Đề tài Xuất khẩu thuỷ sản và giải pháp phát triển

MỤC LỤC

 

LỜI NÓ ĐẦU 1

Chương I. Tổng quan về thị trường xuất khẩu 3

1. Thị trường, quan niệm về thị trường và thị trường xuất khẩu 3

1.1. Khái niệm chung về thị trường và phân loại thị trường 3

1.1.1. Khái niệm về thị trường 3

1.1.2. Phân loại thị trường 3

1.2. Thị trường xuất khẩu, vai trò và nhiệm vụ của xuất khẩu 4

1.2.1. Vai trò của xuất khẩu 5

1.2.2. Mục tiêu nhiệm vụ của xuất khẩu 6

2. Vai trò của thị trường đối với hoạt động sản xuất kinh doanh 6

3. Một số biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu 8

Chương II. Thực trạng thị trường xuất khẩu thuỷ sản trong những năm vừa qua 12

1.Tổng quan về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong nhữngnăm đổi mới 12

2. Tình hình xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam trong những năm vừa qua 15

2.1. Đặc điểm của hàng thuỷ sản của Việt Nam và ảnh hưởng của nó tới thị trường xuất khẩu 15

2.2. Tình hình thị trường hàng thuỷ sản của Việt Nam trong những năm vừa qua 16

3. Đánh giá về thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản trong những năm qua 20

Chương III. Một số giải pháp chủ yếu phát triển thị trường

xuất khẩu hàng thuỷ sản trong những năm tới 23

1. Quan niệm về thị trường hàng thuỷ sản 23

2. Các biện pháp chủ yếu phát triển thị trường xuất khẩu

thuỷ sản 25

Kết luận 28

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu thuỷ sản và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng sản xuất kinh doanh đều được phản chiếu qua thị trường, nó cho biết nền kinh tế đang tăng trưởng hay trì trệ, tốc độ, trình độ và quy mô của sản xuất kinh doanh. Thứ năm, thị trường là nơi quan trọng để đánh giá kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của chủ trương chính sách, biện pháp kinh tế của các cơ quan chức năng còn phản ánh các quan hệ xã hội, hành vi giao tiếp của con người, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhà kinh doanh. Như vậy vai trò của thị trường là cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển, kinh tế đất nước nó phá vỡ ranh giới các vùng, các khu vực lãnh thổ. Trong phạm vi quốc tế, thị trường của mỗi quốc gia không còn bị giới hạn mà nó mở rộng ra khu vực và thế giới và mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường quốc tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong các năm tới không chỉ là phát huy cao độ vai trò của thị trường mà còn phải hạn chế các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đem lại: đó là thực trạng gian lận thương mại, trốn thuế, lừa dối khách hàng. Chạy theo lợi nhuận, làm thay đổi đạo đức kinh doanh, phân hoá giàu nghèo và phân hoá giai cấp.... 3. Một số biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng như của nhiều nước khác buôn lậu gặp khó khăn.Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trở thành công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Mục đích của các biện pháp này là hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tạo điều kiện cho người xuất khẩu tự do cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Trong những năm trước đổi mới vấn đề thị trường quốc tế ở Việt Nam chưa được chú trọng đúng mức, việc xem xét nhẹ vấn đề này là do hoàn cảnh khách quan, và nhận thức của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn và Nhà nước theo đuổi chính sách tập trung quan liêu bao cấp đã không còn hợp lý. Sản xuất tập trung quan liêu bao cấp đã không còn hợp lý. Sản xuất trì trệ đình đốn. Việc sản xuất tuân thủ theo hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, thực hiện chế độ tem phiếu, sản xuất mang tính tự cấp tự túc khép kín, công nghệ, khoa học kỹ thuật thấp kém, quản lý hành chính quan liêu. Với chế độ “mua là được, bán là mất” dấn đến hiện tượng dự trữ, đầu cơ. Thị trường là của người bán chứ không phải của người mua. Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng lạm phát lên tới 774,7%. Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu báo cấp sang nền kinh tế thị trường, là điều kiện tiền đề trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong đó có chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Vấn đề xuất khẩuhanàg hoá gặp rất nhiều khó khăn không chỉ riêng đối với các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mà ngay đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sản phẩm sản xuất ra cũng không hoặc kém khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để xem xét vấn đề này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, đó là vấn đề về khoa học kỹ thuật Việt Nam đã quá lạc hậu, lạc hậu so với thế giới từ 30 – 40 năm. Sản phẩm sản xuất ra với chi phí cao, chất lượng không được đảm bảo, mẫu mà chủng loại chưa phong phú.... khả năng cạnh tranh rất kém. Từ những vấn đề trên Đảng và nhà nước ta chủ động khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: giầy da, may mặc, thuỷ sản, đồ thủ công mỹ nghệ, dầu thô, cà phê... Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam hiện nay là: Thứ nhất, các biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu xuất khẩu. Đây là biện pháp có tính chiến lược, nó đòi hỏi sự năng động, sáng tạo, linh hoạt trong cách thức làm ăn của bản thân của doanh nghiệp cũng như sự nỗ lực của Nhà nước trong việc đề ra các biện pháp chính sách đẩy mạnh xuất khẩu. Muốn vậy các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế phải đòi hỏi phải có năng lực, sự thông hiểu các quy tắc, điều kiện thông lệ quốc tế, nhu cầu tiêu dùng của khách hàng nước nhập khẩu cũng như quy mô và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Trước tiên, các doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu, tham gia xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước cho phép xuất khẩu hoặc khuyến khích xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh đó là: gạo, giầy da, may mặc, thuỷ sản, đồ thủ công mỹ nghệ.... Để xuất khẩu có hiệu quả, doanh nghiệp phải tổ chức nguồn hàng thật tốt. Thông qua các đại lý uỷ thác ký kết hợp đồng, đặt hàng liên doanh liên kết.... để tạo ra nguồn hàng ổn định, giữ được uy tín với đối tác. Bên cạnh đó các doanh nghiệp phải dựa vào tiềm lực của mình và hỗ trợ của Nhà nước. Phải cải biến dần cơ cấu xuất khẩu, từ xuất khẩu thành phẩm, những hàng hoá có giá trị công nghệ, trí tuệ cao. Đây là yêu cầu rất khó khăn và khó thực hiện trong điều kiện hiện nay. Nó đòi hỏi phải có thời gian dài và sự nỗ lực của toàn bộ nền kinh tế. Có như vậy giá trị xuất khẩu mới đạt giá trị cao, tạo điều kiện để cho xuát khẩu thu ngoại tệ. Thứ hai, đó là các giải pháp liên quan đến tài chính tín dụng. Đây là sự đòi hỏi sự ổn định của nền kinh tế, một nền kinh tế có lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến hạn chế hoặc không khuyến khích được các doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc ban hành một chế độ tài chính – tín dụng đồng bộ, linh hoạt thì vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn có lãi suất hợp lý, chính sách tỷ giá hối đoái hấp dẫn các nhà đầu tư sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Đây là vấn đề cực kỳ nhạy bén đối với nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia. Chính sách tài chính tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nói riêng. Nó đòi hỏi các chính sách này phải đồng bộ linh hoạt. Giảm thủ tục phiền hà hành chính quan liêu, có như vậy hoạt động của các doanh nghiệp mới thực sự có hiệu quả. Thứ ba, đó là giải pháp về thể chế – tổ chức. Chính sách này liên quan các quan điểm phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, chính sách cần phải được hoàn thiện dần trong các năm tới. Cải tổ lại hệ thống tổ chức, các quy định liên quan đến chính sách xuất khẩu sẽ là bước tiến quan trọng đến Việt Nam hội nhập với khu vực. Nhà nước cần phải đồng bộ hoá các quy định chính sách xuất khẩu cải thiện thủ tục hải quan, chính sách thuế... Đây sẽ là đòn bẩy thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Việc quản lý xuất khẩu được thực hiện bằng cơ chế giấy phép hải quan, hạn ngạch xuất khẩu và bằng các quy chế quản lý ngoại tệ, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia kiểm soát một vài dạng xuất khẩu. Như sản phẩm đặc biệt nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu hoặc có ý nghĩa chiến lược đối với đất nước. Nguyên nhân chủ yếu của nhà nước phải kiểm soát xuất khẩu thường do cấm vận buôn bán, bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ. Trên cơ sở những giải pháp đã đề ra phương hướng và nội dung cụ thể của chiến lược xuất khẩu nhập khẩu của nước ta trong giai đoạn 2001 – 2010 là: Phải tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản thực phẩm, và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tìm thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cậm và mở thêm các thị trường mới. Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính... Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xuất khẩu hàng hoá tăng trưởng bình quân 15% năm + Trong thời kỳ 2001 – 2005 xuất khẩu tăng bình quân 16% năm + Trong thời kỳ 2005 – 2010 xuất khẩu tăng bình quân 14% năm Về giá trị xuất khẩu tăng từ khoảng 15,5% tỷ USD năm 2000 lên 62,7 tỷ USD năm 2010 tức là gấp 4 lần. Nhập khẩu hàng hoá tăng trưởng bình quân 14% năm trong đó tăng 15% năm trong thời kỳ 2001 – 2005 và tăng khoảng13% năm thời kỳ 2005 – 2010. Giảm dần nhập siêu. Chương II Thực trạng thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản trong những năm vừa qua 1.Tổng quan về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm đổi mới: Thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng (12/1986) công cuộc đổi mới được phát triển mạnh mẽ. Những tình hình kinh tế 5 năm sau đổi mới diễn ra phức tạp khó khăn, nhân dân ta phải phấn đấu gian khổ quyết liệt: 3 năm liền lạm phát 3 con số đời sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội giảm sút mạnh mẽ, nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đình đốn thua lỗ sản xuất cầm chừng, thậm chí còn đóng cửa giải thể, hàng chục vạn công nhân buộc phải rời sản xuất tự đi tìm đường sống, hàng vạn giáo viên phải bỏ nghề những vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra phổ biến. Trong hoàn cảnh ấy, Đảng và Nhà nước đã ra sức khắc phục lại khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội cấp bách thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội từng bước đưa nghị quyết đại hội VI vào cuộc sống. Từ năm 1989 trở đi nước ta đã xuất khẩu được 1 – 1,5 triệu tấn gạo hàng tiêu dùng ngày càng đáp ứng khá hơn nhu cầu xã hội, lạm phát giảm dần đến năm 1990 còn 67,4%.Việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực – thực phẩm, hàng tiêudùng, hàng xuất khẩu đạt được những tiến bộ rõ rệt. Trên tinh thần của Nghị quyết đại hội VI và được khẳng định lại trong đại hội VII. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng được tăng lên. Đưa nước ta từ chỗ chủ yếu nhập khẩu nay đã chuyển sang xuất khẩu. Năm 1991 có 4 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Là dầu thô, hàng dệt may, thuỷ sản, gạo. Đến nay đã có 5 mặt hàng trên 1 tỷ USD là dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản, gạo. Tỷ trọng sản phẩm chế biến tăng 8% vào năm 1991 lên 40% năm 2000. Tỷ trọng xuất khẩu hàng nông lâm thuỷ sản giảm từ 52,3% vào năm 1991 xuống 27,26% năm 1999. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp tăng 14,3% vào năm 1991 lên 33,35% vào năm 1999. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 33,4% năm 1991 xuống 19,33% năm 1999. Cơ cấu hàng xuất khẩu Đơn vị: % Nhóm hàng 1991 1995 1999 1. Nông lâm thuỷ sản 52,30 46,30 27,26 2 .Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp 14,30 28,40 33,35 3. Công nghiệp nặng và khoáng sản 33,40 25,30 19,35 4. Các hàng hoá khác 33,40 25,30 20,06 Tổng kim ngạch xuất khẩu 100,0011 100,00 100,00 Nguồn: Niên giám thống kê 1996 – 1999 và báo cáo bộ Thương mại Nhìn lại những năm qua tình hình xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực. Kim ngạch xuất khẩu đã không ngừng tăng lên qua các năm. Nhưng xuất khẩu chủ yếu vẫn là xuất khẩu thô, nguồn gốc sản phẩm từ nông nghiệp là công nghiệp nhẹ. Năm 1990 xuất khẩu đạt 2404,0 triệu USD. Đến năm 2000 đạt 1108,0 triệu USD. Đến nay Việt Nam đã quan hệ với 160 quốc gia trong đó có10 quốc gia là bạn hàng lớn nhất chiếm 75% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam:giai đoạn 1990 – 2000 Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 XK 2404,0 2078,1 2580,7 2985,2 1054,3 5448,9 7255,9 9485,0 9361,0 1153,0 11038,0 T,G% 23,5 - 13,2 23,7 15,8 35,8 34,4 33,2 26,6 1,9 23,1 24,0 Nguồn : Tổng cục thống kê Nhìn chung, xuất khẩu của Việt Nam được tập chung ở một số thị trường chủ yếu như Nga, Nhật, Mỹ, EU... Tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến có xu hướng tăng năm 1990 tỷ trọng này là 5%, năm 1991 là 8,5%, năm 1995 là 22%, năm 1996 là 30% năm 1998 là 60%. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua. Đơn vị: Triệu USD Năm 1995 1996 1997 1998 Xuất khẩu 5,459 7,256 9,145 9,361 Nhập khẩu 8,155 11,149 11,622 11,494 Cán cân thương mại 2,707 9,888 2,477 2,133 Nguồn: Thống kê hải quan – Tổng cục hải quan Đánh giá tổng quan về tình hình xuất khẩu ở Việt Nam thời gian qua có nhiều điểm tích cực. Tiêu cực, đan xen lẫn lộn. Tuy kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên trong các năm. Nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, xuất khẩu chủ yếu là hàng sơ chế, sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Trước tình hình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược định hướng lâu dài đối với các mặt hàng xuất khấu có thế mạnh. Phải tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu hoàn thiện thể chế – tổ chức và chính sách tài chính tín dụng. Đồng bộ, linh hoạt. 2. Tình hình xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam trong những năm vừa qua. 2.1. Đặc điểm hàng thuỷ sản ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó tới thị trường xuất khẩu. Thuỷ sản là một ngành kinh tế mũi nhọn, trong triển vọng, phát triển kinh tế cũng như hướng tới xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một ngành mà nước ta có ưu thế, nó phù hợp với phong tục tập quán sản xuất của bà con nông dân cũng như thuận lợi về điều kiện tự nhhiên, địa hình và khí hậu. Chương trình khai thác thuỷ sản, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến xuất khẩu ngày càng phát huy tác dụng. Do đó việc đánh giá được tiềm năng này và phát huy nó trong thời gian tới có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Thứ nhất, do điều kiện thời tiết khí hậu thuận lợi, bà con ngư dân đã chủ động khai thác các nguồn lợi tự nhiên có giá trị kinh tế cao như cá, tôm, mực. Ngư dân dần dần làm chủ phương tiện, nắm bắt được ngư trường khai thác, chú trọng bảo quản sản phẩm sau khai thác nên đã đưa nuôi trồng thuỷ sản phát triển tăng tốc cả về quy mô và kỹ thuật. Tôm sú không chỉ chủ lực ở miền Nam mà đã phát triển ra cả miền Trung và niềm Bắc. Các loại cá trôi ấn độ, mè Vinh, rô phi, cá chim trắng... không chỉ nuôi khắp đồng bằng mà ở cả trung du miền núi hay cao nguyên. Hiện nay, có khoảng 60 xí nghiệp được nâng cấp cải tạo, xây dựng nhà xưởng theo vệ sinh an toàn thực phẩm... Bộ thuỷ sản đang chỉ đạo 29 tỉnh và thành xây dựng số dự án nuôi tôm thâm canh. Tính đến năm 1999.Việt Nam mới có 18 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU thì đến năm 2000 con số này là 40 doanh nghiệp tăng 22 doanh nghiệp trong vòng 1 năm. Thứ hai, thuỷ sản là một ngành kinh tế mà được Nhà nước ta rất quan tâm trực tiếp chỉ đạo điều hành ủng hộ, giúp đỡ ngư dân đánh bắt khai thác nuôi trồng thuỷ sản. Đặc biệt là các hạng mục công trình, đầu tư xây dựng cơ bản... lãnh đạo Bộ tập trung đi các địa phương, xuống các cơ sở hướng mẫu giúp đỡ tháo gỡ khó khăn và kiểm tra khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất với những chủ trương chính sách cụ thể Đảng và Nhà nước ta quyết tâm đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước kế hoạch thuỷ sản năm 2000 đạt 1,25 tỷ USD năm 2005 đạt 2,5tỷ USD, năm 2010 là 3,5 tỷ USD. Thứ ba, nhu cầu về nhập khẩu thuỷ sản của các nước ngày càng tăng đặc biệt là các sản phẩm thuỷ sản có nguồn gốc tự nhiên, chính vì vậy mà xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam không ngừng nâng lên. Năm 1998 đạt 856 triệu USD, năm 1999 đạt 971 triệu USD. Xuất khẩu chủ yếu vào Nhật, Mỹ, EU, châu á. Hiện nay Nhật Bản chiếm 36,25% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, con số này ở Mỹ là 25% triển vọng Thương mại đối với Mỹ còn rất rộng khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ được thông qua. ở thị trường châu á cũng chiếm một số thị phần đáng kể 21% chủ yếu là Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, ở thị trường EU là 6%. Như vậy tiềm năng đối với ngành hàng này là rất lớn nó cũng ảnh hưởng đáng kể tới thị trường thế giới. Do vậy cần phải có chính sách biện pháp thúc đẩy ngành thuỷ sản phát triển đúng với tiềm năng cuả nó. 2.2. Thị trường hàng thuỷ sản của Việt Nam trong những năm qua. Trong những năm qua đổi mới ngành thuỷ sản đã liên tục phát triển trong 10 năm qua cả về nuôi trồng và đánh bắt. Phong trào nuôi tôm giống, tôm thịt cá nước ngọt, nước lợ, nuôi cá bè trên sông trên biển phát triển mạnh từ Nam gia Bắc đặc biệt là vùng ven biển vùng đồng bằng Nam bộ tạo nên nhiều việc làm, tăng thu nhập tạo nguồn thực phẩm dồi dào cho xã hội, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản các loại từ 126 ngàn tấn năm 1990 lên480 tấn năm 1999. Hoạt động khai thác thuỷ sản trên sông trên biển phát triển mạnh. Đến năm2000 cả nước có 229,9 nghìn hộ ngư dân trang bị 7180 tầu thuyền đánh cá cơ giới, với tổng công suất 1,76 cv triệu trong đó có 4 nghìn tầu có công suất 75cv sản lượng thuỷ sản khai thác từ năm 1996 đã vượt 1 triệu tấn, đến năm 1999 đã đạt 4,5 triệu tấn ngành thuỷ sản đã trở thành ngành sản xuất mũi nhọn với mức tăng trưởng cao giải quyết hàng triệu việc làm, cơ cấu ngành thuỷ sản trong nông lâm ngư nghiệp từ 7,5% năm 1991 lên 10% năm 1999. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản 1999 đã đạt 979 triệu USD tăng 57,6% so với năm 1995. Từ những đặc điểm trên, quy mô và tốc độ thuỷ sản luôn luôn được mở rộng và gia tăng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đâù người 1999đạt 150 USD tăng 5 lần so với năm 1991, cán cân thương mại quốc tế từ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu quốc tế là 53,6% năm 1996 thu hẹp còn 1,7% năm 1999. Xuất khẩu thuỷ sản năm 1991 là 53,3% năm 1995 là 46,3% năm 1999 là 27,26% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong 16 nhóm hàng mặt hàng mới là 20 nhóm hàng lần đầu tiên xâm nhập thị trường quốc tế so với thời kỳ trước năm 1991. Năm 1991 có 4 mặt hàng dầu thô, gạo, dệt may và thuỷ sản có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD thì thuỷ sản chiếm 53,3%. Đến năm 1999 3 mặt hàng đạt xấp xỉ tà 500 đến 1 tỷ USD là cà phê, hàng điện tử và thuỷ sản đến nay thuỷ sản của Việt Nam đã thâm nhập vào nhiều thị trường: Mỹ, EU, Nhật Bản, Sigapor, Trung Quốc, Liên Xô... Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản trong 3 năm qua luôn luôn chiếm tỷ trọng từ 45 đến 47 % giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước tính đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,2 tỷ USD. Dựa trên những phân tích trên, những khởi sắc của ngành thuỷ sản là dấu hiệu rất đáng mừng trị giá thuỷ sản xuất khẩu tăng mạnh trong những năm gần đây làm cho thuỷ sản trở thành một trong những ngành mũi nhọn trong kim ngạch xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước (đứng vị trí thứ 3 trong ngành dầu khí và dệt may). Ngành thuỷ sản đã thu hút, giải quyết việc làm cho gần 9triêu lao động vào khai thác tiềm năng của nguồn lợi thuỷ sản những thành tựu đó góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành thuỷ sản năm 1990 đến 2000 1990 1995 1999 2000 8135,2 13523,9 18252,9 20198,2 890,6 1584,4 2006,8 2148,8 295,8 453,6 524,6 535,0 205,0 621,4 971,0 1300,0 - Giá trị sản xuất thuỷ sản ( tỷ đồng) sản lượng thuỷ sản (nghìn tấn) diện tích nuôi trồng (nghìn ha) thu nhập ngoại tệ (triệu USD). a. Thời kỳ 1991 – 1995 - Khai thác thuỷ sản: Do nhận thức được tiềm năng to lớn của nguồn lợi thuỷ sản ngoài khơi nên thời kỳ này ngành thuỷ sản đã tập trung khôi phục và đóng mới tầu thuyền đánh bắt xa bờ. Hệ thống cầu cảng bến cá cũng từng bước được xây dựng thêm. - Nuôi trồng thuỷ sản: Trong thời kỳ này phong trào nuôi trồng thuỷ sản bắt đầu chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Nuôi thuỷ sản thuộc vùng bãi bồi ven sông, nước mặn, nước lợ được Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư. Hình thức và đối tượng nuôi trồng ngày càng đa dạng làm cho sản lượng và giá trị nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh. b. Thời kỳ 1996 – 2000 Khai thác thuỷ sản: Nhà nước đã tập trung đầu tư 4 nghìn tỷ đồng vốn tín dụng ưu đãi để đóng mới và cải tiến 300 tầu đánh cá xa bờ và tập trung nguồn kinh phí khá lớn từ ngân sách cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nghề cá trong các năm 1997 đến 2000. Nhờ số tầu thuyền tăng đáng kể năm 1998 có 5.330 chiếc với tổng công xuất 445980 cv năm 1999 đã có 6326 chiếc với tổng công suất 796.882cv. Nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản cũng được tập trung đầu tư trong thời kỳ này. Nghề nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục phát triển theo chiều sâu, chuyển hướng sang nuôi tăng sản thông qua cải tiến và thâm canh các tỉnh ven biển và đồng bằng sông cửu long chuyển dần sang nuôi trồng nước lợ và nước mặn. Thị phần xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam và một số nước. Nhật Mỹ Châu á EU 36,25% 25% 21% 6% Trên cơ sở tình hình đã phân tích để có định hướng phát triển ngành thuỷ sản đúng với tiềm năng của nó cần khắc phục những hạn chế sau. Kết cấu hạ tầng: ngành thuỷ sản gồm cảng cá bến cá và lượng cá cũng như các hoạt động dịch vụ thuỷ sản nhìn chung còn yếu. Việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản không ổn định giá cả thất thường. Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và công tác khuyến ngư còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế vì ý thức chấp hành luật pháp của ngư dân chưa cao. ở nhiều nơi ngư dân vẫn còn sử dụng chất nổ, xúng điện, để đánh bắt thuỷ sản, làm cho nguồn lợi hải sản ven bờ bị cạn kiệt, một số loại thuỷ sản có nguy cơ tuyệt chủng. Thủ tục vay vốn ưu đãi của Ngân hàng phức tạp, phiền hà. Cho vay không đồng bộ nên tầu đóng song không đi vào sản xuất được. Trình độ của ngư dân chưa tương ứng với năng lực tầu đánh bắt, nhất là đối với tầu thuyền đánh bắt xa bờ, công xuất lớn, nên tầu thuyền tuy ít nhưng vẫn chưa phát huy hết năng lực và công suất hiện có. Nhiều quy hoạch cụ thể cho các tiểu vùng để đầu tư cho phù hợp với đồng bộ. Chưa có chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản để từ đó có giải pháp hữu hiệu giúp cho nuôi trồng thuỷ sản phát triển bền vững. Một số địa phương còn lúng túng việc chọn lựa và xây dựng các dự án khả thi để triển khai các chương trình nuôi trồng và xuất khẩu. 3. Đánh giá về thị trường xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua. Thành tựu đạt được của ngành thuỷ sản trong những năm qua đã đạt được những bước tiến đáng kể đánh dấu bước phát triển từ tự túc tự cấp chuyển sang giai đoạn phát triển hàng hoá đa dạng mặc dù cho điều kiện thời tiết không thuận lợi thiên tai liên tiếp xẩy ra thiệt hại nặng lề cho khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Nhưng thuỷ sản đã đảm bảo thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước và còn dư thừa xuất khẩu. Hàng năm thu một luồng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách Nhà nước, góp phần giảm thâm hụt cán cân thương mại. Tạo nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ nguyên vật liệu trong nước không sản xuất được. Phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ hai: Thuỷ sản đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng từ sản xuất trợ cấp tự túc sang hình thức sản xuất hàng hoá. Khai thác và nuôi trồng thuỷ sản không chỉ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước mà đã hướng tới xuất khẩu. Xoá bỏ sản xuất khép kín nâng cao trình độ văn minh cho ngư dân. Thu nhập của ngư dân không ngừng tăng lên. Cải thiện mức sống cho người dân. Năm 1990 cơ cấu kinh tế nông thôn, nông lâm ngư nghiệp chiếm 80%, công nghiệp chiếm 9,8% dịch vụ chiếm 10,2%. Đến năm 1999 cơ cấu kinh tế nông thôn tương tự là 70,2% - 16,1% - 13,7%. Thứ ba: Ngành thuỷ sản hàng năm đã thu hút một lực lượng lao động trong ngành tương đối lớn. Góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hàng năm thu hút hàng triệu lao động, góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội. Cơ cấu ngành thuỷ sản trong nông lâm ngư nghiệp là 7,5% năm1991 lên10% vào năm 1999. Thứ tư: Các sản phẩm từ ngành thuỷ sản đã có uy tín thị trường thế giới. Chúng ta đã chuyển từ xuất thô sang chế biến. Chất lượng sản phẩm ngày càng được khẳng định đã đạt hoặc xấp xỉ tiêu chuẩn thế giới. Các sản phẩm thuỷ sản đã xâm nhập vào nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực thị trường. Tại thị trường Nhật chiếm 36,25% thị phần xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. ở Mỹ con số này là 25%, ở châu á là 21% chủ yếu là Hàn quốc, Trung Quốc, Đài Loan, ở thị trường EU là 6%. Những thành tựuđã đạt được của ngành thuỷ sản trong những năm qua là ở mức còn chói lọi. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập và phát triển không phải là không có những tồn tại. Thứ nhất: các sản phẩm thuỷ sản đượ ckhai thác và nuôi trồng ở Việt Nam chưa phong phú và đa dạng ta mới chủ yếu xuất thô hoặc qua sơ chế chất lượng sản phẩm chưa cao và không được đảm bảo. Trong quá trình sản xuất và chế biến với máy móc thiết bị lạc hậu, bảo quản sản phẩm chưa tốt. Giá trị xuất khẩu thấp chưa phát huy được hết tiềm lực của ngành thuỷ sản. Thứ hai: việc khai thác đánh bắt xa bờ còn bị hạn chế do cơ sở máy móc thiết bị không được đảm bảo chúng ta chủ yếu là những loại tầu, thuyền nhỏ và vừa không cho phép đánh bắt xa bờ chưa có hoặc ít loại tầu thuyền có thể chế biến ngay tại chỗ hoạt động dài ngày trên biển. Thứ ba: trong nuôi trồng thuỷ sản các ngư dân chưa có hoặc ít được phổ biến về khoa học kỹ thuật. Trình độ lao động trong ngành thuỷ sản còn thấp. Đồng thời ngành thuỷ sản còn đưa ít loại giống nuôi mới có năng suất cao. Những tồn tại trên đây của ngành thuỷ sản có nhiều nguyên nhân trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Thứ nhất, do điều kiện thời tiết khí hậu diễn biến phức tạp nhất là trong những năm gần đây đã ảnh hưởng dẫn lớn tới sản xuất và sinh hoạt của bà con ngư dân. Thiên tai lũ lụt xảy ra đã gây thiệt hại cả người và của, gây ra rất nhiều khó khăn. Việc khắc phục hậu quả thiên tại lũ lụt và ổn định đời sống nhân dân là yêu cầu bức thiết đặt ra với các ban ngành. Thứ hai, là việc đầu tư của Nhà nước vào ngành thuỷ sản còn nhiều hạn chế việc cho đóng những đội thuyền có công suất lớn, hoạt động dài ngày và có thể chế biến ngay tại chỗ còn rất ít. Nhà nước cho bà con vay vốn để sản xuất n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61230.DOC
Tài liệu liên quan