Đề tài Ý kiến về việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng Ngân hàng hiện nay của Ngân hàng thương mại

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 3

1. Khái niệm lãi suất 3

2.Có nhiều tiêu chí phân loại lãi suất tín dụng 4

2.1 căn cứ vào thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng ngân hàng chia thành ba loại; 4

2.2 Căn cứ vào mức độ ổn đinh của lãi suất thì lãi suất được chia thành lãi suất thả nổi và lãi suất cố định. 4

2.3 Nếu căn cứ vào loại hình lãi suất tín dụng, lãi suất được chia thành nhiều loại khác nhau. 4

3.Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất. 6

3.1 Ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ: 6

3.2 Ảnh hưởng của lạm phát kì vọng 7

3.3 Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân 7

3.4 Ảnh hưởng của bội chi ngân sách 7

3.5 Những thay đổi trong thuế 8

3.6 Ảnh hưởng của tỳ giá hối đoái kì vọng 8

4.Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng 8

5. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng 10

5.1 Lãi suất cơ bản 10

5.2 Lãi suất tái chiết khấu 12

CHƯƠNG II Ý KIẾN VỀ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 14

KẾT LUẬN 25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ý kiến về việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng Ngân hàng hiện nay của Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường.Tuy mức biến động của lãi suất ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của Chính phủ và NHTW , song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lí này để xác định lãi suất. Do vậy, có thể tác động vào cung cầu thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu, chiến lược trong từng thời kì chẳng hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn cho các dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 3.2 Ảnh hưởng của lạm phát kì vọng Khi lạm phát được dự đoán tăng trong một thời kì nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng.Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lạm phát thực và lãi suất danh nghĩa và để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng tương ứng. Mặt khác, công chúng dự đoán tăng sẽ dành phần tiền tiết kiếm của mình cho việc dự trữ hàng hóa hoặc những dạng thức phi tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả những điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lí lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. 3.3 Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án bình quân phải cao hơn lãi suất các khoản vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ các dự án đầu tư và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách lãi suất phù hợp sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. 3.4 Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu tiền tăng và làm tăng lãi suất. sau nữa bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lí công chúng về gia tăng mức lạm phát và sẽ gây ra áp lực lạm phát. Chính phủ thường tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm và lãi suất thị trường có xu hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất ngân hàng cũng tăng. 3.5 Những thay đổi trong thuế Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến lãi suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các cá nhân và tổ chức cung ứng dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoản. Mọi người đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa.Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. 3.6 Ảnh hưởng của tỳ giá hối đoái kì vọng Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của những đồng ngoại tệ mạnh thì tâm lí phổ biến của người dân là coi ngoại tệ mạnh như một trong những loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tượng đô la hóa xảy ra, người dân sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm như vậy người gửi hưởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đôla Mỹ. Sự dịch chuyển này tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân hàng này phải tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay. Như vậy, khi xây dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để giảm bớt mức chênh lệch lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất cho vay bằng nội tệ và ngoại tệ. Điều này làm giảm bớt sự dịch chuyển không mong đợi từ tiền gửi nội tệ sang đô la khi đồng đô la lên giá. Ngoài những yếu tố trên , lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đới sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính Quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước…. 4.Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng Lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính theo một thời hạn xác định( ngày, tuần, tháng, quý, năm….) dùng làm căn cứ để tính toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi vay) hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay) để điều hoà lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng sao cho hợp lí là một vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo được được lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ tín dụng. Trước hết, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lí cho người gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy trong thực tế, lãi suất thực tế phải lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ lạm phát tức là: Lãi suất thực tế = tỷ lệ lạm phát + tỷ lệ người khuyến khích người gửi tiền Mặt khác, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lí cho các tổ chức tín dụng( TCTD) và NHTM tức là: Lãi suất cho vay = lãi suất tiền gửi + Các chi phí hợp lí trong hoạt động tín dụng ngân hàng + Bù đắp rủi ro trong hoạt động ngân hàng + tỷ lệ thu nhập hợp lí của ngân hàng. Đồng thời lãi suất cho vay của ngân hàng phải đảm bảo phát triển nền kinh tế tức là phải đảm bảo cho những người vay vốn ngân hàng có thu nhập hợp lí nghĩa là : Lãi suất cho vay < tỷ lệ lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Do vậy, có thể khẳng định rằng giới hạn tối đa của lãi suất tín dụng ngân hàng nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn giới hạn thấp nhất của lãi suất là chỉ số lạm phát vì nó sẽ làm cho người gửi tiền bảo toàn vốn. Tóm lại, để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích thích và mở rộng các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng được kiểm soát trong khung giới hạn sau đây: Tỷ lệ lạm phát <= lãi suất tín dụng <= tỷ suất lợi nhuận bình quân Nếu vượt quá giới hạn trên, lãi suất tín dụng sẽ gây ra tác động tiêu cực đối với nền kinh tế- xã hội, hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn, rối loạn. 5. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng Lãi suất là công cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW sẽ căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta quy định hai chỉ tiêu cơ bản là lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản. 5.1 Lãi suất cơ bản Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng trong cơ chế thị trường. Lãi suất cơ bản do NHTW xác định và công bố trên chính sách tình hình kinh tế của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ Quốc gia. Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTW tác động vào thị trường tiền tệ, thúc đẩy mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở hình thành nên lãi suất thị trường, tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên lợi ích của người gửi tiền , của người vay tiền và của TCTD. Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ. Nếu đứng trên góc độ bảo vệ lợi ich của khách hàng ( người gửi tiền và người vay vốn) người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều này có nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các TCTD không được hạ lãi suất tiền gửi một cách tuỳ tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, TCTD không được tăng lãi suất cho vay quá mức, tạo khuôn khổ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, người ta quy định lãi suất cơ bản theo chiều hướng ngược lại đó là quy định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. Điều này làm cho các TCTD không được vì muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho vay theo lãi suất quá thấp, gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các TCTD. Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn thông qua một loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông thường. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự báo hàng quý, hàng năm, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho các TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ cho từng thời kì, rủi ro trong hoạt động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái…. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất là một trong các loại lãi suất sau: 5.1.1 Lãi suất chiết khấu: Khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng, nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. 5.1.2 Lãi suất tiền gửi tối đa Thực chất của lãi suất cơ bản này là NHTW công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn. 5.1.3 Lãi suất cho vay tối đa NHTW công bố một mức lãi suất trần nhưng có thể quy định một số mức biên độ phù hợp với từng loại hình TCTD thời hạn khác nhau. 5.1.4 Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM hình thành trên cơ sở thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia và quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn với thị trường nhiều hơn và dễ dàng biến động hơn. Thông thường lãi suất cơ bản bằng lãi suất liên ngân hàng cộng thêm một biên độ gồm phí quản lí món vay, phí rủi ro. Lãi suất tái chiết khấu Khi nền kinh tế phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, NHTW chuyển sang điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi suất tái chiết khấu của NHTW. Lãi suất tái chiết khấu chủ yếu ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự tăng lên trong cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ. Còn một sự giảm xuống trong cho vay chiết khấu sẽ làm giảm cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng tiền tệ. Ngoài việc sử dụng làm căn cứ để tác động đến chính sách tiền tệ và cung ứng tiền tệ, lãi suất tái chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính vì NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng. NHTW không chỉ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng cho các NHTM mà còn cho cả hệ thống tài chính nói chung. NHTW cung cấp dự trữ cho NHTM khi các ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn xảy những cơn sụp đổ ngân hàng tài chính . Lãi suất chiết khấu có 2 tác dụng: + Tác dụng về lượng đối với khối lượng tiền tệ trong lưu thông: Việc phân tích quá trình tạo tiền đã cho thấy, các NHTM sau khi tạo ra tiền ghi sổ còn phải gửi tiền dự trữ ở NHTW để đảm bảo an toàn khi có hiện tượng người dân đổ xô đi rút tiền gửi ở NHTM. Nhu cầu này khiến họ phải đi vay ở NHTW bằng cách tái chiết khấu một phần chứng từ có giá của mình. Việc tái cấp vốn của NHTW cho NHTM có tác dụng vể lượng đối với khối lượng tiền tệ vì nó dẫn đến việc phát hành tiền của NHTW cho NHTM để họ có thể chi trả cho việc rút khỏi các NHTM. + Tác dụng về giá đối với cơ cấu lãi suất trong nền kinh tê: NHTW tái chiết khấu các chứng từ có giá do NHTM xuất trình với điều kiện NHTM phải trả một tỷ suất nhất định do NHTW đơn phương quy định. Lãi suất này gọi là tỷ suất chiết khấu hay lãi suất chiết khấu. Các loại lãi suất cho vay tư nhân tức là lãi suất tín dụng cấp cho nền kinh tế và lãi suất cho vay Nhà nước đều gắn chặt với lãi suất tái chiết khấu. Mối khi tỷ suất chiết khấu thay đổi đều có xu hướng làm tăng hay giảm chi phí cho vay của NHTW đối với các NHTM và do đó khuyến khích hoặc cản trở nhu cầu xin vay. Mặt khác khi kho bạc muốn bán tín phiếu kho bạc cho lĩnh vực ngân hàng thì họ phải chào một lãi suất tương đương với tỷ suất chiết khấu. Nói cách khác, khi ấn định tỷ suất chiết khấu NHTW cũng ấn định luôn mức lãi suất đi vay của Nhà nước. Như vậy, lãi suất tái chiết khấu chính là một công cụ để NHTW điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ Quốc gia. CHƯƠNG II Ý KIẾN VỀ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. Thực tế ở Việt Nam, lãi suất đã được tự do hoá một thời gian dài, nhất là với lãi suất tiền gửi suốt từ năm 1998 đến năm 2008, lãi suất cho vay từ 2002 đến 2008. Ưu điểm lớn nhất của cơ chế tự do hoá lãi suất là tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp, đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người cần vay…Trong giai đoạn tự do hoá lãi suất này, các NHTM có cơ hội cạnh tranh nhau để giảm lãi suất cho vay và kéo lãi suất huy động giảm xuống. Bên cạnh đó, các TCTD mở rộng huy động và cho vay đối với nền kinh tế, qua đó góp phần giúp kinh tế đạt được sự tăng trưởng trong nhiều năm. Tuy nhiên, cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế qua các năm thì áp lực lạm phát đã gia tăng từ những tháng đầu năm 2008, cùng với dấu hiệu của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới. Vì vậy, NHNN thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt để ngăn chặn đà lạm phát. Hiệu ứng ngắn hạn của nó là tác động tới tính thanh khoản của TCTD, đẩy lãi suất huy động lên cao. Do vậy, 16/5/2008 NHNN ban hành Quyết định số 16/2008, lãi suất cho vay sẽ chính thức bị khống chế trong hạn mức không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Cơ chế trần lãi suất đã có tác động tích cực bình ổn thị trường trong thời kì khủng hoảng và các cú sốc kinh tế bởi những thay đổi chính sách để chống lạm phát và suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, vai trò lích sử đó đã đến lúc phải dừng lại cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình thị trường. Thực tế ở Việt Nam thời gian qua cho thấy việc áp dụng lãi suất trần và cứng nhắc quá lâu làm cho lãi suất thị trường tiền tệ rơi vào tình trạng mất cân bằng mà biểu hiện của nó là DN khó vay được vốn từ Ngân hàng với lãi suất như quy định mà phải trả thêm các khoản phụ phí khó giải thích và bản thân NHTM khó huy động được vốn. Mặt khác, những bất cập trong cơ chế “lãi suất trần” đã làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động của các TCTD: nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng lên, trong khi nhu cầu vốn vay trung – dài hạn là rất lớn, có thể làm rủi ro mất cân đối kì hạn tăng lên. Do đó, 26/2/2010 NHNN ban hành thông tư số 07/2010/TT- NHNN cho phép các Ngân hàng được áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận với các khách hàng vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình của khách hàng vay, các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Có thể nói, việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận sẽ cho phép hình thành một mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và chấm dứt việc lách luật để tăng lãi suất.Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay khi lãi suất cho vay về cơ bản đã được thực hiện theo cơ chế thoả thuận thì lãi suất huy động vẫn bị khống chế ở mức trần 10.5/năm đã dẫn tới tình trạng bóp méo với những bất cập như sau: Lãi suất cho vay ngắn hạn phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh ở mức 12%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn theo cơ chế thoả thuận khoảng 14- 15%/năm đối với NHTMNN, khoảng 15- 17%/ năm đối với NHTMCP. Cụ thê: Mức lãi suất thoả thuận cao nhất Ngân hàng áp dụng trong thời gian tới Đơn vị: %/năm Ngân hàng Mức tối đa Tín dụng nông nghiệp Tín dụng xuất khẩu Agribank 14.5 13.2 14 Vietinbank 14 13.5 13.5 Vietcombank 14- 14.5 BIDV 14 13 12 MHB 14 14 13.5 Maritimebank 15 12 Sacombank 16.8 15 14.4 ACB 15 14.5 14 DongABank 15.6 15 14.4 VPBank 14.5 14 Eximbank 15 15 Techcombank 18 16.5 MB 13.7- 14.5 17.5 13.7 VIB 15 15 16.5 Nguồn: NHNN công bố tại cuộc họp ngày 10/4/2010 Ngoài ra, do lãi suất cho vay đã bị đẩy lên cao nên trong những tháng vừa qua, nhu cầu vay vốn chững lại do DN phải cân nhắc mới dám đầu tư ở mức lãi suất cao như vậy.Kết quả là tăng trưởng tín dụng 3 tháng đầu năm 2010 chỉ đạt 2.19% trong khi định hướng cả năm đạt 25%. Điều này làm méo mó thị trường tín dụng. Và trên thực tế, mặc dù bị khống chế trần huy động song để kích thích nhu cầu gửi tiền của khách hàng, các ngân hàng đã tìm cách lách luật, tăng lãi suất huy động bằng các chương trình khuyến mại, tặng thưởng bằng tiền mặt và các giải thưởng giá trị ngay cho khách hàng gửi tiền với giá trị tương đương 1- 2.5% số tiền khách hàng gửi. Và như vậy, lãi suất huy động hiện nay có thể lên tới 13%/năm.Do đó đã có ý kiến nên bỏ lãi suất huy động trần để các NHTM dễ dàng huy động vốn đáp ứng nhu cầu cho vay hiện nay. Trước tình hình trên đã có 2 nhóm ý kiến như sau: Thứ nhất là với lãi suất huy động, tuyệt đối không được bỏ trần trong thời gian này. Bởi tình hình thị trường tiền tệ của Việt Nam hiện nay chưa thực sự ổn định. Một số ngân hàng thương mại nhỏ vẫn sẵn sàng vi phạm các định chế pháp luật. Mặt khác, còn rất nhiều nhà băng nhỏ đang thiếu thanh khoản, đang tìm cách lách luật trong việc sử dụng nguồn vốn huy động bổ sung vào vốn điều lệ để đáp ứng con số 3.000 tỷ đồng theo quy định của Nhà nước... Không chỉ thế, những ngân hàng nhỏ một mặt huy động vốn với lãi suất cao, tìm cách bổ sung vào vốn điều lệ, mặt khác để duy trì lợi nhuận buộc họ phải đẩy mạnh cho vay những dự án phiêu lưu mạo hiểm như bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng... với lãi suất cao 19%, thậm chí 20%. Rủi ro mất trắng rất cao và nguy cơ phá sản sẽ khó tránh khỏi. Hiện nay, vốn hoàn toàn không thiếu mà thị trường chỉ thực sự khát vốn lãi suất thấp. Với các nguồn vốn vay lãi suất cao 17-18% thì doanh nghiệp cần bao nhiêu cũng có. Do đó, nếu Ngân hàng Nhà nước dỡ trần lãi suất huy động trong thời điểm này sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ chạy đua lãi suất huy động, có thể lên tới 14 - 15%..., khiến các "ông lớn" đang duy trì lãi suất tiền gửi ổn định vì không muốn mất khách hàng sẽ lao vào cuộc đua. Ngược lại, nếu không đua sẽ bị khan vốn và buộc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bơm vốn vào. Như vậy, vô hình trung sẽ thổi bùng ngọn lửa lạm phát và gây ra sự hỗn loạn cho hệ thống tiền tệ. Và kịch bản tồi tệ của năm 2008 có thể lặp lại, khi đó lãi suất cho vay bị đẩy lên cao kỷ lục 21-22% một năm khiến doanh nghiệp điêu đứng và trở thành chủ đề tranh luận gay gắt trên diễn đàn Quốc hội. Tất cả những vấn đề trên bắt buộc Ngân hàng Nhà nước không thể bỏ trần lãi suất huy động ngay thời gian này. Tuy nhiên, cũng không thể duy trì mức trần lãi suất thấp 10,5 % như hiện nay sẽ không phù hợp với mặt bằng giá cả, không phù hợp với tình hình về lạm phát và thực tế tiền tệ của Việt Nam. Do vậy, việc nới biên độ trần lãi suất phải được điều chỉnh ngay. Mức trần được coi là hợp lý nhất hiện nay sẽ là 12%. Với mức này, các ngân hàng không chỉ đảm bảo huy động được nguồn vốn mà cho vay với mức hợp lý 15 - 16% vẫn có lãi, trong khi doanh nghiệp cũng có thể chấp nhận được. Đây chính là bài toán dung hòa lợi ích của người gửi tiền, người vay tiền cũng như trung gian cho vay tài chính Một khi trần huy động được nâng lên 12% một năm, điều này có nghĩa "nhà băng mẹ" sẵn sàng bơm vốn cho các ngân hàng thương mại ở mức này nếu bị thiếu thanh khoản, Vậy thì các nhà băng cũng không dại gì phải đẩy vốn huy động vượt quá mức đó. Lúc này, trần huy động còn có vai trò giúp các ngân hàng xây dựng mức lãi suất hợp lý. Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay mức lãi suất cao là vì nhu cầu của thị trường cao. Hơn nữa, việc xác lập mặt bằng lãi suất cao sẽ giúp loại bỏ những dự án vay không hiệu quả, đồng thời tăng nguồn vốn cho những dự án kinh doanh sản xuất hiệu quả. Điều này khó xảy ra. Một ví dụ cụ thể, nếu một dự án được cho là hiệu quả nhưng mức sinh lời chỉ 18%, doanh nghiệp chỉ có thể chấp nhận mức lãi suất dưới 18%, trong khi dự án khác sinh lời 20% (nhưng độ rủi ro cao hơn) thì mức lãi suất họ chịu đựng được có thể là 18%, 19%. Tất nhiên ngân hàng sẽ cho vay đối với dự án chịu lãi suất cao hơn. Ý kiến thứ hai hiện nay có đủ yếu tố thị trường để thay đổi lãi suất trần huy động và khả năng có một cuộc chạy đua lãi suất là khó diễn ra. Lãi suất cho vay trên thị trường hiện đang phổ biến ở mức 15-17%, lãi suất huy động thực tế của nhiều ngân hàng cũng vượt khá xa so với trần 10.5%. Mức lãi suất này được xem là khá cao so với những năm trước đây (trừ năm 2008), đồng thời cao hơn rất nhiều so với lãi suất tái chiết khấu (7%) và tái cấp vốn (6%). Ngoài ra, lãi suất cho vay cũng cao hơn khá nhiều so chỉ số giá tiêu dùng hiện tại. Giải thích tình trạng lãi suất cao hiện nay có  thể đưa ra một số lý do sau: Thứ nhất: Lãi suất được đẩy lên cao là do trong thời gian qua xuất hiện tình trạng chênh lệch khá lớn giữa tốc độ tăng trưởng vốn huy động và cho vay. Tình trạng này kéo dài suốt từ năm 2007 đến nay. Cụ thể, năm 2007, tăng trưởng tín dụng là 53.9%, trong khi đó tăng trưởng huy động chỉ đạt 46.1%; năm 2008 hai chỉ số này lần lượt là 25.4% và 20.3%; năm 2009 lần lượt là 37.4% và 28.7%. Hai tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng 1.4%, trong khi đó tăng trưởng tiền gửi lại giảm 0.17%. Mức chênh lệch kéo dài và quá lớn trên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để hút tiền, đồng thời tăng lãi suất cho vay để giảm cầu tiền. Thứ hai: Lãi suất huy động và cho vay vượt xa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn của NHNN. Đây là một sự nghịch lý vì thông thường lãi suất chiết khấu là công cụ quan trọng trong điều hành lãi suất trên thị trường. Giải thích cho điều này có thể là do NHNN đang rất hạn chế cung tiền qua thị trường mở. Trong trường hợp này công cụ lãi suất chiết khấu đã giảm đi rất nhiều vai trò của nó. Lý do NHNN hạn chế việc cung tiền qua thị trường mở có thể xuất phát từ những lo ngại về lạm phát tiền tệ. Thứ ba: Việc nâng lãi suất huy động và cho vay là một hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng nóng năm 2009. Gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất đã tạo ra hơn 400.000 tỷ đồng vốn giá rẻ cho người đi vay. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách để vay tiền bất chấp nhu cầu thực tế khiến tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên mức 37.4%, vượt xa mục tiêu 25% của NHNN. Năm 2010, áp lực trả nợ đè nặng lên nhiều doanh nghiệp bởi việc chi tiêu "quá đà" trong năm trước. Ngoài ra, NHNN đặt mục tiêu kiểm soát tín dụng ở mức 25% để phòng ngừa nguy cơ lạm phát khiến cho nguồn vốn ngân hàng càng trở nên khan hiếm. Cuộc đua lãi suất năm 2008 diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt bởi nhiều yếu tố hội tụ. Lúc đó hệ thống ngân hàng căng thẳng thanh khoản khi NHNN thắt chặt các chính sách tiền tệ một cách mạnh mẽ: Ngày 17/03/2008, NHNN phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc kỳ hạn 1 năm. Sau đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nâng lên 11%, lãi suất tái cấp vốn 15%, tái chiết khấu lên 13%, lãi suất cơ bản 14%. Trong khi hiện tại, lãi suất thực tế huy động và cho vay đã cao hơn khá nhiều so với lạm phát và lãi suất chiết khấu của NHNN. Khả năng về mức lạm phát cao trong năm nay cũng khó diễn ra do mục tiêu kìm chế lạm phát được ưu tiên trong chỉ đạo của Chính phủ và cầu hàng hóa chưa có dấu hiệu tăng đột biến. Đợt bán Trái phiếu chính phủ ngày 18/3 vừa qua đã đạt 60% tổng giá trị chào bán với lãi suất 12%, do vậy, lãi suất huy động cân bằng trong dài hạn có thể ở quanh mức 11%-12%. Xét về phía ngân hàng, họ chỉ thực sự tăng lãi suất huy động khi gặp vấn đề khó khăn trong thanh khoản. Sức ép thanh khoản hiện nay của các ngân hàng không lớn như thời điểm 2008. Các ngân hàng có thể vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất khá thấp để giải quyết vấn đề thanh khoản của mình sẽ hiệu quả hơn so với việc tăng lãi suất huy động. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đang giữ ở mức ổn định, lãi suất qua đêm quanh mức 7%, lãi suất các kỳ hạn 6 tháng tháng đến 1 năm quanh mức 11.5%. Xét về điều kiện vĩ mô, thời điểm diễn ra cuộc chạy đua lãi suất lạm phát đang ở mức rất cao, một số nhận định còn cho rằng lạm phát có thể trên 30% vào cuối năm 2008. Trong khi đó tính đến tháng 3/2010, lạm phát chỉ vào khỏang 4%. So với các kênh đầu tư khác: bất động sản, ngọai tệ, chứng khóan, kỳ vọng của các nhà đầu tư năm nay cũng không thể vượt quá 11 - 12% do tình hình nền kinh tế không hồi phục nhanh như phỏng đóan, đồng USD tiếp tục mất giá, Nhà nước cấm họat động kinh doanh vàng trên sàn giao dịch tự do... Dự báo của nhiều tổ chức tài chính trong và ngòai nước cho thấy: đến cuối năm 2010, mức tăng CPI của Việt Nam chỉ ở dưới mức 2 con số. Một số khác biệt giữa thời điểm diễn ra cuộc chạy đua lãi suất năm 2008 và hiện nay Năm 2008 Tháng 3/2010 - Ngày 17/03/2008, Phát hành tín phiếu bắt buộc 20,300 tỷ đồng - 1/04/2008 tỷ lệ dự trữ bắt buộc nâng lên 11%, lãi suất cơ bản điều chỉnh tăng từ 8.75 lên 12%. - 19/05/2008, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 11 lên 13%. - Ngày 1/06/2008, lãi suất t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26915.doc
Tài liệu liên quan