Khóa luận Tình hình triển khai E-Banking tại Việt Nam

Xét từ khía cạnh dịch vụ của các ngân hàng, hội nhập đã đem lại những thách thức rất lớn. Đối với các ngân hàng thương mại quốc tế trong khu vực và trên thế giới có tiềm lực về vốn mạnh và uy tín cao thì thông thường lợi nhuận thu được từ các hoạt động dịch vụ của các ngân hàng này chiếm khoảng 40%-50% trong tổng thu nhập. Theo ước tính của các chuyên gia ngân hàng thì hiện nay các ngân hàng thương mại quốc tế đang thực hiện trên 6000 nghiệp vụ kinh doanh khác nhau về lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng Trong khi đó, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm 90%, và thực hiện tối đa khoảng 300 nghiệp vụ kinh doanh khác nhau trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng Với con số so sánh sơ bộ nói trên cho thấy lĩnh vực dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đương đầu với vô vàn khó khăn và thách thức mà trong nhiều thập kỷ nữa mới hy vọng đuổi kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới.

doc102 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2414 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tình hình triển khai E-Banking tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xác không. Nếu phát hiện ra bất cứ sai sót gì trên báo cáo tài khoản, cần báo ngay cho ngân hàng biết. Ngân hàng sẽ có trách nhiệm xem xét lại giao dịch đó, nếu đúng là có sai sót phải sửa ngay trong ngày hoặc nếu không phải trả lời bằng văn bản cho khách hàng. Với internet banking, khách hàng có thể xem, sửa đổi các chi tiết trên lệnh standing order hoặc huỷ standing order. Khách hàng cũng có thể xem các lệnh standing order hoặc các lệnh Direct Debit đã bị huỷ hoặc hết hạn. Lệnh ngừng thanh toán séc Với dịch vụ này khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng ngừng thanh toán cho một hoặc nhiều séc, tất nhiên với điều kiện là các séc này chưa được thanh toán. Khách hàng có thể phải trả phí cho dịch vụ này. Thay đổi địa chỉ và thông tin cá nhân Khách hàng có thể thông báo cho ngân hàng bất cứ thay đổi nào về địa chỉ liên lạc và thông tin cá nhân của mình như số điện thoại, số fax, địa chỉ email... Tuy nhiên, một số thông tin không thể thay đổi bằng internet banking như họ của khách hàng chẳng hạn. Nếu có thay đổi họ (ví dụ ở nước ngoài, sau khi phụ nữ lấy chồng thì đổi sang họ của chồng), khách hàng cần cung cấp cho ngân hàng một số giấy tờ chứng minh như giấy đăng ký kết hôn chẳng hạn. Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV) Vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV hay còn gọi là iTV) là một dịch vụ hết sức mới mẻ và còn đang trong bước thử nghiệm tại các nước phát triển. Đây là một loại dịch vụ có tính hai chiều được cung cấp thông qua hệ thống truyền hình kỹ thuật số. Thông tin không chỉ đi một chiều từ đài truyền hình tới các khán giả mà còn cả theo chiều ngược lại. Với dịch vụ này, khán giả không còn thụ động ngồi xem các chương trình do đài truyền hình phát mà họ hoàn toàn chủ động trong việc xem gì, khi nào. Ví dụ, khán giả có thể lấy thêm các thông tin chi tiết hơn về một bộ phim tài liệu nào đó đang phát hoặc thông qua bộ điều khiển từ xa có thể gửi ý kiến phản hồi về đài truyền hình. Một trong những tiện ích mà dịch vụ vô tuyến truyền hình tương tác có thể cung cấp cho khán giả là T-commerce (tạm dịch là Thương mại truyền hình). Thông qua dịch vụ này mà các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ nói chung và ngân hàng nói riêng có thể tiếp cận một số lượng lớn khách hàng. Để sử dụng dịch vụ ngân hàng qua hệ thống vô tuyến truyền hình tương tác, khách hàng có thể sử dụng bộ điều khiển từ xa hoặc một thiết bị đặc biệt được thiết kế riêng để nhập mã số nhận dạng hoặc mật khẩu. Đây là một loại hình dịch vụ đang được các công ty cung cấp dịch vụ, sản phẩm đặc biệt quan tâm vì hầu như gia đình nào cũng có vô tuyến nên họ có thể giới thiệu và bán sản phẩm, dịch vụ của mình với mức tối đa và hiệu quả nhất. Hơn nữa một điểm đặc biệt của hệ thống truyền hình tương tác là nó có một bộ xử lý thông tin đặc biệt có khả năng phân tích các dạng thông tin phản hồi từ phía khản giả như các loại thông tin, chương trình mà khách hàng hay quan tâm. Từ đó các nhà cung cấp dịch vụ có thể nắm rõ và chính xác nhất tâm lý, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Đây là những thông tin cực kỳ quý giá giúp cho họ cải tiến sản phẩm, dịch vụ sao cho hấp dẫn khách hàng hơn. Tuy nhiên, nhiều người còn e ngại khi sử dụng dịch vụ này vì có ý kiến cho rằng sự bảo mật và riêng tư không được đảm bảo. Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây (Wireless communications network) hay M(mobile)banking Đây là loại dịch vụ ngân hàng điện tử mới nhất hiện nay dựa trên công nghệ điện tử viễn thông không dây của mạng điện thoại di động. Thực chất dịch vụ này chính là sự kết nối điện thoại di động của khách hàng với trung tâm cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử và kết nối Internet trên điện thoại di động sử dụng giao thức truyền thông WAP (Wireless Application Protocol). Sử dụng dịch vụ mbanking, khách hàng có thể thực hiện được các loại giao dịch sau: Kiểm tra số dư tài khoản Xem chi tiết khoảng chục giao dịch gần nhất trên tài khoản Xem chi tiết các lệnh thanh toán định kỳ (standing order) Xem chi tiết các lệnh thanh toán trực tiếp (direct debit)… Ngoài ra, khách hàng còn có thể truy cập để xem các thông tin cập nhật về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, lãi suất tiết kiệm, tỷ giá hối đoái, địa điểm các máy ATM gần nhất, địa chỉ các chi nhánh của ngân hàng… Xu hướng phát triển nhanh chóng của điện thoại di động cùng với tính an toàn và tiện lợi của dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây đã mở ra triển vọng đầy hứa hẹn cho loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử mới mẻ này. Những yếu tố quan trọng trong sự hình thành và phát triển e-banking Yếu tố pháp lý Yếu tố pháp lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của bất cứ một ngành nghề nào. Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng, yếu tố này lại càng đóng vai trò quyết định vì tài chính ngân hàng luôn được coi là "huyết mạch của nền kinh tế" và để "huyết mạch" hoạt động thông suốt thì môi trường pháp lý phải hoàn thiện và ổn định. Đặc biệt, môi trường pháp lý ổn định và minh bạch sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển loại hình dịch vụ ngân hàng mới như e-banking vì nó đảm bảo cho loại hình dịch vụ này được bảo vệ, khuyến khích phát triển và cạnh tranh công bằng với các loại dịch vụ ngân hàng khác. Mặt khác, một hệ thống pháp lý đầy đủ và chặt chẽ cũng giúp giảm thiểu các rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng như tăng độ an toàn tiền gửi của khách hàng. Yếu tố khoa học công nghệ Trong vài thập kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ. Sự ra đời của mạng Internet, công nghệ điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, hệ thống vô tuyến truyền hình tương tác, … chính là tiền đề để hình thành và phát triển các loại dịch vụ ngân hàng điện tử phong phú như hiện nay. Có thể khẳng định rằng, yếu tố khoa học công nghệ sẽ luôn là yếu tố không thể thiếu được trong sự hình thành và phát triển của bất cứ một loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử nào. Yếu tố cạnh tranh Trong một môi trường mà các ngân hàng đều có thể cung cấp những sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau và số lượng khách hàng ít thay đổi, để tăng thị phần của mình các ngân hàng luôn phải cạnh tranh nhằm đưa ra các sản phẩm, dịch vụ tốt hơn, nhiều tiện ích hơn để thu hút khách hàng. Các ngân hàng trên thế giới hiện nay có xu hướng lựa chọn phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử do tính ưu việt vượt trội của nó so với các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền thống khác. Chương II: Tình hình triển khai e-banking tại Việt Nam Bối cảnh thúc đẩy sự phát triển e-banking tại Việt Nam Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung cơ bản của quá trình này là việc Việt Nam nhất trí thực hiện các cam kết kinh tế quốc tế (song phương và đa phương) trong khuôn khổ các hiệp định. Các cam kết nổi bật trong thời gian gần đây mà Việt Nam đã ký kết với các tổ chức quốc tế đó là: Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được ký kết ngày 15/12/1995 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1996. Mục tiêu cơ bản của ASEAN/AFTA là tự do hoá thương mại, xoá bỏ hàng rào thuế quan trong quan hệ buôn bán. Để thực hiện mục tiêu này, các nước thông qua công cụ chính là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Trong khuôn khổ hiệp định này, Việt Nam cam kết hoàn thành việc cắt giảm thuế nhập khẩu xuống mức 0%-5% vào ngày 1/1/2006 với hơn 6200 dòng thuế. Ngoài ra, Việt Nam sẽ dành chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia trên cơ sở có đi có lại về thuế doanh thu, thuế hàng cao cấp, xác định tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại tệ và các biện pháp khác. Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức này từ ngày 14/11/1998. Mục tiêu lâu dài đặt ra đối với lĩnh vực thuế quan trong khuôn khổ cam kết APEC là mức thuế nhập khẩu ưu đãi sẽ ở mức 0% vào năm 2018, và các ưu đãi khác dành cho tất cả các lĩnh vực trong đó có ngân hàng. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, ký ngày 13/7/2000 và có hiệu lực từ 10/12/2001. Theo Hiệp định này, Việt Nam cam kết cắt giảm hoặc không tăng thuế suất nhập khẩu đối với hơn 244 mặt hàng từ 36% xuống còn 26%. Riêng đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng, phía Việt Nam cam kết sẽ dỡ bỏ mọi hạn chế và dành cho phía Hoa Kỳ các quyền bình đẳng về lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trên nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia với lộ trình dỡ bỏ dần các hạn chế từ nay đến năm 2008. Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 1995 và đã tiến hành 4 phiên đàm phán, dự kiến vào năm 2004 sẽ chính thức trở thành thành viên của tổ chức này. WTO là điểm hội tụ đầy đủ các cam kết mà các hiệp định song phương và đa phương nói trên đã phản ánh. Các cam kết trong khuôn khổ các hiệp định nói trên đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với ngành Ngân hàng, "mạch máu của nền kinh tế". Những cam kết trên cho thấy hội nhập sẽ mở ra hàng loạt cơ hội kinh doanh mới cho ngành Ngân hàng, nhưng cũng đưa đến muôn vàn khó khăn và thách thức. Xét từ khía cạnh dịch vụ của các ngân hàng, hội nhập đã đem lại những thách thức rất lớn. Đối với các ngân hàng thương mại quốc tế trong khu vực và trên thế giới có tiềm lực về vốn mạnh và uy tín cao thì thông thường lợi nhuận thu được từ các hoạt động dịch vụ của các ngân hàng này chiếm khoảng 40%-50% trong tổng thu nhập. Theo ước tính của các chuyên gia ngân hàng thì hiện nay các ngân hàng thương mại quốc tế đang thực hiện trên 6000 nghiệp vụ kinh doanh khác nhau về lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng… Trong khi đó, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm 90%, và thực hiện tối đa khoảng 300 nghiệp vụ kinh doanh khác nhau trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng…Với con số so sánh sơ bộ nói trên cho thấy lĩnh vực dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang phải đương đầu với vô vàn khó khăn và thách thức mà trong nhiều thập kỷ nữa mới hy vọng đuổi kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức mà các ngân hàng thương mại phải đối đầu về lĩnh vực dịch vụ thì cũng chính lĩnh vực này đã và đang mở ra hàng loạt cơ hội tốt, nếu các ngân hàng thương mại biết "đi tắt đón đầu". Đặc biệt là đón bắt những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất mà các ngân hàng thương mại trên thế giới đã đi trước chúng ta hàng chục thập kỷ trong lĩnh vực này để ứng dụng nó một cách có hiệu quả nhất vào thực tiễn hoạt động tại Việt Nam. Cơ hội và thách thức luôn là bạn đồng hành trên tiến trình hội nhập. Vì vậy, để thực hiện tốt các cam kết trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các tổ chức quốc tế nói trên, toàn ngành Ngân hàng cần phải có những cải cách mạnh hơn trên mọi phương diện vĩ mô và vi mô để từng bước biến thách thức thành cơ hội trong quá trình hội nhập. Nhận thức được vấn đề trên, chúng ta đã chủ trương cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng Việt Nam, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong giai đoạn hội nhập khu vực và quốc tế. Nhiệm vụ trước mắt của các ngân hàng thương mại là mở rộng các dịch vụ ngân hàng, đưa dịch vụ đến từng doanh nghiệp, từng người dân, đưa văn minh thanh toán đến với mọi nhà, mọi người và giảm tới mức tối thiểu thanh toán dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tăng lưu lượng và những phương tiện thanh toán hiện đại qua ngân hàng, có chiến lược hội nhập và chủ động tham gia hội nhập với lộ trình và biện pháp phù hợp, nhất là nâng cao năng lực quản trị điều hành theo kịp các chuẩn mực quốc tế để đủ sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Tình hình triển khai e-banking tại Việt Nam nói chung Từ năm 2002 và đặc biệt là đầu năm 2003, nhiều ngân hàng trong nước đưa vào sử dụng các dịch vụ e-banking hiện đại như phone-banking (dịch vụ ngân hàng qua điện thoại), home-banking (dịch vụ ngân hàng tại nhà), internet banking (dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu). Nhưng đây chỉ được xem là bước tập dượt để phát triển mô hình cao hơn nữa là online banking (ngân hàng trực tuyến). Do phải phụ thuộc vào công nghệ nên hiện nay các ngân hàng trong nước mới chỉ áp dụng phổ biến dịch vụ phone-banking hoặc home-banking. Bằng hình thức này, phần lớn các yêu cầu được đáp ứng là thông báo những thông tin cơ bản như lãi suất, tỷ giá ngoại tệ hàng ngày, các sản phẩm ngân hàng, biểu phí…Đây là những thông tin mà bất kỳ một trang web nào của ngân hàng cũng có thể cung cấp được. Song nó cũng có tiện tích cao hơn là khách hàng được cấp mật khẩu để có thể truy cập thông tin về biến động tài khoản của mình. Tuy nhiên, theo đánh giá của một số chuyên viên ngân hàng, điều mà doanh nghiệp cần hiện nay là một ngân hàng trực tuyến để ngồi bất cứ đâu, truy cập mạng là có thể ra lệnh chuyển tiền dễ dàng và an toàn. Mô hình này mới chỉ được thực hiện tại các ngân hàng có vốn nước ngoài như ANZ, HSBC, Citibank...Trong nước, hiện giao dịch chuyển tiền của khách hàng được đáp ứng thông qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Còn đối với các ngân hàng riêng lẻ, việc áp dụng giao dịch trực tuyến giữa các khách hàng hoặc với ngân hàng khác đang có những hạn chế. Dịch vụ ngân hàng tại nhà hiện nay chưa được cung cấp phổ biến tại các ngân hàng trong nước. Nguyên nhân là do để thực hiện cần phải có sự đầu tư thích đáng cho công nghệ cũng như trang thiết bị mà đối tượng phục vụ của loại dịch vụ này lại chủ yếu là cho các doanh nghiệp chứ không phải tất cả các khách hàng. Hiện nay dịch vụ này mới chỉ có các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp như ANZ (ANZLink), Citibank (Citibanking), HSBC (Hexagon),…Hệ thống ngân hàng thương mại trong nước mới chỉ có duy nhất Vietcombank cung cấp dịch vụ này với tên gọi Vietcombank Money. Một dịch vụ e-banking khác đang được nhiều ngân hàng chú trọng đầu tư và hiện đang cạnh tranh gay gắt là dịch vụ thẻ. Thị trường thẻ Việt Nam đã có sự góp mặt của nhiều ngân hàng thương mại. Sự đa dạng về thành phần sở hữu, cơ cấu tổ chức của các ngân hàng đã làm cho thị trường thẻ trở nên sôi động, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt trên mọi lĩnh vực hoạt động. Tuy vậy, theo đánh giá của các tổ chức thẻ quốc tế và các chuyên gia ngân hàng tài chính trong nước, thị trường thẻ Việt Nam đang còn quá rộng lớn và đầy tiềm năng cho các ngân hàng tiếp tục đầu tư và phát triển. Dịch vụ thanh toán thẻ ngân hàng được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - ngân hàng đầu tiên đưa thẻ vào Việt Nam hồi đầu những năm 90. Đây là thời kỳ Mỹ đang cấm vận Việt Nam nên Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam không thể thực hiện thanh toán thẻ trực tiếp với các tổ chức thẻ quốc tế. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, ngân hàng phải đi đường vòng bằng cách thiết lập quan hệ đại lý thanh toán thẻ thông qua các ngân hàng và công ty tài chính nước ngoài. Năm 1990, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trở thành đại lý thanh toán thẻ Visa đầu tiên tại Việt Nam của ngân hàng BFCE Singapore, sau đó là đại lý thanh toán thẻ Mastercard của Công ty tài chính MBF Malaixia và đại lý thanh toán thẻ JCB của Công ty JCB Nhật. Có thể nói Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đã đặt những viên gạch đầu tiên cho dịch vụ thẻ ngân hàng tại thị trường Việt Nam phát triển. Đến năm 1994, ngay sau ngày Mỹ bỏ cấm vận, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ American Express với Công ty American Express Hongkong. Từ đó cho đến gần hết năm 1995, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giữ vị trí độc quyền cung ứng trong dịch vụ thanh toán thẻ ngân hàng tại thị trường Việt Nam. Từ năm 1996, thị trường thẻ Việt Nam bắt đầu trở nên sôi động với sự tham gia của các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Tháng 4/1996, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cùng với Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu (ACB), Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu (Eximbank) và ngân hàng liên doanh FirstVina trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thẻ quốc tế Mastercard tại Việt Nam. Cũng vào thời điểm đó, thẻ tín dụng quốc tế Mastercard đầu tiên được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát hành tại Việt Nam. Năm 1997, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được Tổ chức thẻ quốc tế Visa kết nạp là thành viên. Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 đã có những ảnh hưởng nhất định đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, nhất là du lịch và đầu tư nước ngoài. Từ năm 1997 đến 1999, doanh số thanh toán thẻ quốc tế tại Việt Nam sụt giảm hẳn do lượng khách du lịch và đầu tư giảm sút. Sau khủng hoảng, các ngân hàng khu vực phải chuyển hướng chiến lược sang lĩnh vực dịch vụ bán lẻ và thị trường tiêu dùng. Kết quả là lĩnh vực phát triển thẻ có được một tầm quan trọng mới trong tầm nhìn của các ngân hàng khu vực. Không nằm ngoài xu hướng đó, tại Việt Nam, dịch vụ thẻ ngân hàng cũng bắt đầu được chú trọng đầu tư phát triển. Từ năm 2000 trở lại đây, thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam đã có những biến đổi tích cực. Hầu hết các ngân hàng đều triển khai dịch vụ thẻ. Nhiều sản phẩm thẻ khác nhau, cả sản phẩm mang thương hiệu quốc tế và nội địa đều được đưa vào thị trường. Trong những năm qua, dù là trong thời kỳ khó khăn nhất, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn luôn phát huy vai trò tiên phong của mình trên thị trường thẻ Việt Nam. Với định hướng chiến lược phát triển đúng đắn, với hệ thống công nghệ đạt chuẩn quốc tế, với hệ thống thanh toán thẻ kết nối trực tuyến với các Tổ chức thẻ quốc tế, với những kinh nghiệm tích luỹ trong suốt quá trình hoạt động, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tiếp tục bước những bước vững chắc hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế và khẳng định vai trò của mình tại thị trường thẻ ngân hàng trong nước. Hiện tại, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chiếm hơn 40% thị phần thanh toán và phát hành thẻ tín dụng quốc tế, hơn 50% thị phần thanh toán và phát hành thẻ ghi nợ. Thời Báo Ngân hàng số ra ngày 26-28/03/2003 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng là ngân hàng duy nhất trên thị trường có hệ thống máy thanh toán thẻ chấp nhận cả 6 loại thẻ tín dụng và ghi nợ thông dụng: 5 loại thẻ trên thị trường quốc tế là Visa, Mastercard, American Express, JCB, Diners Club và 1 loại thẻ tại thị trường Việt Nam là Vietcombank Connect 24. Các sản phẩm và dịch vụ mới đã, đang và sẽ được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tiếp tục đưa ra thị trường với những tính năng vượt trội. Tình hình triển khai e-banking tại hệ thống ngân hàng trong nước Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Đi đầu các ngân hàng thương mại trong nước trong quá trình hiện đại hoá Ngân hàng là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh được thành lập sớm nhất ở Việt Nam trong thời kỳ xây dựng đát nước và đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Ngày 30/10/1962, theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trên cơ sở bộ máy của Cục Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1/4/1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Trong suốt 40 năm qua, ngay cả trong thời kỳ cơ chế bao cấp, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam do đặc thù là gắn liền với các quan hệ kinh tế quốc tế nên cũng là nơi tiếp nhận được nhiều thông tin cũng như mối quan hệ kinh tế đòi hỏi phải vươn lên sát với yêu cầu của hoạt động tài chính ngân hàng quốc tế. Đặc biệt là trong hơn 15 năm đổi mới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để sớm trở thành ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như huy động vốn, cho vay và nhất là phát triển dịch vụ ngân hàng. Những năm gần đây, thực hiện yêu cầu cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu các ngân hàng trong nước về phát triển các dịch vụ tiện ích ngân hàng hiện đại bằng cách áp dụng công nghệ thông tin và đã theo sát được yêu cầu của một ngân hàng thương mại có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Trong 6 năm liên tiếp, từ 1995 đến 2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được Ngân hàng JP Morgan Chase công nhận là "Ngân hàng có chất lượng dịch vụ thanh toán tốt nhất" trong khu vực. Có thể coi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đi đầu tạo nên một sự thúc đẩy và lôi cuốn để các ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng thương mại khác trong nước cùng với mình thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong giai đoạn hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. VCB thực hiện vai trò đại lý thanh toán, sau đó là đại lý phát hành các loại thẻ tín dụng quốc tế (Visa và Master vào tháng 4/1996, AMEX vào tháng 9/1996), phát hành thẻ tín dụng VCB-VISA (1998). Đặc biệt, vào tháng 5/2002, với việc khai trương hệ thống ngân hàng trực tuyến (VCB-Online) và hệ thống rút tiền tự động (ATM) đã mang lại tầm vóc mới về công nghệ ngân hàng được áp dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nó cũng mang lại cho khách hàng những tiện ích khi mọi giao dịch được thực hiện tức thì không cần qua khâu trung gian nào. Khách hàng có thể tự thực hiện các giao dịch tại máy ATM gần nhất để sử dụng các dịch vụ tự động hoá có tính chính xác cao. Còn hệ thống giao dịch tự động (Connect 24) cho phép khách hàng giao dịch ở bất cứ đâu - nơi có cơ sở giao dịch của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, giúp cho khách hàng vượt qua được hạn chế về không gian và thời gian. Thẻ VCB Connect 24 thực chất là một thẻ ghi nợ nội địa, chưa sử dụng được ở nước ngoài. Hiện nay khách hàng dùng loại thẻ này có thể thanh toán được tại hầu hết các siêu thị lớn trên toàn quốc. VCB đang tích cực mở rộng phạm vi thanh toán thẻ, không phải chỉ ở các siêu thị mà còn ở các cửa hàng, khách sạn, trung tâm giải trí,… và nói chung là tất cả những nơi diễn ra các hoạt động mua bán, giao dịch và chi tiêu hàng ngày. VCB cũng đang phối hợp với một số công ty bảo hiểm để thực hiện thanh toán phí bảo hiểm qua thẻ. Trong trường hợp khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ thì thay vì hàng tháng khách hàng phải trả một khoản phí cho Công ty bảo hiểm thì tới đây khách hàng không cần làm thủ tục như vậy nữa mà chỉ cần thực hiện trừ tiền trên tài khoản của mình. Tiến đến, VCB cũng dự định cho phép chủ thẻ Connect 24 có thể thanh toán tiền điện, điện thoại … thông qua dịch vụ thẻ này. Phần lớn khách hàng sử dụng thẻ Connect 24 hiện nay là nhân viên của các doanh nghiệp mở tài khoản để nhận lương. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký tài khoản các nhân cho nhân viên của mình và yêu cầu phát hành thẻ Connect 24 cho nhân viên. Thay vì lĩnh tiền mặt để trả lương cho nhân viên thì đến kỳ lương doanh nghiệp chỉ cần lập một bảng lương và yêu cầu ngân hàng chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của từng nhân viên. Điều này tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công sức cho bộ phận kế toán của công ty, giảm thiểu được sai sót so với việc trả lương bằng tiền mặt. Hơn nữa thông tin về tiền lương của các nhân viên được đảm bảo bí mật tuyệt đối. Về phía nhân viên, nhận lương bằng cách này cũng rất thuận tiện cho họ vì họ có thể rút tiền bất cứ khi nào cần bằng cách dùng thẻ Connect 24. Ngoài ra, số tiền chưa dùng tới trong tài khoản cũng được tính lãi giống như một sổ tiết kiệm vậy. Hai hệ thống đa tiện ích là Dịch vụ ngân hàng trực tuyến (VCB-Online) và Hệ thống giao dịch tự động ATM (Connect 24) đã có vai trò kinh tế - xã hội đáng kể, khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ ngân hàng, thanh toán qua ngân hàng, thay đổi thói quen dùng tiền mặt trong lưu thông. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện đang là ngân hàng Việt Nam đầu tiên tham gia vào hệ thống ATM toàn cầu. Bên cạnh đó, việc phát triển sản phẩm ngân hàng điện tử (VCB-Money) và dịch vụ ngân hàng Internet là bước đột phá trong phát triển công nghệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam so với các ngân hàng thương mại khác ở nước ta. Đến nay đã có hơn 200 tổ chức kinh tế và 29 tổ chức tín dụng sử dụng VCB-Money. Với chiến lược phát triển thành ngân hàng đa năng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chú trọng đến các sản phẩm dựa trên công nghệ. Chiến lược này đảm bảo phục vụ tốt hơn cho thị trường nội địa 80 triệu dân, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có những thành quả đáng khích lệ. Tính đến nay, lượng thẻ tín dụng quốc tế phát hành khoảng trên 17.000. Số tiền sử dụng trên thẻ là 254,55 tỷ VND và số tiền thanh toán qua thẻ là 108 triệu USD. Nguyên nhân tăng là do công nghệ thanh toán thẻ đã được cải thiện, mạng quản lý, thanh toán đã ổn định. Chỉ sau chưa đầy 1 năm đi vào hoạt động hệ thống giao dịch tự động Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Connect-24 đã đạt trên 50.000 thẻ được phát hành, hơn 40.000 tài khoản cá nhân được mở thêm với bình quân khoảng 3.000 giao dịch/ngày. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tiến hành sơ kết giai đoạn 1 để chuẩn bị tiếp tục triển khai giai đoạn 2 với việc đưa vào hoạt động thêm 70 máy ATM trong năm 2003 nâng tổng số lên 200 máy trên toàn quốc. Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu có tên giao dịch quốc tế là Asia Commercia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình triển khai E-Banking tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan