Luận án Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam - Lê Thị Thúy Nga

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7

1.1. Khái quát chung về tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước 7

1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những

vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 22

1.3. Cơ sở lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu 28

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG

HÌNH SỰ 31

2.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở xuất hiện chủ thể buộc tôi trong tố tụng

hình sự 31

2.2. Phạm vi chủ thể buộc tội và vai trò của mỗi chủ thể buộc tội trong tố

tụng hình sự Việt Nam 55

Chương 3: THỰC TRẠNG CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM 68

3.1. Thực trạng quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chủ thể

buộc tội 68

3.2. Thực tiễn hoạt động của các chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự

Việt Nam 101

3.3. Nhận xét, đánh giá chung về thực trạng chủ thể buộc tội trong tố tụng

hình sự Việt Nam 118

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CHỦ THỂ BUỘC TỘI TRONG TỐ

TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 122

4.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc tội trong tố

tụng hình sự Việt Nam 122

4.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc

tội trong tố tụng hình sự Việt Nam 126

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153

PHỤ LỤC 165

pdf193 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam - Lê Thị Thúy Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biệt quan trọng để làm rõ vai trò, vị trí của các nhóm chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án trong quá trình tranh tụng, thể hiện sự thừa nhận quy luật tất yếu khách quan là tính tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có lợi ích đối lập nhau trong TTHS. 3.1.2.3. Quy định về địa vị pháp lý của chủ thể buộc tội * Quy định về cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người THTT trong các cơ quan này - Quy định về CQĐT và người THTT thuộc CQĐT Theo Điều 34 BLTTHS năm 2015, CQĐT là một trong các cơ quan THTT, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV, Cán bộ điều tra là những người THTT. Cơ quan điều tra bao gồm: CQĐT của Công an nhân dân; CQĐT trong Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSNDTC. Vai trò buộc tội của CQĐT được thể hiện ở 03 nhóm hoạt động chủ yếu: + Các hoạt động có tính chất "khởi động" cho vụ án, làm tiền đề cho việc buộc tội như tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự; + Các hoạt động điều tra nhằm phát hiện, thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, nhiều hoạt động điều tra của CQĐT chưa có những quy định cụ thể, đặc biệt là đối với hoạt động điều tra trinh sát (điều tra bí mật) nên dễ dẫn đến vi phạm quyền con người và ít chịu sự kiểm sát của VKS cũng như các cơ chế giám sát khác. BTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định mới nhằm đảm bảo tính minh bạch, khách quan của hoạt động điều tra như quy định về ghi âm, ghi hình có âm thanh khi lấy lời khai (Khoản 6 Điều 183); quy định chặt chẽ về thủ tục, thẩm quyền áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Chương XVI) + Ban hành các quyết định, văn bản khẳng định sự liên quan hoặc không liên quan của bị can đối với hành vi phạm tội như quyết định khởi tố bị can, quyết định đình chỉ điều tra vì không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, kết luận điều tra đề nghị truy tố. Các hoạt động nêu trên của CQĐT đều chịu sự chỉ đạo, kiểm sát chặt chẽ của VKS. Điều này phù hợp với đặc thù của mô hình TTHS nước ta với việc chia TTHS thành các giai đoạn nối tiếp nhau và có sự tồn tại của hồ sơ vụ án hình sự được cơ 87 quan tiến hành TTHS lập thống nhất từ giai đoạn khởi tố, điều tra. Từ góc độ thực hiện CNBT, VKS nếu không giám sát quá trình điều tra, không nắm được nội dung vụ án thì "khó có thể làm tốt chức năng truy tố bị can ra trước Tòa và buộc tội bị cáo trước Tòa" [104, tr.100]. Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT được thực hiện thông qua những người THTT thuộc CQĐT bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV và Cán bộ điều tra. Theo Điều 36 BLTTHS năm 2015, Thủ trưởng CQĐT có hai nhóm nhiệm vụ và quyền hạn: nhóm nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách là người đứng đầu CQĐT và nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của người trực tiếp tiến hành điều tra hình sự. Thủ trưởng CQĐT có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như: Quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; Quyết định khám xét, thu giữ, tạm giữ, xử lý vật chứng; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định của BLTTHS; Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại; khai quật tử thi, thực nghiệm điều tra, thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá, định giá lại tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; Trực tiếp kiểm tra, xác minh các nguồn tin về tội phạm và tiến hành các biện pháp điều tra; Kết luận điều tra vụ án; Ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra bị can; Ra các lệnh, quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của CQĐTKhi được phân công tiến hành việc khởi tố, điều tra, Phó Thủ trưởng CQĐT cũng có các nhiệm vụ và quyền hạn như nêu trên. Điều tra viên là người THTT, được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ điều tra hình sự. Điều tra viên được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 37 BLTTHS năm 2015. Liên quan đến việc thực hiện CNBT của CQĐT, ĐTV có những nhiệm vụ và quyền hạn như: trực tiếp kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, lập hồ sơ vụ án hình sự; trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra như hỏi cung, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ tố tụng khác thuộc thẩm quyền của CQĐT theo sự phân công của Thủ trưởng CQĐT. Cán bộ điều tra là chức danh tố tụng mới dược quy định trong BLTTHS thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của ĐTV với các công việc cụ 88 thể như: ghi biên bản lấy lời khai, ghi biên bản hỏi cung và ghi các biên bản khác khi ĐTV tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự; Giao, chuyển, gửi các lệnh, quyết định và các văn bản tố tụng khác theo quy định của BLTTHS; giúp ĐTV trong việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, hồ sơ vụ án và thực hiện hoạt động tố tụng khác. Nhìn chung, cán bộ điều tra thực hiện các công việc mang tính chất giúp việc cho ĐTV theo sự phân công của ĐTV. Qua các quy định về CQĐT, người THTT trong CQĐT và thủ tục khởi tố, điều tra vụ án hình sự của BLTTHS năm 2015, có thể đưa ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, quy định về CQĐT trong BLTTHS năm 2015 tương đối phù hợp với đặc thù của mô hình tố tụng thiên về thẩm vấn của nước ta. Nhiều quy định liên quan tới hoạt động của CQĐT đã thể hiện xu hướng đổi mới, bảo đảm tính hợp pháp, minh bạch của hoạt động điều tra qua đó bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội và các đương sự trong vụ án hình sự. Thứ hai, nhiệm vụ và quyền hạn của Phó thủ trưởng CQĐT chưa được quy định riêng. Tương tự với quy định tại khoản 3, Điều 34 BLTTHS năm 2003. khoản 3 Điều 36 BLTTHS năm 2015 quy định Phó thủ trưởng CQĐT có nhiệm vụ, quyền hạn như Thủ trưởng CQĐT (trừ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 BLTTHS) khi được phân công tiến hành việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Điều này không phù hợp với thực tế vì đối với CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT do điều kiện thời gian, công việc thường giao cho Phó thủ trưởng CQĐT chỉ đạo hoạt động điều tra. Phó Thủ trưởng CQĐT đến lượt mình không thể tham gia điều tra nhiều vụ án cùng một lúc song Thủ trưởng CQĐT vẫn phân công Phó Thủ trưởng CQĐT cùng một số ĐTV khác điều tra vụ án hình sự và Phó thủ trưởng CQĐT chỉ ký các lệnh, quyết định trong giai đoạn điều tra mà không tham gia điều tra với tư cách là ĐTV như quyết định phân công "tiến hành việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự" của Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV còn khá hạn chế. Theo quy định của BLTTHS, các nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng mang tính chất quyết định về vụ án chủ yếu tập trung cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT còn ĐTV chủ yếu thực hiện các hoạt động mang tính chất nghiệp vụ, sự độc lập của ĐTV còn hạn chế đặc biệt với quan hệ mệnh lệnh - chấp hành trong tổ chức, hoạt động của CQĐT. Thực tế, 89 ĐTV chủ yếu thừa hành, thực hiện các biện pháp điều tra theo "sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT" (điểm b khoản 3 Điều 53 Luật tổ chức CQĐT hình sự) mà ít có quyền chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ. - Quy định về cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra Với tư cách là cơ quan có thẩm quyền THTT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định của BLTTHS và Luật tổ chức CQĐT hình sự. Khắc phục những bất cập của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là cơ quan có thẩm quyền THTT, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là người có thẩm quyền THTT. Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Những nhiệm vụ điều tra được giao cho các cơ quan này được thực hiện bởi người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm 02 nhóm: Nhóm 1: Cấp trưởng, cấp phó của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Nhóm 2: Cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Điều 39 BLTTHS năm 2015 đã thể hiện rõ nét vai trò buộc tội của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thông qua quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Cụ thể là khi THTT đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng, cấp trưởng, cấp phó, của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ; kết luận điều tra đề nghị truy tố. Đối với các vụ án về các tội phạm khác, những người có thẩm quyền THTT 90 này được giao nhiệm vụ, quyền hạn hạn chế hơn, không có quyền khởi tố bị can. Cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 40 BLTTHS trong đó tập trung vào các hoạt động xác minh nguồn tin tội phạm, thu thập tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn điều tra ban đầu. Có thể nói, quy định về cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong BLTTHS 2015 đã khắc phục tương đối toàn diện những hạn chế, vướng mắc của BLTTH năm 2003. Tuy nhiên, phạm vi cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã phù hợp hay chưa là vấn đề cần xem xét trong bối cảnh đã xuất hiện những lĩnh vực mới dễ nảy sinh vi phạm pháp luật cần được phát hiện và xử lý kịp thời như thuế, chứng khoán * Quy định về Viện kiểm sát và người THTT thuộc Viện kiểm sát Các quy định về VKS theo BLTTHS và Luật tổ chức VKSND đã thể hiện rõ nét vai trò buộc tội của VKS. So với BLTTHS năm 2003, vai trò quyết định việc buộc tội của VKS đã được khẳng định một cách rõ ràng hơn và thể hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể như sau: Trong giai đoạn điều tra: Khi thực hiện CNBT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS có quyền khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định, lệnh của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của KSV; Quyết định rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của VKS cấp dưới; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Quyết định khám xét, thu giữ, tạm giữ, xử lý vật chứng; Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; Yêu cầu định giá, định giá lại tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; Quyết định truy tố bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại. Đối với KSV, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của KSV được được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát 91 việc tuân theo pháp luật trong TTHS. So với BLTTHS năm 2003, trong giai đoạn điều tra, KSV có một số nhiệm vụ quyền hạn mới như: Trực tiếp kiểm sát đối với một số hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; Kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra, kết thúc điều tra để đảm bảo tính có căn cứ của các quyết định ngừng hoặc tạm ngừng tiến trình tố tụng trong giai đoạn điều tra; Đặc biệt, BLTTHS bổ sung quyền của VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong các trường hợp: (i) kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (ii) phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu nhưng không được khắc phục ; (ii) kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố. Có thể nói, quy định của BLTTHS năm 2015 đã thể hiện rõ nét định hướng của Đảng về "tăng cường trách nhiệm trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra" [5]; [6]. Các quyền và nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra là tiền đề để VKS thực hiện việc buộc tội ở giai đoạn truy tố với quyết định buộc tội bằng cáo trạng/quyết định truy tố đề nghị Tòa án xét xử đối với bị can. Trong giai đoạn truy tố Xuất phát từ nhận thức truy tố là giai đoạn tố tụng độc lập, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã tách truy tố khỏi phần Khởi tố, Điều tra và xây dựng thành một phần riêng trong BLTTHS (Phần thứ ba) với 14 điều luật được kết cấu thành 02 chương. Nội dung Phần thứ ba đã thể hiện rõ nét vai trò là CTBT trong TTHS của VKS, cụ thể là một số điểm như sau: - Quy định đầy đủ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố (Điều 236 và Điều 237 BLTTHS năm 2015) trong đó VKS có các quyền để thu thập, bổ sung, củng cố chứng cứ như yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho CQĐT; quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để yêu cầu điều tra bổ sung. Liên quan đến việc cáo buộc đối với bị can, Điều 92 236 BLTTHS năm 2015 quy định VKS có quyền quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố điều tra; quyết định truy tố. - Quy định cụ thể về thẩm quyền truy tố và việc phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Để giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến vấn đề "ủy quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử", việc "bên không có thẩm quyền nhưng lại ủy quyền và bên nhận ủy quyền phải nhận quyền mà theo pháp luật đã thuộc về mình" [80], BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về thẩm quyền truy tố và việc phân công VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với vụ án mà VKS cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Theo đó, VKS cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì VKS cấp đó quyết định việc truy tố. Điều này là phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn bởi lẽ việc ban hành cáo trạng thể hiện quan điểm buộc tội gắn bó chặt chẽ với quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án kể từ khi VKS kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra, đề ra yêu cầu điều traVKS đã thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án sẽ có điều kiện nắm vững các chứng cứ, các căn cứ pháp lý, các vấn đề phát sinh và việc giải quyết để quyết định truy tố một cách đúng đắn. - Bổ sung đầy đủ nội dung của bản cáo trạng, bảo đảm việc truy tố chặt chẽ, toàn diện. So với Điều 167 BLTTHS năm 2003, Điều 243 BLTTHS năm 2015 đã quy định bản cáo trạng bắt buộc phải nêu được "diễn biến hành vi phạm tội", chứng cứ xác định "hành vi phạm tội", "tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, đặc điểm nhân thân bị can và nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội". Đây là sự bổ sung hợp lý để có đủ các luận cứ cho quyết định truy tố và bảo vệ quan điểm truy tố tại phiên tòa, cũng là các cơ sở cần thiết để người bào chữa và người bị buộc tội chuẩn bị nội dung tranh luận, bào chữa của họ. - Quy định trường hợp VKS quyết định không truy tố và đình chỉ vụ án. Cụ thể, khoản 1 Điều 248 BLTTHS năm 2015 quy định: VKS quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự. Như vậy, trong trường hợp 93 người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, các trường hợp không khởi tố vụ án theo Điều 157 BLTTHS, các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự, VKS có quyền quyết định không truy tố và đình chỉ vụ án. Trong giai đoạn xét xử Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định nhằm tăng cường trách nhiệm và tạo điều kiện để VKS thực hiện việc buộc tội trong giai đoạn xét xử. Theo đó, trong thời gian chuẩn bị xét xử KSV có quyền đưa ra yêu cầu, đề nghị về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, người có thẩm quyền THTT. Tại phiên tòa, sự có mặt của KSV là bắt buộc nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử (yêu cầu sự có mặt của các bên đối tụng) đồng thời là điều kiện cần thiết để VKS thực hiện được vai trò buộc tội của mình tại phiên tòa. Để phù hợp với tính chất phức tạp của việc giải quyết các vụ án trong thực tiễn, BTTHS năm 2015 sửa đổi quy định về số lượng KSV tham gia phiên tòa theo hướng: "Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều KSV". Quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu tranh tụng trong những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, tạo sự chủ động cho VKS, cân nhắc số lượng KSV tham gia phù hợp với tinh chất phức tạp của vụ án thay vì quy định "cứng" là hai KSV tham gia như BLTTHS năm 2003. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn về các quyền hạn, nhiệm vụ và cách thực hiện các quyền hạn nhiệm vụ của KSV tại phiên tòa. Tuy nhiên, việc quy định Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó mới đến KSV có phần không phù hợp với vị trí, vai trò của các chủ thể theo chức năng tố tụng mà họ thực hiện. Theo nguyên tắc bên buộc tội phải chứng minh cho việc buộc tội của mình, KSV cần là người hỏi trước để làm rõ việc buộc tội, sau đó đến bị cáo, người bào chữa của bị cáo hỏi để làm rõ các chứng cứ gỡ tội; Hội đồng xét xử nên là chủ thể hỏi sau cùng, làm rõ những vấn đề cần thiết liên quan đến việc ra phán quyết về vụ án mà bên buộc tội và bên gỡ tội chưa hỏi. Kế thừa quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định yêu cầu đối với luận tội của KSV. Điều 321 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về nội dung luận tội nhằm đảm bảo luận tội thể hiện đầy đủ quan điểm của VKS và chứng cứ, lập luận chứng minh quan điểm đó. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập pháp, 94 việc tách riêng khoản 3, khoản 4 khỏi khoản 2 của Điều 321 về nội dung luận tội có phần chưa hợp lý vì quy định tại khoản 3, khoản 4 cũng là các nội dung cần được thể hiện trong luận tội của KSV. Để đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể hơn về tranh luận tại phiên tòa, đặc biệt là việc đối đáp của KSV. Theo đó, KSV phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa; chủ tọa phiên tòa yêu cầu KSV phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận. Quy định này thể hiện tinh thần tranh tụng với sự "va đập" về ý kiến, quan điểm giữa bên buộc tội và bên bào chữa, tránh việc bên buộc tội là KSV chỉ "giữ nguyên quan điểm truy tố" mà không thể hiện quan điểm cụ thể đối với ý kiến của bên bào chữa qua đó nâng cao trách nhiệm của KSV với tư cách là bên buộc tội thay mặt nhà nước để việc buộc tội được xem xét kỹ lưỡng, thận trọng từ nhiều góc nhìn về vụ án. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nội dung quyết định kháng nghị của VKS (khoản 2 Điều 336), trách nhiệm của VKS phải gửi quyết định kháng nghị của VKS cho bị cáo và những người có liên quan thay vì quy định trách nhiệm gửi thuộc về Tòa án (Điều 338); quy định sự có mặt bắt buộc của KSV và việc KSV phát biểu ý kiến về nội dung kháng nghị, phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm. Các quy định này đã thể hiện vai trò buộc tội của KSV trong giai đoạn xét xử phúc thẩm trong đó có việc kháng nghị, chứng minh và bảo vệ kháng nghị về tội danh, hình phạt đối với bị cáolàm cơ sở cho việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn Qua các quy định về VKS và người THTT thuộc VKS trong BLTTHS năm 2015, từ góc độ xác định VKS là chủ thể có vai trò quan trọng, quyết định trong việc thực hiện CNBT, có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, Luật TTHS nước ta chưa phân định rõ VKS là CTBT mà vẫn quy định VKS là cơ quan THTT và quy định về những người THTT thuộc VKS như Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, KSV, Kiểm tra viên. Thứ hai, bên cạnh CNBT nhân danh nhà nước, VKS còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Về lý luận cũng như pháp luật, xu hướng phân định rành mạch giữa hai chức năng này đang được thể hiện một 95 cách rõ nét bằng việc quy định cụ thể trong Luật tổ chức VKSND, BLTTHS hoạt động nào của VKS là buộc tội (thực hành quyền công tố), hoạt động nào là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy vậy, từ yêu cầu xác định, phân loại các chủ thể TTHS theo chức năng tố tụng, vấn đề có nên quy định VKS có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hay không, đặc biệt là đối với kiểm sát xét xử cần được xem xét thấu đáo. Thứ ba, về tổng thể, BLTTHS năm 2015 đã tạo cho VKS, những người THTT thuộc VKS một hành lang pháp lý tương đối thông suốt, thuận lợi để thực hiện các hoạt động thuộc CNBT trong tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử. Với các nhiệm vụ, quyền hạn và thủ tục tố tụng được quy định trong BLTTHS năm 2015, VKS và những người THTT thuộc VKS có thể thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội một cách chủ động và hiệu quả. Thứ tư, các quy định về VKS trong BLTTHS năm 2015 còn một số điểm hạn chế, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử. So với quy định về vai trò của VKS trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, quy định về vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử đặc biệt là tại phiên tòa sơ thẩm chưa có những đổi mới mang tính chất đột phá phù hợp với vai trò của một CTBT. Cụ thể, quy định về trình tự, thủ tục tại phiên tòa chưa phù hợp, Chủ tọa phiên tòa vẫn là người hỏi trước và hỏi chính, vai trò xét hỏi để buộc tội của KSV còn mờ nhạt. Thứ năm, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Viện trưởng, KSV còn một số điểm hạn chế. Theo quy định của khoản 3 Điều 41 BLTTHS năm 2015, Phó Viện trưởng chỉ được thực hiện các thẩm quyền của Viện trưởng VKS quy định tại khoản 2 Điều 41 khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với vụ án hình sự. Điều này thực tế chỉ phù hợp với các VKS cấp huyện không có nhiều việc còn "đối với VKS cấp tỉnh trở lên và cả các đơn vị cấp huyện nhưng có nhiều án (ở các thành phố lớn) thì quy định trên không thể thực hiện được, bởi vì các Phó Viện trưởng được phân công phụ trách chủ yếu phải dành thời gian cho công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, không trực tiếp làm án mà phân công cho các KSV" [68, tr.40]. Trong thực tế khi đã được Viện trưởng phân công phụ trách thì Phó Viện trưởng vẫn phải ký các quyết định tố tụng được quy định tại khoản 2 Điều 36 BLTTHS, mặc dù theo quy định đã viện dẫn ở trên, nếu vụ án 96 không phải do Phó Viện trưởng là người thực hành quyền công tố thì Phó Viện trưởng không có thẩm quyền ký. Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV, mặc dù quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2015 đã cụ thể, chi tiết hơn so với quy định tại Điều 37 BLTTHS năm 2003 song vẫn mang tính chất liệt kê các công việc mà KSV phải làm, về cơ bản KSV chưa có thẩm quyền quyết định về tố tụng, chưa tạo cơ sở pháp lý để KSV "chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chu_the_buoc_toi_trong_to_tung_hinh_su_viet_nam_le_t.pdf
Tài liệu liên quan