trọng các hối phiếu xuất trình đúng hạn và phù hợp với điều kiện của L/C, còn việc trả tiền hay không phụ thuộc vào việc xem xét bộ chứng từ thanh toán có phù hợp với L/C hay không và không mâu thuẫn với nhau. + Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng. Thư tín dụng thực chất là một khế ước dân sự, do vậy người ký L/C cũng phải là người có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý để tham gia và thực hiệnmột quan hệ dân luật. Tính chất của thư tín dụng: Thư tín dụng là văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng nước người mua đối với người bán để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán, do đó thư tín dụng phải được mở ra trên cơ sở của hợp đồng mua bán. Cụ thể là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán như tên hàng, số lượng, tổng giá trị... là căn cứ duy nhất của người mua, dựa vào đó để mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho người bán. Nhưng vì L/C lại do ngân hàng mở để cam kết trả tiền theo yêu cầu của người mua, cho nên sau khi thư tín dụng được mở tại một ngân hàng nhất định vào một thời gian nhất định thì nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Tính chất độc lập của thư tín dụng thể hiện ở chỗ là nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi của L/C (tức là người xuất khẩu) không phụ thuộc vào quan hệ giữa người mua và người bán. Mặt khác mối quan hệ giữa ngân hàng với người mua cũng không liên quan đến người khác. Cụ thể là ngân hàng mở L/C không cần biết đến hợp đồng mua bán, mà chỉ căn cứ vào nội dung của L/C để trả cho người bán, ngân hàng không cần biết đến nội dung của L/C có đúng hợp đồng mua bán hay không, việc giao hàng thực tế có đúng với nội dung các chứng từ xuất trình cho ngân hàng hay không. Khi trả tiền, ngân hàng căn cứ vào những chứng từ do người bán xuất trình, nếu các chứng từ đó bề ngoài phù hợp với các điều kiện của L/C thì trả tiền cho người bán “ Các ngân hàng không chịu trách nhiệm về hình thức, sự hoàn bị, tính chính xác, tính chân thực, hoặc sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất cứ chứng từ nào hoặc những điều kiện chung và hoặc riêng được quy định trong các chứng từ... Ngân hàng không chịu trách nhiệm về tên hàng, số lượng, trọng lượng...” (Điều 15 Bản quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ bản sửa đổi 1993 số 500). Nói một cách khác, việc thanh toán của ngân hàng không căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá mà chỉ căn cứ trên chứng từ có liên quan. Nếu xảy ra tình trạng hàng hoá thực tế không đúng vớ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV566.doc
Tài liệu liên quan