Đề tài Xây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU . . . 1

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG . . . 2

1. Thương hiệu . . . . 2

1.1. Khái niệm . . . . 2

1.2. Các yếu tố cấu thành . . 4

2. Thương hiệu dị ch vụ. . 8

2.1. Khái niệm . . . . 8

2.2. Những yếu tố cấu thành . . . 9

3. Thương hiệu giáo dục đại học. . . 12

3.1. Khái niệm . . . . 12

3.2. Các yếu tố cấu thành . . 14

4. Sự cần thiết xây d ựng thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam . 19

4.1. Nhu cầu nâng cao vị thế đất nước. . . .20

4.2. Nhu cầu tự khẳng định của các trường đại học trong bối cảnh hội nhập .21

4.3. Nhu cầu của thị trường lao động . .22

4.4. Những lợi ích kinh tế mà thương hiệu giáo dục đại học đem lại . 22

CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở

VIỆT NAM. . 24

1. Nguồn nhân lực . . . . 26

1.1. Thiếu hụt nguồn nhân lực và những lý do . . 26

1.2. Sự không đồng nhất giữa trình độ chuyên môn và khả năng sư phạm . 28

1.3. Giải pháp đề xuất . 29

2. Cơ sở vật chất . . . . 35

2.1 Tiêu chí đánh giá vẫn trên đà hoàn thiện . 36

2.2 Chất lượng cơ sở vật chất của các trường đại học trọng điểm còn nhiều bất

cập. . . . 38

4

2.3. Giải pháp khắc phục . . 43

3. Chương trình giảng dạy:. . 45

3.1. Chương trình học nặng tính lý thuyết, ít thực tiễn và sáng tạo . 45

3.2. Chương trình học mang nặng tính hình thức và thụ động . 47

3.3. Nhập khẩu giáo dục quá mức . . . 49

3.4. Giải pháp khắc phục . . 50

4. Quản lý và định hướng giáo dục . . . 52

4.1. Cơ chế đánh giá giáo dục chưa phù hợp . 52

4.1.1. Chế tài thi cử chưa phản ánh đúng thực lực sinh viên . 53

4.1.2. Cơ hội việc làm không theo năng lực . . 54

4.1.3 Giải pháp đề xuất: . . . 55

4.2. Vấn đề chuyên môn hóa trong giáo dục đại h ọc còn yếu . 59

4.2.1. Thực trạng . . .59

4.2.2. Giải pháp đề xuất: . 60

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Ở VIỆT NAM . . 62

1. Tạo dựng hình ảnh và truyền thông thương hiệu . . 63

1.1.Tạo dựng hình ảnh . . . 63

1.2. Quảng bá thương hiệu dưới nhi ều hình thức. 67

1.3. Đẩy mạnh quan hệ công chúng . . . 69

2. Từng bước giành ưu thế trong các mô hình liên kết đào t ạo. . 70

3. Chính sách ưu đãi cho giáo dục đại học . .72

4. Quản lý và đa dạng hóa giáo dục phù hợp với yêu cầu của thực tiễn: . 74

5. Giữ vững nguyên tắc trung thực để duy trì thương hiệu . . 77

KẾT LUẬN CHUNG . 80

pdf96 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu tham khảo tiếng Việt và tiếng nước ngoài đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giáo viên và người 37 học. Có thư viện điện tử được nối mạng phục vụ dạy, học và nghiên cứu khoa học có hiệu quả. 2. Có đủ số phòng học, giảng đường lớn, phòng thực hành, thí nghiệm phục vụ cho dạy, học và nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu của từng ngành đào tạo. 3. Có đủ trang thiết bị dạy và học để hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, được đảm bảo về chất lượng và sử dụng có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các ngành đang đào tạo. 4. Cung cấp đầy đủ thiết bị tin học để hỗ trợ hiệu quả các hoạt động dạy và học, nghiên cứu khoa học và quản lý. 5. Có đủ diện tích lớp học theo quy định cho việc dạy và học; có ký túc xá cho người học, đảm bảo đủ diện tích nhà ở và sinh hoạt cho sinh viên nội trú; có trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao theo quy định. 6. Có đủ phòng làm việc cho cán bộ, giảng viên và nhân viên cơ hữu theo quy định 7. Có đủ diện tích sử dụng đất theo quy định của tiêu chuẩn TCVN 3981-85. Diện tích mặt bằng tổng thể đạt mức tối thiểu theo quy định. 8. Có quy hoạch tổng thể về sử dụng và phát triển cơ sở vật chất trong kế hoạch chiến lược của trường. 9. Có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ tài sản, trật tự, an toàn cho cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên và người học. Tuy được ban hành gần đây, nhưng những tiêu chí đánh giá về chất lượng cơ sở vật chất về cơ bản vẫn dựa theo quy định Bộ Xây dựng ban hành từ năm 1985, tức là cách đây 25 năm và không có sự thay đổi nào. Chỉ trong 3 năm kể từ khi ban hành bộ tiêu chuẩn cũ vào năm 2004, Bộ tiêu chuẩn mới đã được ban hành lại và sửa đổi bổ sung nhiều chi tiết cho thấy sự quan tâm của Bộ Giáo dục và Chính phủ về chất lượng đào tạo đại học hiện nay. Tuy nhiên, các tiêu chí đánh giá vẫn trên đà hoàn thiện và 38 chưa thể đảm bảo chắc chắn rằng Bộ tiêu chuẩn ban hành năm 2007 là phiên bản đầy đủ nhất và sẽ được dùng trong thời gian lâu dài. Ngoài ra tính chung chung không cụ thể cũng có thể nhận thấy rõ trong các tiêu chí đưa ra kể cả các tiêu chí trong Bộ tiêu chuẩn ban hành mới nhất gần đây vào năm 2007. Ngoài tiêu chí thứ 7 có dẫn chiếu cụ thể tiêu chuẩn TCVN 3981-85 và một số tiêu chí khác có thể hiểu là cũng dẫn chiếu theo tiêu chuẩn này như tiêu chí số 2, 5, 8 thì các tiêu chí còn lại đều quy định chung nhất và khó khăn cho việc đánh giá chất lượng của trường đại học. Các cụm từ đều dùng là “Có đủ”, “có đầy đủ” và “hiệu quả” mà chưa dẫn chiếu quy định cụ thể nào về tiêu chuẩn của “đủ” hay “hiệu quả” hay chất lượng của trang thiết bị giảng dạy, đồ dùng thí nghiệm, chất lượng và tính đa dạng cần có của tài liệu trong thư viện… 2.2 Chất lượng cơ sở vật chất của các trường đại học trọng điểm còn nhiều bất cập. 2.2.1. Diện tích khuôn viên còn hẹp so với số lượng sinh viên đào tạo Xét theo bộ tiêu chuẩn xây dựng ban hành từ năm 1985 về quy mô các trường đại học thì có thể nhận thấy thiết kế ban đầu dành cho dung lượng sinh viên ít hơn nhiều so với hiện nay. Điểm qua một số trường đại học trọng điểm như trường đại học Bách Khoa Hà Nội, được quy hoạch vào những năm 1960 với khu ký túc xá thiết kế với dung lượng 2000 sinh viên tuy nhiên hiện nay diện tích đã giảm đi nhiều trong khi số lượng sinh viên theo học tăng đến 10 lần. Đại học Ngoại Thương, một trường đại học có tiếng đang chờ xét duyệt trở thành trường đại học trọng điểm của Việt Nam cũng nằm trong tình trạng “đất chật người đông”, sân chơi và sân thể thao cho sinh viên gần như không có. 39 Bảng 3: Quy định về quy mô các trường đại học theo TCVN 3981-1985 Sau 25 năm tức là ¼ thế kỷ, có thể nhận thấy diện tích đất đai của các trường đại học chưa được mở rộng ra nhiều tuy nhiên dung lượng sinh viên hiện nay so với quy định của Bộ tiêu chuẩn Việt Nam 1985 đã tăng lên nhiều lần. Có thể tham khảo chỉ tiêu tuyển sinh của một số trường đại học lâu năm và một số trường “trọng điểm” của Việt Nam năm 2009 để đối chiếu với Quy định của Bộ tiêu chuẩn cũ. Trường đại học Chỉ tiêu tuyển sinh 2009 Đại học Bách Khoa 6370 Đại học Y 900 Đại học Ngoại Thương HN 3100 Đại học Nông nghiệp 1 4060 Đại học sư phạm HN 2500 Đại học văn hóa HN 1100 Đại học Luật HN 1800 Đại học Mỏ - địa chất 3250 (hệ đại học và cao đẳng) Bảng 4: Chỉ tiêu tuyền sinh một số trường đại học trọng điểm và đại chúng năm 2009 (Nguồn: Sách hướng dẫn tuyển sinh đại học, cao đẳng 2009) Nhân những con số lên với 4 hoặc 5 tương đương với số lượng sinh viên theo học tại cùng thời điểm của các trường và đem đối chiếu với Bộ tiêu chuẩn 1985, chỉ tiêu tuyển sinh cho một khóa của các trường đại học chỉ nên ít hơn từ 3 – 5 lần. Điều 40 này đồng nghĩa với việc mật độ diện tích tính cho số lượng sinh viên là không thể đảm bảo. Cùng với đó, tiêu chuẩn cụ thể cho việc thiết kế các giảng đường, chiều cao giảng đường, diện tích các khu vực phòng học, khu thể dục thể thao, quy định về tiếng ồn, mật độ khu dân cư xung quanh… cũng không đạt. Cụ thể trong nhóm đại học trọng điểm các trường đều nằm sát khu dân cư thậm chí nhiều trường đại học trọng điểm ở Hà Nội và TP. HCM nằm trong khu dân cư đông đúc, chật chội (ĐH Bách Khoa, ĐH Y Hà Nội, ĐH Ngoại Thương). Hệ thống đại học Quốc gia hai miền được sự quan tâm lớn của nhà nước với dự án cấp đất xây dựng ở khu Hòa Lạc nhưng tính đến thời điểm này, năm 2010, sinh viên và giảng viên vẫn phải thuê học ngoài ở nhiều nơi để đảm bảo vấn đề đào tạo vì dự án chưa hoàn thành. Vấn đề diện tích đất trên sinh viên cũng thấp, so với tiêu chuẩn 5ha, nhiều trường đại học trọng điểm chỉ đạt ở mức dôi không nhiều (dưới 10ha). Xét theo mật độ sinh viên mà nói, bình quân diện tích đất trên đầu người rất thấp điển hình là trường đại học Ngoại thương 2,04m2/sinh viên, Đại học Xây dựng 2,32m2/sinh viên... 7 2.2.2. Nghịch lý giữa việc đầu tư cơ sở vật chất mở rộng thương hiệu với việc duy trì chất lượng đào tạo. Tự chủ về tài chính được coi là vấn đề quan trọng nhất trong việc chuyển giao quyền tự chủ cho các trường đại học. Công việc này đã được chính phủ xem xét triển khai từ sau Nghị định 10/2002. Mục đích chính của vấn đề tự chủ tài chính là đặt giáo dục vào trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh thực sự và chỉ có môi trường cạnh tranh như thế thì chất lượng dịch vụ cung cấp mới được cải thiện dần dần. Tuy nhiên chính việc tự chủ tài chính này lại khiến nhiều trường đại học đã đang hoặc sẽ rơi vào 7 41 vòng luẩn quẩn của nghịch lý giữa việc đầu tư cơ sở vật chất để phát triển thương hiệu với việc duy trì chất lượng đào tạo. Điều này rất có hại cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam. Trong nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, một dịch vụ muốn xây dựng thành công thương hiệu và giữ vững vị thế trên thị trường thì đều phải đi từ chất lượng dịch vụ, tức là phải chấp nhận đầu tư không có lãi và nếu đặt yếu tố lợi nhuận trong giai đoạn xây dựng và hình thành thương hiệu thì thương hiệu không bao giờ có thể xây dựng thành công được. Tuy nhiên, các trường đại học hiện nay không phải là đã được đặt vào môi trường cạnh tranh ngay từ khi thành lập mà phải chuyển từ giai đoạn bao cấp hoàn toàn sang tự chủ tài chính do đó nguồn vốn tự có hạn hẹp. Kinh phí hoạt động của các trường đại học, bao gồm cả các hoạt động ngoài việc đào tạo, hoạt động xây dựng sửa chữa…xuất phát từ 3 nguồn chủ yếu:  Học phí (nguồn chủ yếu)  Kinh phí nhà nước chu cấp hàng năm  Nguồn tài trợ từ bên ngoài (các tổ chức, cựu học viên…) Trong bối cảnh tự chủ tài chính thì nguồn kinh phí từ nhà nước sẽ bị hạn chế rất nhiều. Các trường đại học hiện nay chưa thực sự xây dựng được thương hiệu nên nguồn tài trợ từ bên ngoài là nguồn thu không ổn định và cũng không thể đảm bảo cho những hoạt động thường xuyên của các trường đại học. Do đó, để có kinh phí hoạt động, nhiều trường đại học phải trông chờ vào việc mở rộng các ngành đào tạo và tuyển sinh những ngành ngoài ngân sách. Thực tế, điều này có hại cho việc xây dựng thương hiệu của nhà trường. Lý do có thể diễn giải bằng vòng luẩn quẩn như sau: 42 Để có thể phát triển thương hiệu và bộ mặt của nhà trường, việc đầu tiên mà các trường thực hiện và là việc có thể thực hiện nhanh nhất trong 4 yếu tố cần thiết để xây dựng thương hiệu đó chính là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Do nguồn kinh phí hạn hẹp nên để có kinh phí hoạt động thì các trường phải mở rộng chỉ tiêu đào tạo và mở thêm nhiều dịch vụ giáo dục khác như văn bằng hai, tại chức, chuyên tu hay thậm chí là nhận đào tạo cao đẳng liên thông lên đại học. Điều này khiến khoảng giãn cách giữa các sinh viên trong cùng môi trường học tập có sự tăng lên, trình độ đầu ra không đồng đều khiến uy tín thương hiệu cũng vì thế mà giảm. Khi uy tín thương hiệu giảm, lẽ ra phải đầu tư để xây dựng thương hiệu từ chất lượng thì do kinh phí hạn hẹp nên các trường đại học vẫn nặng về vấn đề cơ sở vật chất mà ít chú ý đến việc đầu tư cho lâu dài nếu không có chủ trương gì đặc biệt từ phía Bộ giáo dục. Do đó, việc đầu tư cho cơ sở vật chất lại tiếp tục tái diễn và vòng luẩn quẩn cũng vì thế mà không có điểm dừng, thương hiệu giáo dục đại học không bao giờ xây dựng được. MỞ RỘNG NGÀNH ĐÀO TẠO, TĂNG CHỈ TIÊU ĐỂ TĂNG NGUỒN THU TÀI CHÍNH CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ UY TÍN THƯƠNG HIỆU GIẢM SÚT ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU 43 2.2.3. Cơ sở vật chất của nhiều trường đại học chưa đáp ứng nhu cầu học tập. Không thể phủ nhận vấn đề cơ sở vật chất của nhiều trường đại học trong đó có cả những trường có tiếng chưa đáp ứng được tốt nhu cầu học tập của sinh viên và cung cấp môi trường giảng dạy hoàn thiện cho giảng viên. Hệ thống khai thác thông tin như máy tính hay thư viện độ cập nhật và chất lượng còn nghèo nàn. Trong đợt kiểm định 20 trường đại học được coi là hàng đầu của Việt Nam, mới chỉ có 16 trường đạt cấp độ 2 (80-91% tiêu chí) và 4 trường đạt cấp độ 1 (69-76% yêu cầu của bộ tiêu chí). Trong đó, xét riêng về vấn đề cơ sở vật chất, có 57,5% các trường đạt tiêu chí về diện tích lớp học đủ cho hoạt động dạy và học, có ký túc xá cho sinh viên, sân bãi cho các hoạt động văn hóa, thể thao… Về phòng thực hành, thí nghiệm thì có tới 10/20 các trường được đánh giá chỉ đạt 50% yêu cầu. 8 2.3. Giải pháp khắc phục Khi nói đến vấn đề cơ sở vật chất cho các trường đại học, giải pháp khắc phục chung mà báo đài thường kiến nghị là việc đầu tư đổi mới trang thiết bị dạy và học, tăng cường đầu tư xây dựng và mở rộng các trường đại học. Những nỗ lực từ phía nhà nước không hề nhỏ. Bằng chứng là ngân sách chi cho giáo dục tăng đều đặn qua các năm và chi cho đầu tư phát triển có sự gia tăng lớn nhất. Cụ thể: Theo Vụ Kế hoạch Tài chính, trong năm 2010 ngân sách chi cho giáo dục hơn 4.856 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2009 (hơn 4.394 tỷ đồng). Trong đó, chi cho quản lý hành chính tăng 25,1%, chi đầu tư phát triển tăng 32,7% và chi cho Đề án 322 giảm 5,8%, sự nghiệp kinh tế giảm 29,9%. Nhiều hạng mục xây dựng của các trường có sự đóng góp không nhỏ hoặc bao cấp hoàn toàn từ phía ngân sách nhà nước như việc cấp ½ kinh phí xây dựng tòa nhà đa năng của trường đại học Ngoại Thương, đồ án quy hoạch chung xây 8 44 dựng Hà Nội trong đó có việc cấp đất xây dựng trường đại học quốc gia Hà Nội và một số trường đại học khác (tham khảo phụ lục 1)… Như vậy, vấn đề không nằm ở nguồn kinh phí hay trình độ quản lý, vấn đề đầu tư cơ sở vật chất nằm ở chính sách lựa chọn và đầu tư của nhà nước. Cụ thể: + Việc cấp đất và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho nhóm những trường đại học trọng điểm cần có sự bao cấp của nhà nước và phải hoạt động theo hình thức phi lợi nhuận hoàn toàn. + Việc dãn đại học ra ven đô để đảm bảo diện tích đất và môi trường học tập là chính sách đúng đắn nhưng sẽ không hoàn thiện nếu không tính đến vấn đề giao thông. Có nhiều bài báo chỉ trích việc các trường đại học “co cụm” trong đô thị chật hẹp với diện tích nhỏ hẹp, môi trường học tập không đảm bảo. Nhiều ý kiến so sánh thực tế này ở Việt Nam với nhiều trường đại học ở các quốc gia tiên tiến trên thế giới được xây dựng ở những khu riêng biệt, có không gian và khoảng cách với khu dân cư. Lý do chính của vấn đề này xuất phát từ hệ thống giao thông không hoàn thiện dẫn đến hạn chế sự di chuyển của bản thân người dân. Cán bộ giảng viên cũng không tha thiết với việc đi lại xa, bản thân sinh viên cũng luôn tìm chỗ trọ gần trường và mong muốn học những trường trong trung tâm thành phố, phương tiện giao thông sẵn có hơn, dịch vụ cũng hoàn thiện hơn. + Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất không thể dàn trải và thiếu đồng bộ. Điều này cũng giống như việc trải nhựa một con đường. Chỉ cần con đường đó phải đào lên để thi công lại một vài đoạn thì điều này đồng nghĩa với việc phải bóc toàn bộ nền đường cũ và trải nhựa lại hoàn toàn. Nếu chỉ trải nhựa theo kiểu “vá víu” thì không những 45 con đường không đẹp thêm mà còn nham nhở hơn. Theo đó, xây dựng cơ sở vật chất cho một trường đại học nên tập trung tiến hành từng thời điểm, không nên ngắt quãng làm nhiều thời gian tránh tình trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị phòng ốc chỗ thì tối tân hiện đại, chỗ vẫn mang dáng vẻ bao cấp. Do đó, chính quyền nên có kế hoạch cụ thể từng năm hoặc từng thời kỳ đối với nhóm các trường đại học trọng điểm, mỗi năm chọn một số trường cùng một nhóm ngành cụ thể và đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, xây dựng lại hệ thống giảng đường, phòng thí nghiệm, thực hành…Việc lựa chọn từng thời kỳ xây dựng hoàn thiện “bộ mặt” của trường nào phụ thuộc vào chính sách của nhà nước và Bộ GD-ĐT sao cho đảm bảo tính công bằng và minh bạch. 3. Chương trình giảng dạy: Hiện nay, ngoài yếu tố nguồn nhân lực và cơ sở vật chất còn đang cần phải thay đổi cải tổ, chương trình giảng dạy cũng là một điểm nóng đáng chú ý của nền giáo dục đại học Việt Nam. Có thể nói, trong một buổi lên lớp, bên cạnh khả năng truyền đạt nội dung bài giảng và khuyến khích tính ham học hỏi ở sinh viên của giảng viên, bản thân chương trình giảng dạy cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng tác động trực tiếp đến ý thức và sự yêu thích học tập nghiên cứu của sinh viên. Chương trình giảng dạy được thể hiện qua giáo trình, thời gian hoàn tất chương trình và phân phối chương trình giữa lý thuyết với bài tập và thực hành. Sinh viên không thể năng động sáng tạo nếu như chương trình quá gò bó, mang nặng tính lý thuyết và ít không gian cho sinh viên thực hành, sáng tạo và tìm ra cách tiếp cận môn học riêng cho mình. Trên thực tế, chương trình giảng dạy ở các trường ĐH trọng điểm Việt Nam vẫn còn nhiều điểm cần sửa chữa và khắc phục. 3.1. Chương trình học nặng tính lý thuyết, ít thực tiễn và sáng tạo Chương trình giảng dạy vẫn còn quá nặng tính lý thuyết và thiếu tính thực tiễn, sáng tạo mà theo cách nói thông thường là “học chay”. Hiện tượng này xuất hiện ở 46 hầu hết các trường đại học trọng điểm thuộc các khối ngành khác nhau. Ví dụ như trong quá trình học tập, sinh viên các trường kinh tế thường không được tạo điều kiện tiếp xúc nhiều với các doanh nghiệp trên thực tế, tiếp xúc với các số liệu cụ thể. Thậm chí, ngay cả khi thực tập, việc tiếp cận các số liệu này cũng vô cùng khó khăn. Chính vì vậy, khi ra trường, sinh viên Việt Nam thường phải mất một thời gian khá dài để làm quen vói công việc được giao do sự khác biệt tương đối lớn giữa thực tế và kiến thức trong nhà trường. Các sinh viên thuộc các khối ngành khác cũng phải chịu hoàn cảnh tương tự. Theo phản ánh của Đại học Y - Dược Cần Thơ, trước đây trong giờ thực hành giải phẫu, mỗi sinh viên được thực hành trên một con ếch, 5 sinh viên thực hành trên một con chó; nay do suất đầu tư thấp, 10 sinh viên mới có một con ếch và 30 sinh viên mới có một con chó để thực hành9. Hiện thực này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: liệu sinh viên có cần được tạo điều kiện dể tiếp cận nhiều hơn với thực tế để tránh tình trạng bỡ ngỡ khi ra làm việc? Hơn thế nữa, khi phải theo học một chương trình kín mít chữ, ít minh họa cụ thể thì việc sáng tạo đối với sinh viên là không thể. Lại thêm vào đó là cách dạy – học thụ động từ trước đến giờ khiến cho giờ lên lớp của sinh viên chỉ dành cho việc nghe giảng và chép bài, phát biểu xây dựng bài cũng trở nên hiếm hoi hơn. Thực chất cách dạy và học như vậy không hề hiệu quả. Sinh viên bị nhồi nhét một khối lượng lớn kiến thức mà không hề được quan sát tận mắt, tự tay áp dụng những lý thuyết ấy vào sự vật hiện tượng thật thì không thể nào tiếp thu bài một cách toàn diện được. Cách học này quá trửu tượng. Mặt khác, trong một buổi lên giảng đường, sinh viên thường phải dành ra gần 3 tiếng cho một môn học. Việc nghe giảng liên tục trong một khoảng thời gian dài như vậy mà không có hình thức luyện tập, thực hành xen kẽ dễ dẫn đến khả năng tập trung của sinh viên loãng dần. Kết quả là để hiểu được bài giảng trên lớp, sinh viên phải dành thời gian nghiền ngẫm lại giáo trình ở nhà. Đọc lại giáo trình để chuyển bài giảng từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài 9 47 hạn là điều tốt nhưng phải nghiền ngẫm lại cho hiểu rồi sau đó mới là cho nhớ thì là một sự lãng phi thời gian không cần thiết. Liên tục trong 4 hay 5 năm đại học, dần dần, sinh viên Việt Nam sẽ có thói quen “ì”, không phát biểu, không sáng tạo, hoặc đối với những môn khô khan, khó hiểu thì không cả nghe giảng vì đằng nào về nhà cũng phải đọc lại giáo trình. Cách học này sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên đã đành, nhưng sâu xa hơn, nghiêm trọng hơn là liệu sinh viên sẽ không lĩnh hội đủ kiến thức phục vụ công việc sau này. 3.2. Chương trình học mang nặng tính hình thức và thụ động Một tồn tại khác trong giáo dục đại học Việt Nam ngay cả ở các trường đại học trọng điểm là tính hình thức trong công tác dạy và học. Cụ thể chương trình học nào cũng đi từ khái quát đến cụ thể, những môn cơ bản được đặc định học trước những môn chuyên ngành, thời gian cho những nội dung “mào đầu” còn dài. Việc này có tác dụng khi những môn cơ bản là hỗ trợ trực tiếp cho môn chuyên ngành, nếu không phải thì thực sự là một sự lãng phí về thời gian và trí tuệ. Sinh viên vừa thi đại học xong, nhiệt huyết và cường độ học tập còn cao thì thay vì truyền đạt những kiến thức tầm cao, sinh viên các trường nói chung mất khoảng 1 năm đầu tiên học những môn cơ bản, chính trị mà rất ít thậm chí không có những môn chuyên ngành quan trọng. Sau khoảng 2,3 năm học theo lối thụ động như vậy, sinh viên mới có cơ hội tiếp cận với chuyên ngành đào tạo chính của mình Để phát huy tính sáng tạo và tạo điều kiện cho sinh viên tự cân đối thời gian học tập, trên thế giới xuất hiện hình thức học tín chỉ và thi trắc nghiệm. Ưu điểm của việc học tín chỉ là sinh viên được quyền chọn môn học, thời điểm học, thậm chí số môn một kỳ học nếu sinh viên có khả năng tiếp thu, nhờ đó nhiều sinh viên rút ngắn được thời gian học tập và dành thời gian cho những nghiên cứu chuyên sâu khác ngoài giảng đường. Hình thức thi trắc nghiệm đòi hỏi sinh viên có hiểu biết chuyên sâu về bản chất vấn đề và khả năng học hiểu một lượng lớn kiến thức đưa ra trong chương trình. Thực tế áp dụng ở các trường đại học trọng điểm Việt Nam và cả các 48 trường đại học nhóm đại chúng cho thấy cả hai hình thức học và thi kể trên đều bị biến tướng làm mất đi ưu điểm vốn có:  Đối với hình thức học tín chỉ: Thời lượng nặng là điểm đáng lưu ý thứ nhất ở Việt Nam. Hiện nay, số lượng tín chỉ tối thiểu hệ đại học 4 năm vào khoảng 180 - 200 đơn vị học trình (1đvht tính bằng 15 tiết học). Trong khi đó, các nước trong khu vực chỉ vào khoảng từ 120 - 150 đơn vị học trình10. Bên cạnh đó, cứ trung bình 200 đơn vị học trình thì tương ứng số tiết lên lớp vào khoảng 3.000 - 3.300, nếu so với số giờ lên lớp chỉ khoảng 1.800 - 2.300 của nhiều nước thì rất cao. Điều hiển nhiên là thời gian tự học của sinh viên nước ta sẽ phải rút lại. Đây là điểm cuối cùng tạo thành cái dốc trong đồ thị đào tạo đại học của Việt Nam: không hiểu bài trên lớp – mất nhiều thời gian hơn cho việc tự học ở nhà – thời gian tự học bị cắt giảm – không lĩnh hội được kiến thức – khả năng vận dụng vào công việc sau này không có. Ngoài ra, hình thức học tín chỉ ở Việt Nam cũng đã bị biến tướng khá nặng nề. Phần lớn các trường đại học áp dụng hình thức học tín chỉ theo kiểu: thay vì đưa ra thời khóa biểu cụ thể cho từng học kỳ của sinh viên, trường cho phép sinh viên đăng ký tín chỉ nhưng chỉ được đăng ký những môn cụ thể đã quy định trước cho từng kỳ và không được đăng ký hơn hay đăng ký ít đi (VD: ĐH Ngoại Thương, ĐH Quốc Gia Hà Nội, ĐH Kinh tế quốc dân…). Điều duy nhất sinh viên có lợi được từ hình thức học tín chỉ này chỉ là sự linh hoạt về thời gian, nói cách khác, sinh viên tự chủ được thời khóa biểu của mình. Do vậy, việc rút ngắn thời gian học hay ra trường sớm là không có trong việc đào tạo tín chỉ ở các trường đại học trọng điểm ở Việt Nam  Đối với hình thức thi trắc nghiệm: có thể nhận thấy việc thi theo hình thức trắc nghiệm so với cả sinh viên và giảng viên Việt Nam đều là quá sức. Lý do rất đơn 10 49 giản. Để có thể làm tốt bài trắc nghiệm, sinh viên phải đọc và ghi nhớ đến từng tiểu tiết của giáo trình và đồng thời, phải biết suy luận. Quả thật rất khó khăn khi phải học từng ấy kiến thức một cách trừu tượng từ đầu đến cuối. Kết quả thấp vẫn hoàn thấp. Từ đó lại nảy sinh hiện tượng giáo viên phải đưa ra giới hạn để sinh viên ôn tập. Như vậy cũng có nghĩa là tính chất của hình thức thi trắc nghiệm đã bị hiểu và làm sai, không phát huy được tác dụng của hình thức thi hiện đại này. Ngoài ra, việc thi trắc nghiệm đòi hỏi bộ đề hàng năm phải có sự đổi mới, bộ câu hỏi đa dạng và thường xuyên cập nhật. Ở Việt Nam do ngân hàng đề thi còn nhiều hạn chế nên không tránh được hiện thực sinh viên học đối phó, học tủ bộ đề của những năm trước khiến cho hình thức thi trắc nghiệm mất đi tính ưu việt. Như vậy dù áp dụng hình thức học và thi hiện đại, hệ thống đào tạo tại các trường đại học trọng điểm vẫn không tránh được tư duy lối mòn xưa cũ. Mặc dù Bộ GD-ĐT đã mở lối cho các trường ĐH trọng điểm trong việc phát huy quyền tự chủ, được chủ động mời và tiếp nhận giảng viên, sinh viên nước ngoài đến học và giảng dạy; được đề xuất mở những ngành đào tạo chưa có trong danh mục đào tạo, tuy nhiên chương trình giảng dạy của các trường đại học trọng điểm vẫn còn thụ động, phụ thuộc vào Bộ GD&ĐT, chưa chủ động tạo ra được chương trình đặc trưng, phù hợp nhất cho mình. 3.3. Nhập khẩu giáo dục quá mức Trước tiên cần nhận định rằng đứng ở vị thế một nước đi sau về nhiều mặt, giáo dục đại học, cũng như nhiều ngành khác, đang nỗ lực trong việc quan sát, học tập và làm theo những gì mà các quốc gia có nền giáo dục phát triển đã làm và thành công. Tuy nhiên học tập không có nghĩa là rập khuôn đến mức sùng bái và làm theo một cách máy móc. Việc nhập khẩu giáo dục không chỉ thể hiện ở việc giáo trình “Tây hóa” mà còn thể hiện ở cả phong cách giảng dạy của giảng viên đại học hàng ngày nhất là ở nhóm các trường đại học trọng điểm. Trước xu thế mới và dưới áp lực của báo, đài về việc sinh viên Việt Nam kém năng động, sáng tạo, mặc nhiên giáo dục 50 đại học ở Việt Nam đã tự mình phủ nhận chính mình và nhiều lúc vận dụng y nguyên chương trình, phong cách nước ngoài như một khuôn mẫu đúng đắn nhất. Nhập khẩu giáo dục quá mức, dưới hình thức nào, đều là sai lầm. Lý do có thể diễn giải như sau: Không phải mọi thứ đều có thể tạo theo “nguyên mẫu”. Phong cách giảng dạy hiện đại, giáo trình kiến thức chuẩn nước ngoài, lối diễn đạt cũng “tây hóa” nhưng sinh viên ngồi nghe, lối tư duy, suy nghĩ thì vẫn là của Việt Nam. Nhiều giảng viên vì vậy mà thất vọng và vội quy chụp ngay sinh viên Việt Nam “quá kém”. Vấn đề không phải sinh viên kém, vấn đề duy nhất là sinh viên đã học gần 20 năm thậm chí hơn với lối tư duy, phương pháp học tập ăn sâu bén rễ, thậm chí giảng viên này đòi hỏi sinh viên sáng tạo, giảng viên khác lại vận dụng phương pháp dạy học cũ. Quá trình thay đổi tư duy sáng tạo và cách tiếp thu kiến thức, xây dựng bài, nếu thực hiện nghiêm ngặt thì cần thời gian tối thiểu 20 năm, tức là phải bắt đầu đào tạo lại một thế hệ từ những năm đầu tiên cắp sách đến trường chứ không phải qua một vài buổi hội thảo hay vài sáng kiến kinh nghiệm. 3.4. Giải pháp khắc phục 3.4.1. Hoàn thiện chương trình giảng dạy Chừng nào chưa tạo được chương trình giảng dạy cụ thể và chất lượng cho từng chuyên ngành đào tạo, các trường đại học trọng điểm ở Việt Nam, dù có uy tín đến mấy và được quảng bá rộng đến đâu, cũng chỉ có thể phát triển ở mức “xào nấu kinh doanh giáo dục” chứ không bao giờ được công nhận là “thương hiệu giáo dục đại học”. Điều này không đồng nghĩa với việc Việt Nam không được phé

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục ĐH ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan