Đề tài Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân hàng ở Việt Nam

MỤC LỤC

Mở đầu:

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu 1

2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

4. Phương pháp nghiên cứu 4

4.1.Phương pháp so sánh 4

4.2. Phương pháp phân tích tỷ lệ 5

4.3. Phương pháp tính toán chỉ số ngành 6

4.3.1. Chọn mẫu chủ quan 6

4.3.2. Chọn mẫu tạo sự thuận tiện 7

4.3.3. Chọn mẫu định mức 7

5.Cấu trúc đề tài 8

Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành

1.1. Khái quát về ngành kinh tế 9

1.1.1. Khái niệm ngành kinh tế 9

1.1.2. Phân loại ngành kinh tế 10

1.1.2.1. Phân ngành của tổng cục thống kê 10

1.1.2.2. Phân ngành của GICS 11

1.1.2.3. Phân ngành của ICB 13

1.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích 19

1.2.1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu phân tích 19

1.2.2. Các tỷ số tài chính cơ bản trong phân tích tài chính 20

1.2.2.1. Các tỷ số thanh toán 20

1.2.2.2. Các tỷ số hoạt động 21

1.2.2.3. Các tỷ số đòn bẩy tài chính 23

1.2.2.4. Các tỷ số sinh lợi 25

1.2.2.5. Các tỷ số giá trị thị trường 25

1.2.3. Nhóm chỉ tiêu phân tích tài chính trong ngân hàng 26

1.2.3.1. Nội dung phân tích 26

1.2.3.2. Phân tích về vốn 28

1.2.3.3. Phân tích chất lượng tài sản 30

1.2.3.4. Phân tích khả năng sinh lời 32

1.2.3.5. Phân tích khả năng thanh toán 34

Chương II : Thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam:

2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng thương mại 36

2.1.1. Khái niệm ngành ngân hàng 36

2.1.2. Khái quát quá trình phát triển hệ thống NHTM Việt Nam 37

2.1.3. Hệ thống tổ chức của khối NHTM Việt Nam 38

2.1.4. Các đặc điểm chính của hệ thống NHTM Việt Nam 40

2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động các NHTM 46

2.2. Các hoạt động chính của NHTM 50

2.2.1. Hoạt động huy động vốn 50

2.2.2. Hoạt động tín dụng 52

2.2.3. Các hoạt động khác 53

Chương III: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành NH ở Việt Nam

3.1. Dư nợ / Tổng tài sản 55

3.2. Tình trạng nợ xấu 58

3.3. Hệ số an toàn vốn 60

3.4. ROA 62

3.5.ROE 65

3.6. Nhận xét chung 66

Kết luận 68

Tài liệu tham khảo

 

doc72 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2855 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cẩn thận việc thanh toán các khoản phải thu…Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn của họ, lúc đó các khoản phải thu quay được một vòng. Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu / Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu / Doanh thu bình quân ngày Vòng quay các khoản phải thu hay kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của công ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng nếu số vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu. Ngoài ra khi xem xét cần phải phát hiện ra các khoản nợ đã quá hạn trả và có biện pháp xử lý. Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho là chỉ tiêu đánh giá công ty sử dụng hàng tồn kho của minh hiệu quả như thế nào : Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu thuần / Hàng tồn kho bình quân Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm ngành kinh doanh Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Tỷ số này nói lên một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ở công ty. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần / Tài sản cố định bình quân. Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản đo lường một đồng tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần là một chỉ tiêu rất hữu ích trong việc phân tích khái cạnh tài chính của công ty. Thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu và vốn cổ phần. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần / Vốn cổ phần bình quân. 1.2.2.3. Tỷ số đòn bẩy tài chính Tỷ số đòn bẩy tài chính đánh giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn vay. Khi công ty vay tiền, công ty luôn phải thực hiện một chuỗi thanh toán cố định. Và các cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi thanh toán cho chủ nợ, nợ vay được xem như là tạo ra đòn bẩy. Trong thời kỳ khó khăn, các công ty có đòn bẩy tài chính cao có khả năng không trả được nợ. Vì thế công ty muốn vay tiền, ngân hàng sẽ đánh giá xem công ty có vay qua nhiều hay không? Ngân hàng cũng xem xét công ty có duy trì nợ vay của mình trong hạn mức cho phép hay không? Các nhà cung cấp tín dụng căn cứ vào tỷ số đòn bẩy tài chính để ấn định mức lãi suất cho vay đối với công ty (vì công ty càng có nhiều nợ vay, rủi ro về mặt tài chính càng tăng). Ở các nước phát triển, người ta đánh giá được rủi ro này (β) và tính vào lãi suất cho vay. Điều đó có nghĩa là công ty càng vay nhiều thì lãi suất cang cao. Đối với công ty, tỷ số đòn bẩy tài chính sẽ giúp các nhà quản trị tài chính lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý nhất cho công ty của mình. Qua tỷ số đòn bẩy tài chính nhà đầu tư thấy được rủi ro về tài chính của công ty dẫn đến quyết định đầu tư của mình. Nếu tử số được xác định theo kỳ, mẫu số được xác định tại thời điểm thì phải lấy số bình quân. Tỷ số nợ trên tài sản Tỷ số này cho ta thấy bao nhiêu phần trăm tài sản của công ty được tài trợ bằng vốn vay. Tỷ số nợ = Tổng nợ / Tổng tài sản Tổng nợ: bao gồm toàn bộ khoản nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm lập báo cáo tài chính gồm : các khoản phải trả vay ngắn hạn, nợ dài hạn do đi vay hay phát hành trái phiếu dài hạn. Tổng tài sản : toàn bộ tài sản của công ty tại thời điểm lập báo cáo. Tỷ số nợ trên vốn cổ phần Một tỷ số khác cũng được sử dụng để tính toán mức độ đi vay( rủi ro về tài chính) mà công ty đang gánh chịu đó là tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần. Tổng tài sản trên vốn cổ phần = Toàn bộ tài sản / Vốn cổ phần . Khả năng thanh toán lãi vay Lãi vay hằng năm là chi phí cố định và chúng ta muốn biết công ty sẵn sàng trả lãi đến mức nào. Cụ thể hơn nữa chúng ta muốn biết rằng liệu số vốn đi vay có thể sử dụng tốt đến mức nào, có thể đem lại khoản lợi nhuận bao nhiêu? Có thể bù đắp lại lãi vay hay không. Tỷ số này dùng để đo mức độ mà lợi nhuận phát sinh do sử dụng vốn để đảm bảo trả lãi vay như thế nào. Nếu công ty quá yếu về khoản này, công ty có thể đi đến kiện tụng và tuyên bố phá sản. Khả năng thanh toán lãi vay = Lãi trước thuế và lãi vay (EBIT) / Lãi vay 1.2.2.4. Tỷ số sinh lợi Tỷ số sinh lơi đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo nên lợi nhuận như doanh thu, tổng tài sản, vốn cổ phần. Tỷ số sinh lợi trên doanh thu Tỷ số này nói lên một đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất sinh lơi trên doanh thu = Lợi nhuận ròng / Doanh thu thuần Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi trên một đồng vốn bỏ ra đầu tư vào công ty ROA = Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản bình quân (%). Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROE) Chỉ tiêu này cho thấy khả năng tạo lãi của một đồng vốn họ bỏ ra để đầu tư vào công ty. ROE = Lơi nhuận ròng / Vốn cổ phần bình quân (%) Sự khác nhau giữa tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lời trên vốn cổ phần là do công ty có sử dụng vốn vay. Nếu công ty không có sử dụng nợ vay thì hai chỉ số này bằng nhau. 1.2.2.5. Tỷ số giá trị thị trường Thu nhập mỗi cổ phần (EPS) Thu nhập trên mỗi cổ phần là một yếu tố quan trọng nhất, quyết định giá trị của cổ phần bởi vì nó đo lường sức thu nhập chứa đựng trong một cổ phần hay nói cách khác nó thể hiện thu nhập mà nhà đầu tư có được khi mua cổ phần. Thu nhập mỗi cổ phần = Thu nhập ròng mỗi cổ phần thường / Số lượng cổ phần thường lưu hành. Thu nhập ròng của mỗi cổ phần thường được tính bằng cách lấy lãi ròng trừ đi tiền lãi của cổ phần ưu đãi. Tỷ lệ chi trả cổ tức Tỷ lệ chi trả cổ tức = Cổ tức mỗi cổ phần / Thu nhập mỗi cổ phần Tỷ lệ chi trả cổ tức nói lên công ty chi trả phần lớn thu nhập cho cổ đông hay giữ lại để tái đầu tư. Đây là một nhân tố quyết định đến giá trị thị trường của cổ phần Tỷ số giá thị trường trên thu nhập Tỷ số giá thị trường trên thu nhập = Giá thị trường mỗi cổ phần / Thu nhập mỗi cổ phần. Chỉ tiêu này phản ánh giá thị trường đắt hay rẻ. 1.2.3. Nhóm chỉ tiêu phân tích tài chính trong ngân hàng Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu phân tích đối với mỗi ngành khác là khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành. Ví dụ như đối với các công ty nằm trong ngành sản xuất kinh doanh thì vòng quay các khoản phải thu và vòng quay hàng tồn kho đóng vai trò quan trọng, trong khi đó đối với ngành ngân hàng thì hai chỉ tiêu này lại hoàn toàn không được nhắc đến, vì mặt hàng kinh doanh của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ. Sau đây sẽ giới thiệu về ngành ngân hàng và xây dựng chỉ tiêu phân tích cho ngành ngân hàng tại Việt Nam. 1.2.3.1. Nội dung phân tích Phân tích tài chính NHTM là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm xác định vị trí và đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ, hiện tại, đánh giá rủi ro, mức độ và hiệu quả hoạt động của NHTM. Như đã trình bày, NHTM đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của một quốc gia. Bên cạnh vai trò là người khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có cơ hội đầu tư sinh lời, NHTM còn là mạch máu, là điều kiện sống còn giúp cho nền kinh tế vận hành nhịp nhàng, hữu hiệu. Ngày nay các ngân hàng đang phải chịu những sức ép rất lớn: một mặt phải đáp ứng mục tiêu của các cổ đông, nhân viên, người gửi tiền và khách hàng vay vốn; mặt khác lại phải đảm bảo yêu cầu của các nhà lập pháp về sự lành mạnh do hoạt động trong nền kinh tế quốc dân, liên quan đến lợi ích đông đảo của cá nhân và các tổ chức hoạt động trong nền kinh tế, vì vậy tình hình tài chính có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế và tâm lý của công chúng. Hơn thế nữa, trước yêu cầu công khai hóa báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư, công chúng gửi tiền cũng như khi hoạt động trên thị trường mở, các báo cáo tài chính của ngân hàng được xem xét rất kỹ lưỡng bởi các nhà đầu tư và đông đảo công chúng. Thực tế này đã tạo được một sức ép lớn đối với Hội đồng Quản trị trong việc đặt ra và đạt được các mục tiêu trong hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy, phân tích tài chính của ngân hàng là một công tác có tầm quan trọng đặc biệt giúp cho các nhà quản lý đánh giá tình hình tài chính hoạt động của các ngân hàng và có những định hướng và bước đi đúng đắn. Đối với các cơ quan giám sát, phân tích tài chính là công cụ để các cơ quan giám sát nắm rõ thực trạng tài chính để có biện pháp quản lý và điều chỉnh. Phân tích tài chính NHTM cung cấp cho các nhà quản lý kinh tế tài chính vĩ mô cũng như vi mô những tín hiệu cần thiết để quản lý, diều hành và đưa ra những quyết định phù hợp. Ở tầm vi mô, phân tích tài chính là công cụ để cảnh báo sớm đối với các nhà quản trị ngân hàng thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức, đối với hoạt động ngân hàng. Việc phân tích dựa trên phân tích theo mô hình CAMEL 5 khía cạnh cơ bản: vốn, chất lượng tài sản, quản lý, khả năng sinh lời và tính thanh khoản khi đánh giá tình hình hoạt động và tài chính của TCTD. Tuy nhiên, đối với các NHTM, khi vận dụng mô hình này trong phân tích tài chính của chính bản thân ngân hàng thì chỉ vận dụng 4 khía cạnh của mô hình là vốn, chất lượng tài sản, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán. Với phạm vi của đề tài, xin được đưa ra cơ sở lý thuyết của tất cả các chỉ tiêu phân tích. Nhưng do giới hạn của tài liệu, đề tài chỉ tính toán một số các chỉ tiêu mang tính quan trọng trong ngân hàng. 1.2.3.2. Phân tích về vốn Vốn chủ sở hữu là thước đo khả năng hấp thụ những tổn thất cuối cùng tại thời điểm thanh lý ngân hàng. Vốn chủ sở hữu lớn sẽ giúp cho ngân hàng áp dụng chiến lược kinh doanh mạo hiểm, tức chấp nhận rủi ro cao hơn nhưng khả năng sinh lời cũng cao hơn; trong khi đó nếu vốn chủ sở hữu thấp sẽ làm giảm tính năng động của ngân hàng. Khi xem xét về vốn, các nhà phân tích thường nghiên cứu tới qui mô vốn chủ sở hữu, khả năng tạo vốn từ lợi nhuận để lại của ngân hàng và quan trọng nhất là xem xét sự hợp lý về ngồn vốn của một ngân hàng trong việc bù đắp các tài sản có rủi ro qua việc xem xét mối tương quan của vốn tới tổng tài sản qui đổi theo mức độ rủi ro. Các chỉ tiêu được xem xét là: Hệ số an toàn vốn (CAR-Capital Aquadecy Ratio) CAR(%) = (Vốn tự có – Các khoản giảm trừ) / (Tổng tài sản có rủi ro nội và ngoại bảng) * 100. Vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và cấp 2: Vốn cấp 1 hay còn gọi là vốn sơ cấp gồm vốn điều lệ, các khoản dự trữ công bố chủ yếu là lợi nhuận để lại. Ngoài ra phải khấu trừ khỏi vốn cấp 1 giá trị tài chính mang lại do thương hiệu và danh tiếng của ngân hàng. Vốn cấp 1 được xem là sức mạnh thực sự của ngân hàng. Vốn cấp 2 là phần vốn phụ gồm dự trữ không công bố (chệnh lệch tăng do đánh giá lại tài sản, chứng khoán đầu tư), dự phòng bù đắp rủi ro, những công cụ vốn lưỡng tính, những công cụ nợ có kỳ hạn ưu tiên thấp. Vốn cấp 1 cộng với vốn cấp 2 tạo thành vốn tự có của ngân hàng nhưng phải tuân thủ một số qui định sau: Tổng giá trị vốn cấp 2 không được vượt quá 100% vốn cấp 1 Những công cụ nợ có kỳ hạn ưu tiên thấp tối đa bằng 50% tổng giá trị của vốn cấp 1. Dự phòng bù đắp rủi ro giới hạn ở mức tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro. Dự trữ tăng lên do đánh giá lại tài sản phải bị khấu trừ đi 50% Dự trữ tăng lên từ các loại đầu tư chứng khoán phải bị khấu trừ 60% Các khoản giảm trừ khỏi vốn tự có bao gồm phần giá trị giảm đi do đánh giá lại tài sản cố định, các loại chứng khoán đầu tư, các khoản vốn góp tại các công ty con hạch toán độc lập, các khoản lỗ lũy kế. Tổng tài sản co rủi ro là giá trị tài sản của ngân hàng được qui định theo mức độ rủi ro tương ứng với từng loại tài sản. Theo Hiệp định về vốn Basel I do Ngân hàng Trung Ương thuộc nhóm G10 ký kết năm 1988 thì tài sản của ngân hàng được chia theo 4 mức độ rủi ro là 0%, 20%, 50%, 100%. Tuy nhiên để phù hợp với quá trình thực tiễn hoạt động, đến tháng 6 năm 1999, một số qui định trong Hiệp định Basel I được sửa đổi và đến cuối năm 2001 thì Basel II ra đời và có hiệu lực áp dụng vào năm 2004. Theo Basel II, tài sản được chia thành 5 loại khác nhau: 0%, 20%, 50%, 100% và 150%. Ý nghĩa: Hệ số an toàn vốn thể hiện mức độ đảm bảo an toàn tài sản của ngân hàng, cung cấp thông tin để xác định khả năng tăng trưởng và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Để đảm bảo sự ổn định và khả năng thanh toán, các ngân hàng cần phải giữ được mức an toàn vốn tối thiểu nhằm trang trải được các khoản lỗ bất thường như khách hàng không trả được nợ đúng hạn, suy thoái kinh tế…Ngược lại, mỗi khi ngân hàng muốn gia tăng tài sản có rủi ro thì cũng cần có một số vốn tương ứng để đảm bảo cho sự mở rộng qui mô này.Theo qui định trong hiệp ước, các ngân hàng phải duy trì vốn tự có cấp 1 ít nhất bằng 4% tổng tài sản có rủi ro và duy trì vốn tự có cấp 2 it nhất bằng 8% tổng giá trị tài sản có rủi ro. Sau này, Ngân hàng Trung ương nhiều nước đã áp dụng theo và yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tối thiểu 8% đã trở thành yêu cầu bắt buộc ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, NHNN cũng yêu cầu một tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%. Việc tính toán tỷ lệ này cũng tương tự như qui định trong Basel I và được cụ thể hóa bằng quyết định số 457/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005. Hệ số đòn bẩy tài chính (Leverage) L(lần) = Tổng nợ phải trả / Vốn chủ sở hữu . Hệ số đòn bẩy là một thước đo thông dụng mức độ nợ trên vốn chủ sở hữu được nhiều ngân hàng áp dụng. Hệ số này cho biết khả năng huy động vốn của ngân hàng lớn gấp bao nhiêu lần so với vốn chủ sở hữu từ đó đo lường mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Mức trung bình ở các ngân hàng trên thế giới là 12,5 lần. Hệ số tạo vốn nội bộ (Internal Capital Generation) ICG(%) = Lợi nhuận không chia / Vốn cấp 1 *100. Hệ số tạo vốn nội bộ cho biết khả năng tăng vốn tự có của ngân hàng từ lợi nhuận để lại. Hệ số này càng lớn càng tốt. Ở các ngân hàng trên thế giới, hệ số này trên 12% được coi là tốt. 1.2.3.3. Phân tích chất lượng tài sản Chất lượng tài sản có trong kinh doanh ngân hàng là yếu tố quan trọng hàng đầu và cũng là yếu tố phức tạp nhất khi phân tích hoạt động ngân hàng. Nhiều ngân hàng sụp đổ là do nhóm tài sản rủi ro có chất lượng thấp. Đánh giá chất lượng tài sản có của ngân hàng chủ yếu là đánh giá chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng của một ngân hàng được xem xét trên một số khía cạnh như mức độ tăng trưởng tín dụng; mức độ tập trung tín dụng theo ngành hoặc lĩnh vực; hệ thống giám sát rủi ro tín dụng; chất lượng của các khoản vay và đánh giá khoản dự phòng rủi ro tín dụng. Các khía cạnh trên được xem xét cụ thể bằng các chỉ tiêu sau: Danh mục cho vay trên tổng tài sản có Danh mục cho vay trên tổng tài sản(%) = Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản có *100 Chỉ tiêu này cho biết mức độ đa dạng hóa trong hoạt động của ngân hàng. Nếu cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có nghĩa là mức dộ tập trung tín dụng lớn. Ngược lại, nếu ngân hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng trong tổng tài sản nhỏ thì ngân hàng đó hoặc là thiếu các khách hàng vay vốn hoặc là đa dạng hóa được danh mục đầu tư. Tốc độ tăng trưởng tín dụng (Credit growth rate) CGR (%) = (Dư nợ tín dụng CK – Dư nợ tín dụng ĐK) / Dư nợ tín dụng ĐK *100. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng được xem xét trong mối tương quan với giai đoạn phát triển của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng do NHNN khống chế hàng năm. Tỷ trọng dư nợ theo ngành, địa bàn. Tỷ trọng dư nơ theo ngànhi (địa bàni) (%) = Dư nợ tín dụng ngànhi (địa bàni) / Dư nợ tín dụng *100. Chỉ tiêu này cho biết liệu ngân hàng có tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành nghề hay một địa bàn hoạt động nào không ? hay nó phản ánh mức độ rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải khi đầu tư quá nhiều vào một ngành nghề, lĩnh vực đang tiềm ẩn rủi ro. Tỷ trọng dư nợ tín dụng theo ngành nghề và địa bàn hoạt động phụ thuộc vào chính sách phát triển mà Ban lãnh đạo ngân hàng theo đuổi mạo hiểm hay thận trọng, phụ thuộc vào chiến lược phát triển của các khách hàng về chiến lược mục tiêu, thị trường mục tiêu. Ngày nay, các ngân hàng đang ngày càng thực hiện đa dạng hóa danh mục cho vay để hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu (NPLs) Nợ xấu được hiểu là những khoản nợ không sinh lời hay khó thu hồi bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và các khoản nợ quá hạn sau khi đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Tỷ lệ này nhằm đánh giá chất lượng của hoạt động tín dụng, nó cho biết bao nhiêu phần trăm các khoản cho vay ra khó có khả năng thu hồi hay mức độ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng có khả năng hoàn trả thấp. Theo qui định chuẩn mực quốc tế thì tỷ lệ này dưới 1,5%. Ở Úc, tỷ lệ chuẩn là dưới 3,5% 1.2.3.4. Phân tích khả năng sinh lời Phân tích khả năng sinh lời là công việc được quan tâm nhất của mỗi ngân hàng bởi gia tăng khả năng sinh lời của ngân hàng là mục tiêu tối cao của ngân hàng. Kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh hiệu quả hoạt động của một ngân hàng, hiệu quả trong công tác quản trị, điều hành của Ban lãnh đạo Ngân hàng. Khả năng sinh lời của ngân hàng thường được phản ánh qua khả năng sinh lời của tổng tài sản và khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc phân tích khả năng sinh lời, một loạt các chỉ tiêu bổ trợ cũng như mô hình phân tích Dupont được đưa ra. Khả năng sinh lời của tài sản (ROA) ROA(%) = Lợi nhuận sau thuế / Tài sản sinh lời trung bình năm *100. Đây là chỉ tiêu thông dụng thể hiện hiệu quả quản lý, khả năng chu chuyển tài sản sinh lời của đưa vào hoạt động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho ngân hàng. Đối với các ngân hàng lớn của Mỹ, mức tốt của hệ số này là lớn hơn 1%. Khả năng sinh lời của vốn chủ (ROE) ROE(%) = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có trung bình *100. Tỷ suất này thể hiện khả năng sinh lời từ vốn góp của các cổ đông (tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn tự có của ngân hàng). Ở một khía cạnh khác, ROE chỉ là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các dổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Mức chuẩn quốc tế là từ 15-20%. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên(NIM) NIM(%) = (Thu lãi cho vay và đầu tư chứng khoán – Chi trả lãi cho tiền gửi và nợ khác) / Tổng tài sản sinh lời bình quân * 100. Tỷ lệ này đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Nó chỉ ra năng lực của Ban lãnh đạo ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu chủ yếu từ cho vay và đầu tư chứng khoán so với mức tăng của chi phí chủ yếu là chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NNIM) NNIM (%) = (Thu ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi) / Tổng tài sản sinh lời bình quân * 100. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi chủ yếu là nguồn th phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, khấu hao TSCĐ) và chi cho dự phòng tổn thất tín dụng. Đối với hầu hết các ngân hàng, chênh lệch ngoài lãi thường là âm, chi phí ngoài lãi nhìn chung vượt quá thu từ phí, mặc dù tỷ lệ thu từ phí trong tổng các nguồn thu của ngân hàng đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Chênh lệch lãi suất đầu ra – đầu vào Chênh lệch lãi suất (%) = Thu từ lãi / TS dinh lời BQ – Chi trả lãi / Nợ phải trả lãi BQ . Chênh lệch lãi suất đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất của ngân hàng. Nếu các nhân tố khác không đổi, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm khi sự cạnh tranh tăng lên, buộc Hội đồng quản trị phải cố gắng tìm ra những biện pháp tăng thu ngoài lãi (như thu phí từ dịch vụ mới…) để bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất. 1.2.3.5. Phân tích khả năng thanh toán. Các NHTM thường nhận tiền gửi hoặc vay kỳ hạn ngắn với lãi suất thấp để cho vay hoặc đầu tư với kỳ hạn dài hơn nhằm thu lãi cao hơn nên xuất hiện sự không khớp nhau về kỳ hạn của nợ phải trả và tài sản đầu tư. Kết quả là có những thời kỳ ngân hàng cần tiền mặt để cho vay them hay trả cho các khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn trong khi những khoản vay cũ của khách hàng lại chưa đến hạn trả. Do vậy, các ngân hàng thường phải duy trì một phần trong tổng tài sản của mình các tài sản tiền mặt, tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng gọi là những tài sản có tính lỏng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những khoảng thời gian đó. Các chỉ tiêu chủ yếu thường được dùng để đo lường khả năng thanh toán của ngân hàng đó là Tỷ lệ tài sản thanh khoản trong tổng tài sản(%) = Tài sản thanh khoản / Tổng tài sản * 100 Tỷ lệ tài sản thanh khoản trong tổng tài sản là chỉ số đơn giản nhất để xem xét khả năng thanh khoản của ngân hàng qua việc nhìn trực tiếp vào bảng cân đối kế toán. Tài sản thanh khoản gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, các khoản tiền gửi ngắn hạn tại các ngân hàng khác, chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu, chứng khoán khả dụng có thời gian đáo hạn dưới 1 năm. Các ngân hàng thường duy trì tỷ lệ các tài sản này chiếm khoảng 20-30% tổng tài sản. Hệ số đảm bảo tiền gửi Hệ số đảm bảo tiền gửi (%) = Tài sản thanh khoản / Tổng tiền gửi * 100 Tỷ lệ này cho biết khả năng chi trả của ngân hàng đối với yêu cầu rút tiền gửi của các ngân hàng, các TCKT, cá nhân gửi tại ngân hàng. Mức chuẩn cho chỉ tiêu này là từ 30-45%. Hệ số thanh khoản Hệ số thanh khoản (%) = Tài sản thanh khoản / Tổng nợ ngắn hạn * 100 Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của ngân hàng bao gồm tiền gửi ngắn hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư, vay NHNN hay các TCTD khác… bằng các tài sản có ngắn hạn như tiền mặt, tiền gửi ngắn hạn tại NHNN và tiền gửi tại TCTD, đầu tư chứng khoán ngắn hạn…Hệ số thanh khoản tối ưu theo chuẩn mực quốc tế là 30%. Tỷ lệ dư nợ cho vay và tiền gửi Tỷ lệ dư cho vay và tiền gửi (%) = Tổng dư nợ cho vay / Tổng tiền gửi * 100. Tỷ lệ này phản ánh khả năng tài trợ cho các khoản cho vay tăng them từ các nguồn tiền gửi. Các khoản tiền gửi qua đêm trên thị trường liên ngân hàng được coi như vốn vay nên không được tính vào tổng tiền gửi trong công thức này. Đối với các ngân hàng có qui mô lớn tầm cỡ quốc tế, mức chuẩn đối với tỷ lệ này chỉ ở mức trên 100%. Còn đối với các ngân hàng nhỏ ở qui mô khu vưc thì mức chuẩn cho tỷ lệ này ở mức 80-90%. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh khoản càng thấp. Chương II: Thực trạng hệ thống NHTM ở Việt Nam 2.1. Khái quát về hệ thống NHTM 2.1.1. Khái niệm ngành ngân hàng Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Trước hết ngân hàng là tổ chức thu hút tiền tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, ngân hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Xét trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” (Theo cuốn Quản trị ngân hàng thương mại của Peter Rose) Theo ICB ICB (Industries Classification Benchmark): Tiêu chí phân ngành được áp dụng phổ biến trên thế giới , ngân hàng là phân ngành cấp 3 thuộc phân ngành Ngân hàng trong Ngành Tài chính. Phân ngành ngân hàng được định nghĩa « Ngân hàng là tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, cho vay, chuyển tiền, … » Ở Việt Nam, khái niệm ngân hàng được định nghĩa trong luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và luật sử đổi bổ sung các tổ chức tín dụng năm 2004 như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm, NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác” Mô hình hoạt động của ngân hàng : Ngân hàng hiện đại Chức năng ủy thác Chức năng tín dụng Chức năng thanh toán Chức năng lập kế hoach đầu tư Chức năng tiết kiệm Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh Chức năng môi giới Chức năng bảo hiểm Chức năng quản lý tiền mặt Sơ đồ 2.1: Mô hình hoạt động của NHTM (Nguồn : Commercial Bank Managerment, Peter S.Rose, NXB Tài chính 2001) 2.1.2. Khái quát quá trình phát triển hệ thống NHTM ở Việt Nam Thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam(Sắc lệnh số 15/SL ngày 06/05/1951). Bãi bỏ Ngân khố quốc gia và Tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính. Chính thức đánh dấu sự ra đời của ngành ngân hàng tại Việt Nam. Các NHTM quốc doanh lần lượt ra đời : Ngân hàng Ngoại Thương thành lập năm 1962, Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam năm 1981, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân hàng ở Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan