Khóa luận Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc

MỤC LỤC

 

LỜI CẢM ƠN 1

PHẦN MỞ ĐẦU 2

1. Lý do chọn đề tài: 2

2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu: 4

2.1. Mục đích nghiên cứu: 4

2.2. Đối tượng nghiên cứu 4

3. Phương pháp nghiên cứu 5

4. Bố cục khoá luận: gồm ba phần: 5

PHẦN NỘI DUNG 6

Chương 1: Những nhận thức cơ bản về du lịch và văn hoá truyền thống của dân tộc 6

1. Những khái niệm cơ bản về du lịch: 6

1.1. Khái niệm du lịch: 6

1.2. Một số khái niệm liên quan: 11

1.3. Sơ lược về sự phát triển của du lịch 15

1.4. Các loại hình du lịch ở Việt Nam 18

2. Nhận thức cơ bản về văn hoá 21

2.1. Khái niệm văn hoá 21

2.2. Di sản văn hoá vật thể và phi vật thể 23

2.3. Khái niệm truyền thống và hiện đại 23

2.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá 24

Chương 2: Thực trạng du lịch Việt Nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của người Việt 28

2.1. Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. 28

2.1.1. Vai trò của nghành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân: 28

2.1.2. Vai trò của du lịch đối với văn hoá – xã hội 31

2.2 Thực trạng du lịch Việt nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của người Việt 32

2.2.1. Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể 39

2.2.2 Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống phi vật thể: 56

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị để phát huy vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống 66

3.1 Một số giải pháp để phát huy vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống: 66

3.2. Một số kiến nghị 72

PHẦN 3. KẾT LUẬN 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO 76

 

 

doc80 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3683 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âu “ trăm nghe không bằng một thấy” thì du lịch cũng là một trong những cơ hội để các nhà đầu tư thấy trực tiếp, quan sát trực tiếp, tìm hiểu trực tiếp tiềm ăng, cơ hội đầu tư cho các dự án phát triển du lịch, phát huy giá trị du lịch. Bên cạnh đó, du lịch còn là ngành kinh tế tổng hợp có nội dung văn hoá sâu sắc có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao nên du lịch còn có vai trò giúp cho người đi du lịch muốn được trải nghiệm và thẩm nhận những giá trị văn hoá của cộng đồng khác. Cũng như du lịch đáp ứng được nhu cầu mong muốn được hoàn thiện mình, ai ai cũng muốn nâng cao trình độ hiểu biết của mình dể trở thành những bậc vĩ nhân như trong huyền thoại … Chính những mong muốn được mở mang trình độ hiểu biết, sự tò mò tìm hiểu và khám phá chân trời mới trong tiềm thức mỗi con người đều trỗi dậy những ý tưởng về nền văn minh cổ đại và họ muốn khám phá ra những điều bí mật ấy. Chính những nhu cầu này mà ngày nay xu hướng du lịch văn hoá ngày càng phát triển, du khách muốn đi tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ngày càng nhiều. Như vậy, du lịch đóng vai trò thiết yếu và không thể thiếu được đối với nền văn hoá xã hội Việt Nam. 2.2 Thực trạng du lịch Việt nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của người Việt Là một ngành kinh tế mũi nhọn song mục đích của phát triển du lịch không chỉ vì lợi nhuận kinh tế. Điều quan trọng và căn bản hơn là du lịch trực tiếp góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam đối với thế giới cũng như các nước trong khu vực. Có thể nói, khách nước ngoài đến với Việt Nam bởi nhiều lý do trong đó có sự thân thiện của con người Việt nam. Đây là một thế mạnh mang tính truyền thống cần được gìn giữ phát huy. Mặt khác, qua du lịch, khách muôn phương có dịp hiểu hơn về con người, đất nước, kinh tế, văn hoá Việt Nam. Du lịch Việt nam giống như một sứ giả hoà bình và hữu nghị thắt chặt tình thân ái với bạn bè năm châu.Vì thế, Việt nam ngày càng trở thành điểm đến hẫp dẫn của khách du lịch quốc tế. Bảng thống kê dưới đây cho ta thấy số lượng khách du lịch trong 9 tháng của năm 2007. kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam 9 th¸ng n¨m 2007 Th¸ng 9 Céng dån Th¸ng 9/2007 Th¸ng 9/2007 9 th¸ng n¨m 9 th¸ng ®Çu so víi so víi cïng ®Çu n¨m 2007 2007 n¨m 2007 th¸ng 8 kú n¨m tríc so víi cïng (Lît kh¸ch) (Lît kh¸ch) n¨m 2007 (%) (%) kú n¨m tríc (%) Tæng sè 358,000 3,171,763 100.6 132.0 118.5 I. Chia theo ph¬ng tiÖn ®Õn: 1. §êng kh«ng 279,733 2,475,540 101.3 131.5 126.5 2. §êng biÓn 21,565 168,923 98.6 118.3 95.5 3. §êng bé 56,702 527,300 97.9 141.1 96.9 II. Chia theo môc ®Ých chuyÕn ®i: 1. Du lÞch, nghØ ng¬i 221,096 1,969,208 100.9 140.4 128.9 2. §i c«ng viÖc 57,893 481,388 99.4 102.5 114.2 3. Th¨m th©n nh©n 48,961 455,697 103.9 156.6 104.5 4. C¸c môc ®Ých kh¸c 30,050 265,470 95.4 115.8 91.0 III. Chia theo mét sè thÞ trêng chñ yÕu 1. Trung quèc 49,080 422,957 98.0 123.8 100.7 2. Hång K«ng 628 4,307 99.7 201.3 138.6 3. §µi Loan 30,153 243,741 100.6 137.6 118.0 4. NhËt 34,802 304,599 107.1 82.8 110.0 5. Hµn Quèc 37,257 372,681 94.4 116.6 121.7 6. Campuchia 10,900 116,628 93.7 170.9 91.3 7. Indonesia 1,881 17,292 100.4 102.3 111.4 8. Lµo 2,767 23,865 103.9 90.0 84.9 9. Malaysia 12,374 109,248 99.0 133.4 157.5 10. Philippin 2,728 23,926 95.4 125.8 114.8 11. Singapore 11,001 95,326 97.4 124.3 130.0 12. Th¸i Lan 13,602 120,867 99.9 161.7 137.3 13. Mü 32,889 323,758 105.1 141.4 111.0 14. Canada 7,595 72,083 105.2 218.3 131.6 15. Ph¸p 17,681 141,219 102.4 233.1 147.4 16. Anh 9,748 79,809 102.5 172.7 130.1 17. §øc 7,649 71,775 104.8 182.5 130.7 18. Thuþ sÜ 1,671 15,477 101.3 170.7 129.9 19. Italy 2,133 16,674 82.0 203.6 151.7 20. Hµ Lan 3,934 27,543 102.2 188.9 147.9 21. Thuþ ®iÓn 1,155 16,842 130.5 145.6 126.3 22. §an M¹ch 1,470 15,738 95.4 133.0 114.7 23. PhÇn Lan 220 4,449 92.2 86.1 106.9 24. BØ 1,790 14,185 114.5 211.5 140.0 25. Na uy 888 8,777 112.7 193.9 89.0 26. Nga 2,879 33,051 103.5 131.0 157.0 27. T©y Ban Nha 3,852 20,220 71.6 159.9 132.8 28. óc 17,618 166,601 101.4 125.6 133.4 29. Niudil©n 1,661 14,792 97.4 120.6 142.5 30. C¸c thÞ trêng kh¸c 34,888 262,914 105.9 152.2 124.6 Nguån: Tæng côc Thèng kª Trong đó 15 nước có lượng khách vào Việt Nam lớn nhất gồm: 15 THÞ TR¦êNG DÉN §ÇU VÒ kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam (XÕp theo n¨m 2007) §¬n vÞ: Lît kh¸ch N¨m 2000 N¨m 2001 N¨m 2002 N¨m 2003 N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007 Tæng sè 1,734,025 1,881,797 2,147,832 2,006,641 2,485,519 2,957,877 3,038,857 3,555,383 1. Trung Quèc 626,476 672,846 724,385 693,423 778,431 717,409 515,286 574,627 2. Hµn Quèc 53,452 75,167 105,060 130,076 232,995 325,882 421,741 475,388 3. NhËt 152,755 204,860 279,769 209,730 267,210 338,509 383,896 418,333 4. Mü 208,642 230,470 259,967 218,928 272,473 330,197 385,654 408,323 5. §µi Loan 212,370 200,061 211,072 207,866 256,906 274,379 274,663 319,291 6. óc 68,162 84,085 96,624 93,292 128,661 148,839 172,519 224,619 7. Ph¸p 86,492 99,700 111,546 86,791 104,025 133,432 132,304 183,790 8. Th¸i Lan 26,366 31,789 40,999 40,123 53,682 86,844 123,804 167,043 9. Malaysia 20,378 26,265 46,086 48,662 55,717 80,602 105,558 153,507 10. Campuchia 124,557 76,620 69,538 84,256 90,838 198,582 154,956 150,216 11. Singgapore 29,100 32,110 35,261 36,870 50,942 82,240 104,947 138,190 12. Anh 56,355 64,673 69,682 63,348 71,016 82,909 84,264 107,468 13. §øc 32,058 39,096 46,327 44,609 56,561 69,378 76,745 101,821 14. Canada 30,845 35,963 43,552 40,063 53,813 63,780 73,744 89,467 15. Nga 6,017 8,092 7,964 8,604 12,249 24,895 28,776 43,300 Nguån: Tæng côc Thèng kª Đến tháng 4/ 2008, chúng ta đã đón 1,96 triệu lượt khách nước ngoài, tăng 116,1% so với cùng kỳ của năm 2007. Dự kiến, con số này còn cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo của năm 2008. Điều đó chứng tỏ, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Cùng với sức hấp dẫn của ngôi sao đang lên, du khách nước ngoài lựa chọn Việt Nam vì đây còn là điểm đến thân thiện có bề dày lịch sử mấy nghìn năm cùng với truyền thống văn hoá, đa dạng và phong phú. Như vậy, du lịch giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đã được khẳng định một cách sâu sắc hơn bao giờ hết. Khôi phục, lưu truyền và giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Đặc tính của khách du lịch là sau mỗi chuyến du lịch, khi trở về nơi cư trú họ thường kể lại cho bạn bè, người thân nghe những gì họ đã thu lượm được trong chuyến du lịch. Một phần không nhỏ trong câu chuyện là về bản sắc văn hoá, truyền thống và tính cách của con người nơi mà họ đã tham quan du lịch. Cứ tính theo một cách suy diễn thông thường nếu du lịch đảm nhận tốt vai trò của mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống thì ảnh hưởng đó sẽ được nhân lên 5,6 lần và có thể là nhiều hơn thế trong cộng đồng, trong xã hội. Nhờ có du lịch mà giá trị văn hoá, truyền thống không bị mai một hoặc mất dần đi mà ngược lại các truyền thống đó luôn được ghi nhớ trong lòng du khách từ các thế hệ này đến thế hệ khác. Cũng có khi những giá trị văn hoá truyền thống đã bị lãng quên theo thời gian nhưng du lịch lại góp phần khôi phục lại những truyền thống đó bằng cách dựng lại những hình ảnh, những biểu tượng hoặc sự kiện có liên quan để phục vụ cho sự khám phá, thích tìm hiểu của du khách. Du lịch tạo ra nguồn kinh phí để tu bổ các giá trị văn hoá vật thể. Du lịch được xác định là một ngành công nghiệp không khói, một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Trong tương lai, đây là ngành có nhiều tiềm năng và triển vọng. Nguồn thu từ du lịch tương đối lớn nó góp phần cân đối ngân sách và đóng góp hang tỷ đồng cho đất nước. Một phần ngân sách thu được từ du lịch được trích ra để tạo nguồn kinh phí tu bổ các giá trị văn hoá vật thể như: công trình kiến trúc, đình chùa miếu, lăng tẩm,… Sự tôn tạo này nhằm khôi phục lại những gì đã xuống cấp của các di sản văn hoá. Điều này thể hiện tương đối rõ vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc khẳng định, tôn vinh giá trị văn hoá truyền thống. Mỗi điểm du lịch đều ẩn chứa trong mình những giá trị văn hoá sâu sắc, những truyền thống độc đáo của dân tộc. Ngay cả phong cách lối sống của cư dân tại điểm cũng thể hiện điều đó. Khi du khách đi du lịch sẽ được thẩm thấu các giá trị văn hoá đó qua nhiều cách khác nhau như tự khám phá cảm nhận, hay qua sự truyền đạt giàu cảm xúc rung động lòng người từ hướng dẫn viên du lịch hoặc cũng có thể từ những thông tin đã được cung cấp tại điểm du lịch. Vậy có thể thấy du lịch có vai trò quan trọng trong việc truyền đạt và lưu giữ giá trị văn hoá truyền thống trong lòng du khách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nó tạo nên một sức sống trường tồn của văn hoá truyền thống . Du lịch bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống như một tài nguyên quý giá. Vì văn hoá truyền thống còn được coi là nguồn tài nguyên để phát triển du lịch. Muốn phát triển du lịch một cách bền vững thì nhất định phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy chính nguồn tài nguyên quý giá này. Du lịch coi văn hoá truyền thống của dân tộc như một điểm mạnh, một sự độc đáo và làm nên sự khác biệt của du lịch nước ta với các nước khác. Cho nên, ngành du lịch đã nghiên cứu về giá trị văn hoá của nứơc ta. Sự nghiên cứu này tạo nên sự hiểu biết về văn hoá dân tộc hay có những tác phẩm về văn hoá du lịch hay du lịch văn hoá từ đó mà ra đời. Các tác phẩm này giống như một kho tang quý giá giúp cho các thế hệ đời sau hiểu hơn về văn hoá của 54 dân tộc anh em. Du khách đi du lịch đồng nghĩa với việc kích thích tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ trong đó có các sản phẩm văn hoá gồm cả sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể. Ví dụ: khi du khách đến thăm làng nghề họ sẽ muốn mua những sản phẩm do các nghệ nhân tạo ra, hay đơn giản hơn họ đi du lịch chỉ để thưởng thức một món ăn truyền thống nổi tiếng. Đây cũng là hình thức kế thừa và phát huy giá trị văn hoá dân tộc. Du lịch còn giống như một sợi dây liên kết vô hình gắn chặt các quốc gia khu vực với nhau. Khi du khách đi du lịch tạo ra sự giao lưu giữa các vùng miền với nhau. Đây cũng là cơ hội cho những nhà nghiên cứu, những người làm du lịch hay bất cứ ai ai đổi các kinh nghiệm bảo tồn và phát triển văn hoá. Từ đó có những phương pháp tối ưu nhất để bảo tồn và phát triển giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta. Để có nhận thức tổng quát về vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống chúng ta sẽ đi sâu xem xét vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể qua ví dụ điển hình sau: 2.2.1. Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, Việt Nam được biết đến là một vùng đất còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hoá và cách mạng có giá trị. Giá trị đặc biệt quan trọng bởi giúp tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc, tập quán các làng xã, để các thế hệ hôm nay và mai sau có thêm hiểu biết về cội nguồn dân tộc, truyền thống quê hương. Trong đó làng quê Kinh Bắc- một vùng truyền thống, nơi quần tụ bao đời, cái nôi văn hoá của cả nước, nơi có truyền thống khoa bảng, lưu giữ những huyền thoại đẹp với bao di tích và lễ hội dân gian - một điểm du lịch hấp dẫn, đựơc coi là một ví dụ điển hình của việc phát triển du lịch gắn liền với bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì thế, trong phần này sinh viên đã chọn Bắc Ninh để phân tích, tìm hiểu vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống trên địa bàn tỉnh và mang những nét chung của ca đất nước. Theo ông Nguyễn Duy Nhất, PGĐ ban quản lý di tích Bắc Ninh thì toàn tỉnh hiện có 1259 di tích thuộc các loại hình: di tích lịch sử - văn hoá, di tích kiến trúc nghệ thuật, và di tích cách mạng. Trong đó, nhiều nhất vẫn là đình, đền và chùa. Có thể kể đến những chùa như Chùa Dâu, Phật Tích…là những di sản văn hoá tiêu biểu của quê hương Kinh Bắc và dân tộc. Đây là các chứng tích vật chất xác thực, phản ánh sinh động về lịch sử lâu đời và truyền thống văn hiến – cách mạng của nhân dân Bắc Ninh nói riêng cũng như cả nước nói chung. - Chùa Dâu: Chùa Dâu được bộ văn hoá thông tin đưa vào danh mục 38 di tích quốc gia đặc biệt. Cùng với việc xác định giá trị lịch sử văn hoá của di tích, lập bản đồ đất đai va khoanh vùng bảo vệ di tích, ngăn chặn xâm hại di tích, trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn di tích cũng được quy định một cách rõ ràng. Chắc hẳn câu ca dao cổ: Dù ai đi đâu về đâu Hễ trông thấy tháp Chùa Dâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu đã đi sâu vào tâm trí mỗi du khách như một lời nhắc nhở, một lời mời gọi về thăm lại chùa Dâu. Miền Dâu, liên lâu hoặc luy lâu - huyện Thuận Thành ngày nay nằm gần trung tâm châu thổ Bắc Bộ. Khi đến thăm chùa Dâu du khách sẽ được hiểu thêm về Luy Lâu đó là một trong 3 trung tâm Phật giáo lớn trong đế chế Trung Hoa là luy lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Hơn nưa miền Dâu sớm trở thành một trung tâm thương mại sầm uất mang tầm cỡ quốc tế. Nơi đây là chốn đô hội, thủ phủ của quận Giao Chỉ và Châu Giao, trung tâm giao lưu kinh tế, văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta những thế kỷ sau công nguyên với các nước trong vùng. Trung tâm Phật giáo Dâu được hình thành trong bối cảnh đó. Đồng thời, khách du lịch cũng được cung cấp những thông tin về chùa Dâu như chùa xưa có tên chữ là “Cổ Châu Tự”, “Thiền Địch Tự”, và ngày nay là “Diên ứng tự”. Tên Phổ biến vẫn được gọi là chùa Pháp Vân theo tên Vị Phật được thờ ở chùa, còn Chùa Dâu là theo tên địa phương. Đây là ngôi chùa có lịch sử hình thành và phát triển cổ nhất trong số các chùa còn lại ở nước ta hiện nay. Được xây dựng vào thế kỷ VI sau công nguyên gắn liền với lịch sử du nhập đạo phật vào vùng Dâu. Chùa được coi là trung tâm phật giáo của vùng Dâu. Tại chùa Dâu có một cây tháp lớn có chân hình vuông. Dân gian truyền rằng tháp này do Mạc Đĩnh Chi xây dựng lại, cao chín tầng. Mặc dù mặt tháp không có trang trí hoa văn nhưng giá trị kiến trúc mỹ thuật được thể hiện ở hình khối, màu gạch và mạch vữa, có mối quan hệ với kiến trúc. Chùa tháp của Ấn Độ trong buổi đầu dựng chùa tháp Hoà Phong là một biểu tượng thể hiện sự giao thoa văn hoá và tín ngưỡng bản địa giữa người Việt Nam và Ấn Độ. Du khách còn được thưởng thức những tác phẩm có giá trị nghệ thuật thẩm mỹ cao như: nan can bậc cửa trước của tháp chạm thành khối lượng tròn, mỗi bên có một con sóc nằm phủ phục theo dáng bò từ trên xuống. Đây là sản phẩm của thời Trần. Hay tấm bia ghi lại việc xây dựng tháp, con cừu đá dài 1,33m cao 0,88m. Tượng cừu được tạo bằng đá sa thạch biến chất nằm gọn trong khối chữ nhật, rừng cong, tai dài, có râu chải thẳng xuống, miệng ngậm, mũi bẹt, mũi ti hí. Hình tượng nghệ thuật này rất hiếm trong nghệ thuật điêu khắc Việt Nam. Từ nghệ thuật điêu khắc cho đến chất liệu của tượng đã thể hiện sự giao thoa văn hoá giữa Việt Nam, Ấn Độ và Trung Hoa mang dấu ấn của lịch sử phát triển vùng Dâu và thành cổ luy lâu. Ngoài ra, còn nhiều tác phẩm đẹp của các nghệ sỹ trong thời Trần còn lưu lại đến ngày nay. Cánh gà ngoài cửa giữa cột cái và cột hiên có mảng ván thời nhà Trần chạm dây hoa, còn lại đều là của thời Lê thuộc nửa cuối thế kỷ XVII với hình rồng ổ mẹ con đùa giỡn nhau, đây là hình tượng nghệ thuật mang đầy chất dân gian. Bên trong thượng điện là những tượng phật đa dạng, phong phú và đặc sắc chỉ có ở chùa Dâu, thể hiện sự giao thoa, hội nhập văn hoá giữa tôn giáo ngoại lai là phật giáo với tín ngưỡng thờ các vị thần thiên nhiên là thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp. Tuy nhiên, truyền thuyết mang đầy màu sắc huyền thoại những vị thần này trong tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước vùng nhiệt đới Bắc Bộ Việt Nam đã chuyển thành Phật Tử Pháp. Đó cũng là khát vọng bao đời của người nông dân mong sao cho mưa thuận gió hoà để nền nông nghiệp vốn phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên có thế sinh sôi nảy nở. Chùa Dâu là ngôi chùa có lịch sử cổ nhất nước ta hiện nay, một viên ngọc quý vô giá minh chứng phật giáo du nhập lớn từ những đầu thế kỷ công nguyên vào nước ta. Chùa Dâu còn là nơi giao thoa, hội nhập giữa văn hoá tín ngưỡng Việt Nam với văn hoá tín ngưỡng, kiến trúc phật giáo từ Ấn Độ. Nơi đây còn lưu giữ nhiều giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ kính vô giá, nhiều cổ vật có giá trị là những tư liệu quý hấp dẫn du khách tham quan nghiên cứu. Đến với Chùa Dâu dù chỉ một lần du khách sẽ cảm nhận được bề dày văn hoá của vùng Dâu được ghi dấu ấn rõ nét trong từng thớ gỗ, từng chi tiết kiến trúc ở đây. Vì vậy, Chùa Dâu được coi là một tài nguyên du lịch vô giá. Cũng chính nhờ du lịch mà kiến trúc độc đáo này được thẩm thấu và truyền đạt ở mức độ cao nhất. hàng năm, Chùa Dâu đón hàng ngàn lượt du khách đến thăm. để khi trở về họ ghi đậm dấu ấn của Chùa Dâu trong lòng cứ như vậy những giá trị này được khẳng định và không bị mai một theo thời gian. mặt khác chùa còn được trùng tu nhiều lần nhằm bảo vệ, phát huy giá trị lịch sử văn hoá theo hướng phát triển du lịch văn hoá nhằm phục vụ khách thăm quan du lịch. Trong đó, việc phát triển du lịch tạo ra một nguồn kinh phí đáng kể trong việc trùng tu tôn tạo di tích lịch sử văn hoá này. Nguồn thu đó có thể từ tấm lòng hảo tâm của du khách thập phương qua việc góp công đức, nguồn thu đó cũng có thể thu được từ các dịch vụ tại điểm du lịch. Mặt khác, để phục vụ cho việc phát triển du lịch, ban quản lý di tích đã có nhiều phương pháp quản lý nhằm bảo tồn khôi phục và phát triển di sản văn hoá vật thể quý giá này. Điều này có ý nghĩa trong việc chống xuống cấp làm mai một di sản. Vậy với việc bảo tồn, khôi phục và phát triển di tích Chùa Dâu du lịch đóng vai trò quan trọng. Chùa Bút Tháp: chùa có tên là “Linh khúc thiên tự” cách chùa Dâu 3 km. Tên chùa mới có từ nửa sau thế kỷ XIX do vua Tự Đức khi thấy cây tháp của chùa giống như bút đang đề thơ nên trời. Chùa có kiến trúc hoà nhập với môi trường tự nhiên bao quanh. Đây cũng là nơi có những trung tâm Phật giáo suốt từ đầu công nguyên đến đầu thời tự chủ. Chùa Búp Tháp là một ngôi chùa độc đáo, có bộ cục gọn gàng, chặt chẽ và rất sinh động. Việc xây dựng dựa vào các vật liệu bền chắc và đã kế thừa những nét truyền thống dân tộc từ thời đại Lý, Trần trước đó. Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu trung tâm nhưng lại tự nhiên ở khu vực xung quanh. Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp bao gồm 9 đơn nguyên chạy song hàng, bố trí đăng đối trên một đường “linh đạo” lối bố trí đăng đối theo trục chính và phương pháp về xử lý các khối kiến trúc của công trình đã tạo nên vẻ thâm nghiêm, u tịch và thanh thoát cho cảnh chùa Mở đầu là tam quan ba gian, hai mái, tường hồi, bít dốc. Gác chuông hai tầng tám mái, nền vuông, một gian hai dĩ, tám hoa. Toàn khối kiến trúc như một bông sen khổng lồ, độc đáo và hấp dẫn. Trong chùa còn có nhiều kiểu kiến trúc lạ và đẹp mắt tạo sự thanh thoát, bay bổng. Các tháp chính ở vòng ngoài tuân thủ triệt để nguyên tắc đăng đối: phía sau chùa là tháp Tôn Đức nằm trên đường trục, bằng đá ghép, bình diện vuông, năm tầng là điểm cuối đưa nhịp điệu kiến trúc hoà vào sự bay bổng lên không khung, hai bên có hai tháp đá khác cùng hàng ngang nhưng nhỏ hơn. Hai bên sườn chùa, từ giữa hồi nhà Trung kéo ra, bên trái có tháp đá Bảo Nghiêm, bình diện bát giác đây là điểm cao nhất để tôn xưng hòa thượng mở đầu cho hệ thống tổ chùa ở đây. Trong kiến trúc cũng như trang trí ở Chùa Bút Tháp, ta không thể không nói đến các yếu tố của hai nền văn hoá Việt – Hàn. Tuy nhiên, các yếu tố này đã được việt hoá một cách tài tình. Khiến chúng hoà nhập nhuần nhuyễn với văn hoá Việt, tạo một phong cách độc đáo của chùa Bút tháp. Chùa Bút Tháp còn có một hệ thống tượng tròn rất đặc sắc so với ngôi chùa khác. Có ba loại chính: Tượng Phật giáo, tượng chân dung và tượng thờ màu. Trong đó tượng Phật giáo có nhiều loại: tượng Phật, tượng các vị Bồ Tát, tượng Hộ Pháp, tượng các vị La Hán… Có những pho rất quý, nổi tiếng, độc nhất vô nhị và được coi là khuôn mẫu của tượng Phật giáo Việt Nam. Nổi trội hơn cả là tác phẩm Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay. Tượng chân dung ở chùa Bút Tháp rất đáng được quan tâm gồm tượng tổ chức và tượng hậu Phật. Tượng hậu Phật thực sự nở rộ vào thế kỷ XVII và điển hình là Chùa Bút Tháp. Trang trí ở Chùa Bút Tháp hết sức nổi bật trên hai loại chất liệu là gỗ và đá được thể hiện nhiều trên các chi tiết kiến trúc cũng như trên đồ thờ. Trên các chi tiết kiến trúc gỗ, các mảng chạm mang thuần phong cách truyền thống việt, những con rồng của thời Lê Trung Hưng có hiện đại vào khoảng giữa và cuối thế kỷ XVII được chạm rất tinh xảo. Có thể nói ông cha ta đã thổi hồn vào ngôi chùa Búp Tháp qua các thời kỳ từ lúc dựng chùa tới các lần trùng tu sau này. Đến thăm chùa Bút Tháp ta được cảm nhận tinh thần từ bi hỉ xả của đạo Phật, để thưởng thức những tác phẩm điêu khắc kiến trúc, để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật một thời và để cảm nhận niềm tự hào về tài nghệ của cha ông. Khi du khách đến tham quan đồng nghĩa với việc khẳng định giá trị lớn lao của kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa, tôn giáo tại đây. Hàng năm, Chùa Bút Tháp đón hàng ngàn lượt du khách trong và ngoài nước đến thăm. Đây còn là một con số đáng tự hào vì khẳng định giá trị văn hóa truyền thống của nước ta luôn là tài nguyên du lịch hấp dẫn. Đồng thời mỗi du khách đến thăm chùa được cảm nhận về giá trị, và vẻ đẹp độc đáo của chùa thì càng thêm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Điều này có ý nghĩa giáo dục lớn lao đối với ý thức bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của mỗi người. Du lịch cũng tạo ra nguồn kinh phí đóng góp cho chùa Bút Tháp trùng tu và khôi phục những giá trị kiến trúc đã bị mai một. Việc phát triển du lịch cùng giúp cho ban quản lý và phát huy cụm di tích để phục vụ nhu cầu của khách du lịch. Nhắc đến Bắc Ninh ta không thể không nhắc đến Từ Sơn, nơi khởi nguồn của nhà Lý, một triều đại phong kiến thịnh vượng vào bậc nhất của nước ta. Nơi đây được coi là một vùng văn hóa cổ của người Kinh Bắc, nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng được công nhận. Hiện nay Từ Sơn quản lý 66 di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, để phục vụ nhu cầu văn hóa của người dân cũng như khách du lịch. Trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử, sự thay đổi của nền kinh tế, nhưng nhiều làng cổ của huyện Từ Sơn vẫn giữ được nét văn hóa riêng, đặc trưng của vùng Kinh Bắc cổ xưa. Trong đó đình Đình Bảng và Đền Đô như những chứng tích lịch sử và trở thành điểm du lịch hấp dẫn của Bắc Ninh nói riêng và của cả nước nói chung. Tại đây vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của du lịch được thể hiện rõ nét. - Đình Đình Bảng: Đình Đình Bảng của Bắc Ninh đã trở lên quen thuộc với mỗi người trong câu ca dao: Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về Đình Bảng với anh thì về Đình Bảng là tên làng và tên xã nay thuộc huyện Tiên Sơn, hiện lưu giữ ngôi đình nổi tiếng là Đình Bảng công trình kiến trúc này được xây dựng năm Bính Thìn triều Lê, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ II (1736). Được dựng trên một khu đất không cao lắm, truyền rằng có một con nhện khổng lồ ở trung tâm làng. Đây là một công trình kiến trúc tuyệt xảo, giàu tính dân tộc, nghệ thuật chạm khắc trang trí điêu luyện. Đình Đình Bảng trông về hướng Nam, nguyên trước đây có cả tam quan, tả vu và hữu vu. Nhưng những kiến trúc đó đã bị phá hoại hoàn toàn trong thời gian kháng chiến chống thực dân pháp. Nay đình chỉ còn lại tòa bái đường, ống muống và hậu cung nối liền với nhau tạo thành một khối chữ “công”. Trong quá trình lịch sử từ ngày dựng đình tại khu vực Đình Bảng chưa có biến cố nào gây tác hại thay đổi ngôi Đình, những thành phần kiến trúc và lối cấu trúc vẫn được giữ nguyên, nên đình Đình Bảng có thể được xem như một tài liệu gốc để tìm hiểu nghệ thuật kiến trúc thế kỷ XVIII. Khi đến thăm đình Đình Bảng, du khách còn được thưởng thức công trình quan trọng nhất về nghệ thuật cũng như về kiến trúc chính là toà Bái Đường. Toà này được xây dựng trên một nền cao hai bậc, cạp đá xanh xung quanh rất bề thế và vững chắc. Bốn mái Đình xoè rộng ra bốn phía tránh nắng hắt, mưa xiên. Các toà mái uốn cong nhẹ nhàng, duỗi ra cho đến đoạn chót thì cong vút lên, bắt gặp độ cong của tòa mái lên, tạo thành đầu đao như cánh của một bông sen. Hai đầu dốc mái có nắp riềm và vỉ ruồi trang trí mây, hoa, lá bằng kỹ thuật chạm thủng tỉ mỉ và công phu. Hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc được thể hiện rõ nét. Không thể đem ngôi đình đồ sộ này so sánh với hình ảnh nhà sàn trống đồng Đông Sơn, nhưng ta vẫn thấy sự đồng nhất rất rõ giữa hai mẫu hình ấy. Như vậy, Đình Đình Bảng là sự nối tiếp, kế thừa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 150.doc
Tài liệu liên quan