Đề án Chính sách tỷ giá và tác động của nó tới hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam

 Nhìn lại quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá cho thấy có hai loại chế độ tỷ giá cơ bản là chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi bao gồm thả nổi tự do , và thả nổi có quản lý .

 Khó có câu trả lời đúng , dứt khoát về việc một nước nhỏ sẽ có lợi khi áp dụng tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt . Nói chung sự quản lý tối ưu TGHĐ phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nàh hoạch định chính sách , vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và vào đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét .

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách tỷ giá và tác động của nó tới hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường thế giới sẽ bị dồn vào để thu lãi cao hơn . Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi , làm cho tỷ giá không còn có cơ hội tăng nữa . Vào những năm 1971 đến năm 1973 USD rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng , tổng thống Mỹ Nixon đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên cao hơn để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế . Tuy nhiên vấn đề là : lãi suất do quan hệ cung cầu của vốn vay quyết định . Nó có thể biến động trong phạm vi lợi nhuận binh quân , và chỉ trong những trường hợp thật đặc biệt nó có thể vượt quá tỷ suất lợi nhuaanj bình quân . Còn tỷ giá thì do quan hệ cung cầu về ngoại tệ quyết định . quan hệ này bị chi phối chủ yếu bởi tình hình của cán cân thanh toán . Điều này có nghĩa là các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau , do vậy mà biến động cuả lãi suất không nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá . Vậy cho nên trong thời kì khủng hoảng USD thời kì 1971 – 1973 mặc dù lãi suất trên thị trường NewYork cao gấp rưỡi thị trường London nhưng vốn vay ngắn hạn lại được chuyển tới Tây Đức và Nhật Bản . +Các nghiệp vụ thị trường hối đoái . Đây là biên pháp trực tiếp tác động vào TGHĐ . Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ , điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định cuat sức mua đồng tiền quốc gia . Tuỳ từng quốc gia mà việc lựa chọn quy mô là khác nhau , việc mua bán ngoại tệ được thực hiện trên nguyên tắc diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp mang tính chất chủ quan của nhà nước . Việc lựa chọn các thời điểm cần mua , cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định . Đẻ nắm được một cách đầy đủ tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường , ngày nay , nhiều nước trên thế giới đã và đang tổ chức các thị trường ngoại tệ liên ngân hàng – là nơi tốt nhất để khai thác các thông tin cần thiết cho nghiệp vụ thị trường ngoại hối . Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này , chính phủ thường gặp phải những phản ứng trái ngược nhau từ phía các doanh nghiệp cũng như các taàng lớp dân cư khác nhau trong xã hội bắt nguồn từ lợi ích kinh tế . Mâu thuẫn này thường xảy ra giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và xuất khẩu , giữa những người đang nắm trong tay số lượng lớn ngoại tệ với những người trong túi chỉ có nội tệ . Giải pháp là mỗi quốc gia phải có một lượng dự trữ ngoại tệ dư sức để can thiệp vào thị trường khi cần . +Lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái . Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định thậm chí xảy ra những biến động lớn , các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một công cụ để điều chỉnh TGHĐ . Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái là : phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (Anh , Hà Lan ) . khi ngoại tệ vào nhiều thì sử sụng vốn từ quỹ dự trữ này để mua nhằm hạn chế mất giá của ngoại tệ . Ngược lại trong trường hợp vốn chạy ra nước ngoài , quỹ bình ổn hối đoái tung ngoại tẹ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành để ngăn chặn giá ngoại tệ tăng lên . Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (Pháp , Mỹ …). Theo phương pháp này khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt , quỹ dự trữ bình ổn hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán . Trường hợp khi ngoại tệ vào nhiều , quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để mua ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái . Hạn chế của phương pháp này là nó chỉ có tác dụng lớn khi khủng hoảng về ngoại tệ nghiêm trọng . Hơn nữa việc tạo lập được quỹ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất địnhvề kinh tế . III\Chính sách tỷ giá hối đoái – nguyên tắc lựa chọn Tỷ giá hối đoái là một khâu xung yếu , là cầu nối quan trọng để một nền kinh tế hội nhập với nền kinh tế thế giới . Có một chính sách tỷ giá đúng đắn sẽ góp phần quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô , thúc đẩy sản xuất phát triển . 1\ Về chính sách tỷ giá tối ưu Nhìn lại quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá cho thấy có hai loại chế độ tỷ giá cơ bản là chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi bao gồm thả nổi tự do , và thả nổi có quản lý . Khó có câu trả lời đúng , dứt khoát về việc một nước nhỏ sẽ có lợi khi áp dụng tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt . Nói chung sự quản lý tối ưu TGHĐ phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nàh hoạch định chính sách , vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và vào đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét . Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói chung tỷ giá hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hối đoái hoàn toàn linh hoạt đều không phải là tối ưu đối với ổn định kinh tế vĩ mô . Thật vậy , một mức độ tương đối của linh hoạt lại nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế , khi cần phản ứng lại với các cú sốc ngẫu nhiên . Chính vì vậy nó đã trở thành cơ chế tỷ giá phổ biến nhất ở các nước đang phát triển . Câu hỏi đặt ra là chấp nhận tới mức độ nào của sự linh hoạt trong các trường hợp cụ thể . * Như vậy là loại cơn sốc mà nền kinh tế thị trường phải đối phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định hay điều chỉnh . Có quan điểm cho rằng TGHĐ linh hoạt sẽ có tác dụng hơn về khả năng che chở của điều chỉnh tỷ giá hối đoái trước các cơn sốc bên ngoài , tức là đứng trước biến động của mặt bằng giá quốc tế , các giá cả nội địa có thể được ổn định bằng sự điều chỉnh thích đáng . Như vậy là khi có cơn sốc từ bên ngoài thì sự linh hoạt trong quản lý TGHĐ được coi là phù hợp . Còn đối với các cơn sốc nội địa việc áp dụng chế độ tỷ giá vào sẽ phụ thuộc vào tính chất của cơn sốc,đó là cơn sốc tiền tệ hay cơn sốc thực tế (xuất phát từ thị trường hàng hoá ). Khi cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xưa nay là duy trì tỷ giá cố định sẽ có hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩm vì cung tiền tệ là một biến nội sinh dưới chế đodọ tỷ giá cố định các đột biến trong thị trường tiền tệ nội địa đơn giản sẽ được hấp thụ bởi thay đổi của dự trữ ngoại tệ mà không ảnh hưởng đến điều kiện của cung cầu hàng hoá . Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì TGHĐ cần phải được điều chỉnh để ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo nên (hoặc giảm )cầu bên ngoaì . Tóm lại , theo mục tiêu của chính sách nhằm ổn định tổng sản phẩm trước các cơn sốc tạm thời , TGHĐ càn phải được điều chỉnh khi cơn lốc xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị trường hàng hoá . * Mặt khác tính chất , cơ cấu cảu nền kinh tế , ví dụ như mở cửa đối với thương mại , mức độ tự do giao lưu vốn nước ngoài và độ cứng nhắc của thị trường lao động , sẽ ảnh hưởng đến tính bảo vệ trung lập của các chế độ TGHĐ. Thoạt tiên có thể lập luận rằng nền kinh tế cùng mở cửa thì càng chứng minh cho sự cần thiết áp dụng tỷ giá cố định , vì tồn tại cái giá phải trả tiềm tàng cho các giao dịch quốc tế do thường xuyên điều chỉnh tỷ giá gây nên . Hơn thế nữa , một sự mở cửa như vậy làm cho tỷ giá cố định có hiệu lực hơn trong việc đẩy một cơn sốc tiền tệ trong nước ra nước ngoài . Mặt khác thì trong nền kinh tế mở việc điều chỉnh tỷ giá giúp cho sự ổn định tổng sản phẩmảtước các cơn sốc bên ngoài và cơn sốc nội địa . Khi mở cửa làm cho nền kinh tế bất ổn hơn trước các cú sốc bên ngoài thì có thể phải thường xuyên điều chỉnh tỷ giá hối đoái . * Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác xác định chế độ tỷ giá như mức độ giao lưu vốn , liên kết trực tiếp lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế , ví dụ như xét sự tăng lên của cầu bên ngoài do chính sách tiền tệ bành trướng và việc giảm lãi suất quốc tế gây nên . Dưới chế độ tỷ giá cố định và trong điều kiện tự do giao lưu vốn thì lãi suất nội địa giảm làm taưng thêm tác động mất ổn định từ phía cầu bên ngoài thông qua cán cân vãng lai .Trong trường hợp này TGHĐ phải giảm để ổn định tổng sản phẩm nội địa . Vởy bản chất của cơn sốc bành trướng bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách tỷ giá cụ thể . Thêm nữa , mức độ cứng nhắc của tiền lương cũng tác động đến tính hiệu lực của chính sách TGHĐ . Tác động của phá giá danh nghĩa lên các biến kinh tế vĩ mô phụ thuộc chủ yếu vào tiền lương và giá cả phản ứng như thế nào đối với phá giá . Tiền lương danh nghĩa càng tăng cao để phản ứng lại với phá giá thì tiền lương thực tế thay đổ ít .ảnh hưởng của chỉ số hoá tiền lương lên sự lựa chọn mong muốn của tỷ giá linh hoạt vì vậy là lớn . 2\ Nguyên tắc lựa chọn chế độ tỷ giá . Các nghiên cứu trên gợi một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế . Tuy vậy , trên thực tế áp dụng cũng gặp phải những khó khăn trong những trương hợp cụ thể , ví như trong thực tế , sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc , bản chấtcủa các cơn sốc là rất khó . Thêm nữa lại còn tồn tại những mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu lựa chọn . Nhận biết được nguồn gốc của các cơn sốc là khó vì nền kinh tế thường chịu đồng thời tác động của nhiều cơn sốc từ nhiều nguồn khác nhau , do đó không thể nhận biết được chính xác nếu định lượng chúng riêng biệt . Các nhân tố gây giảm sút hoạt động kinh tế có thể là : cầu nội nhập thấp , các điều kiện tiền tệ thắt chặt , cầu bên ngoài giảm . Do đó trong quá trình xem xét lựa chọn chế độ tỷ giá phải xem xét tổng thể các nhân tố tác động đến sự ổn định hay mất ổn định của kinh tế vĩ mô. Có thẻ nói chế độ tỷ giá là véctơ tổng hợp của nhiều véctơ khác nhau . Mặt khác tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợpcòn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra . Mục tiêu đó có thể là mục tiêu ổn định tổng sản phẩm . Trong trường hợp này mục tiêu ổn định cán cân thanh toán quốc tế là phải từ bỏ . Vì tổng sản phẩm sẽ ổn định khi cán cân thanh toán quốc tế làm chức năng hấp thu các cơn sốc , để triệt tiêu tác động của các thay đổi đột biến trên tổng sản phẩm . Tuy nhiên mâu thuẫn của các chính sách có thể xảy ra khi một cán cân thanh toán quốc tế cũng đưọc coi là mục tiêu chính sách . Thật vậy, sẽ là rất khó khăn khi cùng một lúc lựa chọn một chế độ tỷ giá để cơ chế đạt được nhiều mục tiêu kinh tế khác nhau , ví dụ : sử dụng TGHĐ để đẩy cơn sốc tiền tệ thuận chiều ra nước ngoài có thể là không khả thi nếu dự trưc ngoại tệ ở dưới mức cần thiết . Cũng như vậy , việc giảm TGHĐ nhằm trung lập hoá sự tăng lên trong cầu nội địa sẽ làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế . Tất nhiên việc đạt được đồng thời các mục tiêu là cũng có thể đạt được thí dụ như , một cơn lốc nội địa không thuận lợi đòi hỏi phải phá giá tỷ giá để ổn định tổng sản phẩm và đồng thời cả thiện cán cân thanh toán quốc tế . Do đó trong quá trình lựa chọn chế độ tỷ giá phải có sự cân nhắc , xem đâu là mục tiêu cơ bản trước mắt để có quyết định cho phù hợp . Ví dụ , khi cán cân thanh toán có vấn đề thì TGHĐ được sử dụng như một công cụ đạt mục tiêu . mặt khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì TGHĐ làm chức năng hõ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả . 3\ Một số kết luận . Những phân tích trên đây giúp chúng ta phần nào hiểu được tính chất phức tạp khi lựa chọn một chế độ tài chính để thoả mãn những mục tiêu khác nhau . Lập luận truyền thống trước đây cho rằng cách chấp nhận chế đọ tỷ giá linh hoạt , chính phủ sẽ được tự do lựa chọn chính sách tiền tệ của mình theo đúng các múc tiêu trong nước , cho phép TGHĐ tự điều chỉnh cân bằng cán cân thanh toán quốc tế . Tuy vậy cho đến nay hai lập luận này đang có vấn đề : Thứ nhất , ngày càng thấy rõ ràng với tỷ giá linh hoạt chính phủ không thể tự do lựa chọn các chính sách kinh tế trong nước mà không phụ thuộc vào hạn chế bên ngoài . Trong điều kiện tự do hoá các luồng vốn , các chính sách trong nứơc chịu ảnh hưởng lớn bởi sự vận động của TGHĐ , cán cân vãng lai … Thứ hai , liên quan đến một giả thiết then chốt của quan điểm truyền thống trước đây , là chính phủ có thể sử dụng hiệu quả tính độc lập của họ trong việc ra quyết định chính sách để ddạt các mục tiêu trong nước . Những người ủng hộ TGHĐ cố định giữ quan điểm cho rằng , tiếp nhận chế độ tỷ giá như vậy sẽ đặt ra một mức độ kỷ luật tài chính mà không có dưới chế độ tỷ giá linh hoạt . Khi đó tạo thuận lợi để đạt được giá dựa trên kinh nghiệm . Sự tranh cãi trong vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá sẽ tiếp tục mãi nếu chúng ta khong nghiên cứu chúng dựa vào sự phát triển gần đây của lý thuyết kinh tế học vĩ mô. Trước hết việc áp đặt chế độ tỷ giá cố định sẽ đặt ra những yêu cầu sau : tỷ lệ lạm phát thế giới quy định tỷ lệ làm phát nội địa , một tỷ lệ nào đó của cung tiền phải được bảo đảm bằng dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá so sánh cố định nếu không tỷ giá so sánh cố định không duy trì được . Từ đó tốc độ tăng tín dụng nội địa không thể cao hơn tốc độ tăng cầu tiền tệ danh nghĩa trong dài hạn . Thời kì chuyển tiếp bành trướng nhanh tín dụng là khong thích hợp với duy trì tỷ gia so sánh cố định . Để làm cho chế độ TGHĐ có được lòng tin , chính phủ bỏ quyền thay đổi tỷ giá , điều này có thể đạt được bằng cách tham gia khối tiền tệ . Tuy vậy sẽ tồn tại cái giá phải trả nếu hoàn toàn áp dụng chế độ TGHĐ cố định . Như là : sẽ là tối ưu nếu thay đổi tỷ giá để phản ứng lại các cơn sốc dài hạn bên ngoài . Bỏ qua công cụ tỷ giá chính phủ buộc phải dựa vào các chính sách tài chính có thể dẫn tới việc thu hẹp tổng sản phẩm và giảm phát do có sự thay đổi dài hạn điểm cân bằng của TGHĐ thực , dẫn đến việc phải điều tiết lại giá cả giữa hàng hóa thương mại và hàng hóa không thương mại . điều này được chứng minh là đắt giá hơn một lần điều chỉnh giá . Tóm lại , việc diều hành tỷ giá ở các nước đã trải qua nhiều thay đổi trong thập kỷ rưỡi qua . Sự biến động của các đồng tiền chính , lạm phát đòi hỏi việc điều chỉnh tỷ giá thường xuyên hơn . Rồi các cơn sốc kinh tế bên ngoài cũng đưa đến việc chuyển đổi chế độ tỷ giá từ cố định sang linh hoạt . Việc lựa chọn chế độ tỷgiá tối ưu cũng phải dựa trên một số tiêu chuẩn gồm : mục tiêu của chính phủ , bản chất của các cơn sốc ngoại sinh và đặc trưng cơ cấu của nền ki nh tế . Chương II : Việt nam với tiến trình cải cách tỷ giá hối đoái I \ Lịch sử tỷ giá hối đoái 1\ Tổng quan về lịch sử nhìn lại lịch sử các chế độ tỷ giá của Việt nam trong những thập niên qua chúng ta thấy đã có nhiêù thay đổi , từ một chế độ tỷ giá bao gồm : tỷ giá kết toán nội bộ , (áp dụng cho hàng hóa xuất nhập khẩu ) , tỷ giá chính thức ( áp dụng cho trao đổi phi mậu dịch ), tỷ giá kiều hối … Từ 25/11/1995 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt nam và NDT của trung quốc được quy định là 1NDT =1470 VND , lúc đó 1 Rúp =0,5NDT . Sau đó tỷ giá VND với NDT và Rúp có nhiều thay đổi . Bên cạnh tỷ giá trên , nhà nước còn dùng nhiều tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị có chi thu ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương .Từ chế độ tỷ giá trên đây có thể rút ra một số nhận xét . Tỷ giá được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do nhà nươc quy định , không xuất phát từ yêu cầu thực tại cuả nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước . TGHĐ giữ vai trò thụ động ( chủ yếu làm chức năng thanh toán , công cụ để lập kế hoạch ), chưa phải là công cụ điều chỉnh vĩ mô thực thụ . Do việc xác lập TGHĐ duy ý chí , không tuân thủ quy luật kinh tế , các quy trình kinh tế ngay cả với kinh tế kế hoạch . Vì vậy nó không chỉ cản trở các quan hệ kinh tế của ta với khối SEV , mà còn gây nhiều khó khăn trong trao đổi thanh toán nội bộ , trong công tác quản lý , điều hành của nhà nước , đặc biệt là thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu . Do sử dụng tỷ giá kết toán , nội bộ trong quản lý ngân sách nàh nước , đã làm cho việc tính toán và phán ánh thu chi ngân sách nhà nước bị sai lệch nghiêm trọng , công tác điều hành ngân sách nhà nước khó khăn , làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân sách nhà nước , đặc biệt là khâu sử dụng vốn và quản lý . Sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài (1985) đặc biệt là sau khi thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 , luồng ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt nam . Chúng ta chỉ dùng tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mau thực tế của USD và thị trường chợ đen .  Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường 1985 15 115 1986 680 425 1987 368 1270 1988 3000 5000 1989 3900 4100 Tuy nhiên , mức chênh lệch giữa hai loại tỷ giá tính theo tỷ lệ % cũng giảm rất rõ: Năm 1985 là : 666,6% Năm 1986 là : 431,2% Năm 1987 là : 245, 1% Năm 1988 là : 66,6 % Tóm lại , trước cải cách nước ta có hệ thống tỷ giá khá phức tạp được xác lập theo quan điểm kinh tế cũ không còn phù hợp với thực tế đời sống kinh tế đang biến đổi sâu sắc .Hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho quản lý , điều hành trong lĩnh vực tài chính , tiền tệ , kinh tế đối ngoại , đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế . Chính vì vậy nhu cầu đổi mới trong lĩnh vực tỷ giá nói riêng , tài chính – tiền tệ nói chung trở thành vấn đề cấp bách . 2\ Bối cảnh kinh tế – chính trị của cuộc cải cách tỷ giá hối đoái . Từ đại hội lần thứ VI của Đảng CS Việt nam công cuộc cải cách kinh tế của Việt nam được tiến hành một cách toàn diện với những mục tiêu cụ thể . Đổi mới cơ bản nội dung và phương thức vận hành các chính sách kinh tế , tăng cường sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ ,các chính sách kinh tế khó khăn thủ tiêu tình trạng tình trạng siêu lạm phát , thâm hụt ngân sách Cải cách , thiết lập và hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế mới ( đặc biệt là hệ thống ngân hàng – tài chính )để nền kinh tế dần bước vào ổn định và tăng trưởng . Công cuộc cải cách kinh tế cũng xác định một số khâu đột phá và một số lĩnh vực cụ thể mà trong đó cần quan tâm đến lĩnh vực tài chính tiền tệ , trong đó coi vấn đề TGHĐ chính là một trong những khâu đột phá , có vai trò cực kì quan trọng với quá trình cải cách . Tuy vậy , nhưng trong quá trình cải cách kinh tế chúng ta phải đối mặt với những khó khăn to lớn như : hậu quả chiến tranh làm cho kinh tế trì trệ , những sai lầm trong lĩnh gvực tiền tệ – tín dụng làm cho lưu thông tiền tệ rối loạn , lạm phát bùng nổ làm nhà nước bất lực giai đoạn 1981- 1984 tốc độ lạm phát bình quân là 70% , nền tài chính eo hẹp ốm yếu phụ thuộc nặng nề vào tài trợ bên ngoài . Thêm nữa , sự tan rã và sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã tác động vào đời sống kinh tế – xã hội . Có thể nói chưa bao giờ chúng ta phải đối mặt với khó khăn chồng chất như thế . Trước tình hình đó con đường giải pháp duy nhất cho chúng ta là phải cải cách . 3\Một số giải pháp cải cách liên quan đến tỷ giá hối đoái . Thứ nhất, không thể duy trì chế độ tỷ giá cũ vì vừa phức tạp lại không có khả năng quản lý ngoại hối , bù lỗ xuất khẩu , nhập khẩu vượt quá khả năng chịu đựng của ngân sách nhà nước . hơn nữa , nếu cố định tỷ giá trong bối cảnh lạm phát rất cao thì nó tiếp tục là trở ngại lớn cho xuất khẩu . Thứ hai , khi chính phủ có chính sách hỗ trợ đúng đắn thì phá giá trở thành xung lực tạo ra sự đột phá mạnh trong xuất khẩu , nhất là cho việc thâm nhạp vào thị trường khu vực . Thứ ba, phá giá một mặt sẽ tạo cho chính phủ có thêm dự trữ ngoại tệ phục vụ cho điều chỉnh vĩ mô , có khả năng can thiệp giảm áp lực đàu cơ ngoại tệ , giảm áp lực cầu ngoại tệ , kìm hãm xu hướng gia tăng quá mức nhập khẩu . Bên cạnh giải pháp tỷ giá còn phải cải cách các chính sách tài chính tiền tệ nhằm đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ lớn là ổn định nền tài chính và khong cho phép thu hẹp sản xuất . Mặt khác , do tỷ giá rất nhạy cảm với các sự kiện kinh tế , chính trị , vì vậy nguy cơ tạo ra các cú sốc vẫn còn lớn . Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế , một mặt tăng cường công khai hoá kịp thời các chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức , tỷ giá thị trường , tốc độ lạm phát , chỉ số biến động của vàng , nhờ vậy giảm căn bản sự “phao tin “ của tầng lớp đầu cơ , giảm tâm lý hoang mang . II\ Thực trạng chế độ tỷ giá - định hướng điều chỉnh 1\ Thực trạng : Từ sự phân tích ở trên về toàn cảnh cơ chế tỷ giá hối đoái giai đoạn trước đổi mới (1986) ta thấy hệ thống tỷ giá của ta còn khá phức tạp . Tỷ giá được xác lập theo quan điểm kinh tế cũ không phù hợp gây ra những tác động tiêu cực : + Tác động tới vấn đề ngân sách Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp đến thu chi ngân sách . Trước 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ , mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian dài gây tác động tiêu cực . Đối với hàng nhập khẩu , khi nguyên vật liệu về nước , nhà nước đứng ra phân phối với mức giá thấp . Như vậy các ngành địa phương được phân phối thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách phải bù lỗ . Thêm nữa việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán hàng xuất – nhập khẩu đã làm nảy sinh 2 khuynh hướng : Thứ nhất, nếu ta giao hàng xuất khẩu cho nước bạn để có hàng nhập khẩu thì mức bù lỗ cho hàng xuất khẩu quá lớn . Thứ hai , nếu ta không giao hàng đúng thời hạn , tiến độ thì ta lại tăng nghĩa vụ nợ với nước bạn . Một vấn đề nữa là các tổ chức cá nhân do tỷ giá thấp , sẽ không bán ngoại tệ cho ngân hàng hoặc thanh toán ngoại tệ cho ngân hàng , vì làm vậy sẽ mất lãi … Do đó sơ chế tỷ giá của thời kì này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi , mua bán trên thị trường trong nước gây thiệt hại cho nhà nước , làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ với ngoại tệ thêm phức tạp . Như vậy việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt nam so với ngoại tệ kế hoạch hóa và ổn định nền kinh tế nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt nam vào ngõ cụt , khong khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu . Hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng . Ngân sách nhà nước phải gánh chịu thua thiệt . Khi đó buộc phải thả nổi và phá giá đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm . + Tác động đến nợ nước ngoài . Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nứơc ngoài và công tác quản lý nợ . Thiếu vốn vay , nhưng vay của ai và điều kiện vay như thế nào thì phải xem xét kỹ . Một thực tế là nếu TGHĐ đồng Việt nam hạ , động ngoại tệ tăng , thì khoản trả nợ ngân sách nhà nước của doang nghiệp tăng , nhưng xuất khẩu hàng hóa , dịch vụ lại có lợi đó là một bài toán khó . Có thể đưa ra đây một ví dụ để minh chứng cho tác động của TGHĐ với nợ nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn này . Trước năm 1979 , Việt nam có sử dụng 20 tỷ yên Nhật tương đương với 92 triệu USD . Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật lại cho Việt nam vay 20 tỷ yên tương đương với 159 triệu USD . Đầu năm 1995 đồng yên lên giá , 1USD là 90 yên ( trước đây là 216 yên = 1USD; 160 yên = 1USD ).Như vậy là về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá cảu đồng yên Nhật , đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc quy ra USD . Trên đây là những phân tích tổng quan về tác động của chế độ tỷ giá cũ với các mặt của nền kinh tế vĩ mô . Để có được cái nhìn rõ ràng về lịch sử chế độ tỷ giá của Việt nam , chúng ta sẽ nhìn lại từng giai đoạn phát triển chế độ tỷ giá VN để có được sự nhận thức đúng đắn về sự đổi mới từ trong quản lý về vấn đề tỷ giá hối đoái . + Giai đoạn 1955- 1989 : Mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng các nước trong hệ thống XHCN với cơ chế kế hoạch hoá tập trung , nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi hoạt động kinh tế thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại và phát huy tác dụng thay vào đó là tỷ giá cố định . Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh biên giới nhằm giải quyêt nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm kháng chiến chống Pháp . N hư vậy chế độ tỷ giá này đã gây khong ít khó khăn cho quản lý điều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ , kinh tế đối ngoại , đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nềnkinh tế . Chính vì vậy , nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng , đổi mới lĩnh vực tài chính nói chung trở thành vấn đề cấp bách . + Thời kỳ “thả nổi” tỷ giá hối đoái 1989- 1992 Trong giai đoạn này TGHĐ VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng USD tăng liên tục kèm theo các cơn sốt . Tỷ giá hối đoái VND /USD từ năm 1989 đến năm 1992 Tháng 1 Tháng3 Tháng 6 Tháng 9 Tháng12 1989 -Ngân hàng 3500 4200 4350 4100 4200 -Tư nhân 5200 5350 4400 4225 4575 1990 - Ngân hàng 4300 4300 4800 5750 6650 -Tư nhân 4650 4450 5600 6300 7050 1991 -Ngân hàng 7000 7400 8300 10700 12900 -Tư nhân 7400 7900 8830 11050 12550 1992 - Ngân hàng 11880 11550 11285 10950 10720 -Tư nhân 12200 11550 11290 10980 10650 Trong thời kỳ này nhà nước đã có nhiều thay đổi trong quản lý tỷ giá , từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hóa và duy trì tương đối ổn định tỷ giá này . Nhưng chúng ta thấy vẫn còn có sự chênh lệch lớn giữa nhà nước và thị trường trong vấn đề tỷ giá . những quan điểm về quản lý của chính phủ không có kết qủa , ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ . Như vậy , mặc dù trên danh nghĩa nhà nước thi hành cơ chế quản lý chặt chẽ tỷ giá bị th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32344.doc
Tài liệu liên quan