Luận án Khuôn mẫu sử dụng thời gian của người cao tuổi Thành phố Cần Thơ hiện nay

MỤC LỤC

MỤC LỤC. i

LỜI CAM ĐOAN .ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.iii

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HỘP . iv

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHUÔN MẪU SỬ DỤNG

THỜI GIAN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI . 9

1.1. Tổng quan nghiên cứu . 9

1.2. Khoảng trống và những gợi mở cho nghiên cứu của Luận án . 24

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU VỀ KHUÔN MẪU SỬ DỤNG THỜI GIAN CỦA NGƯỜI

CAO TUỔI. 29

2.1. Cơ sở lý luận. 29

2.2. Phương pháp nghiên cứu . 48

2.3. Cơ sở thực tiễn. 58

Chương 3: THỰC TRẠNG KHUÔN MẪU SỬ DỤNG THỜI GIAN CỦA

NGƯỜI CAO TUỔI THÀNH PHỐ CẦN THƠ. 66

3.1. Cách thức sử dụng thời gian của người cao tuổi (60-75 tuổi) ở thành phố

Cần Thơ. 66

3.2. Nhận diện khuôn mẫu sử dụng thời gian của người cao tuổi (60-75 tuổi) ở

thành phố Cần Thơ. 69

Chương 4: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHUÔN MẪU SỬ DỤNG

THỜI GIAN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀ

KIẾN NGHỊ HÀM Ý CHÍNH SÁCH . 111

4.1. Nhóm các yếu tố cá nhân và xã hội ảnh hưởng đến khuôn mẫu sử dụng thời

gian của người cao tuổi. 111

4.2. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến khuôn mẫu sử dụng thời gian của người

cao tuổi ở thành phố Cần Thơ. 142

4.3. Kiến nghị hàm ý chính sách. 156

KẾT LUẬN . 164

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 167

DANH MỤC BÀI VIẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI. 185

PHỤ LỤC . 187

pdf201 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Khuôn mẫu sử dụng thời gian của người cao tuổi Thành phố Cần Thơ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tuổi tham gia các hoạt động làm việc nhà cao hơn so với các nhóm tuổi; NCT có sức khỏe tốt, NCT có sống chung với con cái cũng tham gia các hoạt động làm việc nhà cao hơn nhóm NCT không có sức khỏe và không chung sống con cái. Xu hướng này được lặp lại tương tự vào ngày cuối tuần. Đây được xem là KMSDTG làm việc nhà của NCT ở TPCT và khuôn mẫu thường tập trung vào cả nam và nữ cao tuổi, NCT từ 60-64 tuổi, NCT có sức khỏe và đang sống chung với con cái. Để góp phần củng cố những phát hiện định lượng về KMSDTG làm việc nhà, luận án đã sử dụng nghiên cứu trường hợp từ những câu chuyện được ghi lại thông qua phỏng vấn sâu. Câu chuyện của Cô Bi sống ở trung tâm nuôi dưỡng 85 người già cho nên thời gian làm việc nhà hầu như rất ít; trong khi đó Cô Thảo đang sống với con cái đang có 02 đứa con nhỏ nhưng do Cô không đi làm, còn sức khỏe tốt và cộng với cuộc sống gia đình còn khó khăn, thiếu cơ sở giáo dục mầm non ở nông thôn cho nên ngoài thời gian dành cho chăm sóc bản thân thì dành cho hoạt động làm việc nhà. Ngược lại, trường hợp Chú Tiến vừa đi làm kiếm tiền nên những công việc làm gia đình chỉ là người hỗ trợ, phụ giúp. Tuy nhiên, những công việc đòi hỏi đến bàn tay của nam giới như sửa chữa nhà, lót sàn thì chú tranh thủ ngày không đi làm để thực hiện công việc này; hoặc nếu trường hợp vợ chú bị bệnh thì Chú phải đảm nhận những công việc của vợ. Theo Chú Tiến và Cô Thảo, những công việc nhà cũng mất rất nhiều thời gian trong một ngày. Qua những trường hợp ở Hộp 3.2 cho thấy KMSDTG làm việc nhà của NCT khác nhau theo giới tính, công việc, nơi ở, khu vực sống Hộp 3. 2: Sử dụng thời gian cho làm việc nhà của một số trường hợp Trường hợp 1: Ở đây, Cô không phải làm gì cả vì tất cả mọi công việc bếp múc, nấu nướng đều có người khác làm. Nếu hôm nào thấy khỏe trong người thì Cô xuống phụ giúp mọi người. Cô chia sẻ: Nhiều lúc Cô xuống phụ giúp nhưng các cô, chú phụ trách Trung tâm này cũng không cho mình phụ giúp do mình cũng cũng đã lớn tuổi, có bệnh nên các cô chú sợ Cô mệt. (Câu chuyện được viết lại từ PVS 13, Nữ, 73 tuổi, neo đơn, sống ở Trung tâm người già ở quận Bình Thủy) Trường hợp 2: Ngoài thời gian đi làm ra, Chú Tiến làm những công việc lặt vặt như sửa chữa nhà cửa, lối đi trong nhà Đôi lúc cũng có phụ vợ nấu nướng, đặc biệt là khi vợ chú bệnh vì chỉ có 2 vợ chồng già sống với nhau, con cái đều có gia đình riêng. Chú chia sẻ: Công việc nhà vẫn chiếm nhiều thời gian lắm, làm loanh hoanh một lát là hết một buổi. Vì vừa đi làm nên tranh thủ những ngày không đi làm để làm công việc đó. (Câu chuyện được ghi lại từ PVS 05, Nam, 61 tuổi, bảo vệ, Quận Cái Răng) Trường hợp 3 Từ khi chồng mất, Cô Thảo ở chung với con cái, có 2 đứa cháu nhỏ (đứa lớn đi học, đứa nhỏ (4 tuổi) ở nhà), vì Cô không đi làm nên ở nhà giúp con của Cô làm việc nhà, trông mom, nấu ăn cho con cháu. Thời gian cả ngày cứ quầng quật cơm nước, dọn dẹp, trông cháu để giúp cho con cái đi làm. Sáng dậy lúc 5 86 giờ, vệ sinh cá nhân khoảng 30 phút, sau đó 6 giờ nấu đồ ăn cho đứa nhỏ, chuẩn bị đồ ăn cho đứa cháu lớn để ăn sáng đi học (ra ngoài quán mua). Khoảng 7 giờ sáng đi chợ rồi về nấu ăn. Phơi quần áo, quét dọn nhà cửa. Đến khoảng 10 giờ thì phải chuẩn bị bữa trưa. Sau đó là cho đứa nhỏ ăn cơm (khoảng 45 phút), đứa lớn đi học về lấy cơm cho ăn. Chờ con dâu về ăn cơm. Sau khi ăn xong thì hai bà cháu ngủ trưa (từ 12 giờ -14 giờ). Hai bà cháu ở nhà xem ti vi (đến 16 giờ), có hôm đi sang nhà xóm chơi. Nhưng gần đây bị dịch nên cũng ít sang hàng xóm sợ bị lây. Đến 17 giờ vệ sinh cá nhân, ăn uống, nói chuyện với con cái. Đến 18 giờ xem tivi và 20 giờ đi ngủ. Cô Thảo chia sẻ: Công việc này ngày nào cũng như thế nên riết thành quen. Đôi lúc cũng thấy cực nhưng vui vì được chăm sóc cho người thân yêu. Khi chúng tôi hỏi rằng, sao gia đình mình không thuê người giúp việc hoặc gửi bé đi nhà trẻ thì Cô Thảo cho rằng, gia đình không mấy khá giả, con Cô cũng làm công nhân với lương ba cộc ba đồng nên phải tiết kiệm để dành cho các cháu ăn học. Ở đây là ở nông thôn, không có nhà trẻ như thành phố hay thị trấn, với lại ở nhà làm không làm gì nên trông cháu, cũng tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó. (Câu chuyện được ghi lại từ PVS 14, Nữ, 68 tuổi, nội trợ, nông thôn, huyện Vĩnh Thạnh) Theo lý thuyết sử dụng thời gian, hoạt động làm việc nhà là một trong những chuỗi hoạt động của quỹ thời gian cá nhân, trong đó bao gồm NCT trong một ngày. Kết quả khảo sát cho thấy, thời gian dao động làm việc nhà của NCT ở TPCT là 2,5- 2,8 giờ tùy thuộc ngày trong tuần hay ngày cuối tuần. Phát hiện này khá thống nhất với các nghiên cứu quốc tế trước đó, NCT ở Mỹ làm việc nhà dao động từ 2,5-4,6 giờ/ngày tùy thuộc vào tình trạng việc làm và giới tính [128], ở Nam Phi là 3 giờ/ngày, ở Canada là 2,2 giờ/ngày, ở nông thôn Trung quốc là 4.6 giờ [174], ở Thái Lan 2,79 giờ [147]. Có thể nói, mặc dù không gian và thời gian nghiên cứu khác nhau nhưng NCT thời gian trung bình dành cho hoạt động làm việc nhà của các nghiên cứu khá thống nhất với nhau. Đây có thể xem là KMSDTG làm việc nhà của NCT. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở đây là NCT ở các quốc gia khác là họ làm việc nhà thường nấu ăn, lau nhà, chăm sóc cây kiểng nhưng NCT ở TPCT dành nhiều thời gian hoạt động trông cháu. Sở dĩ là do cấu trúc gia đình ở vùng đất “Cầm Thi” vẫn còn đan xen gia đình hạt nhân và mở rộng, cộng với tâm lý NCT vẫn còn thích sống chung với con cái [57-58]. Rõ ràng, sử dụng thời gian cho hoạt động làm việc nhà của NCT có tính khuôn mẫu. 87 Nói tóm lại, NCT ở Tây Đô đã dành gần 1/8 thời gian của tổng quỹ thời gian trong ngày để tham gia hoạt động làm việc nhà, chiếm 10,63% tổng quỹ thời gian của ngày hôm qua và 11,8% của ngày cuối tuần. Cơ cấu thời gian làm việc nhà của NCT trong quỹ thời gian 24 giờ/ngày có xu hướng tương tự nhau giữa ngày hôm qua và cuối tuần. Đây chính là KMSDTG làm việc nhà của NCT ở TPCT. Cùng với khảo sát định lượng, những phát hiện định tính của nghiên cứu ở TPCT còn thấy, KMSDTG làm việc nhà thường tập trung vào cả nam và nữ cao tuổi, NCT từ 60-64 tuổi, NCT đang sống chung với con cái ở thành thị và còn sức khỏe tốt. 3.2.3. Khuôn mẫu sử dụng thời gian tạo ra thu nhập Thực trạng già hóa dân số đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống kinh tế của NCT và buộc nhiều người trong số họ tiếp tục bươn chải để mưu sinh, bởi lẽ đối với nhiều người thì “tuổi nghỉ hưu không phải là tuổi để nghỉ ngơi khi mà họ chưa thể kiếm đủ tiền lo cho cuộc sống” [23]. Tại Việt Nam, NCT vẫn còn tham gia lao động là vì để duy trì sức khỏe, duy trì các mối quan hệ xã hội, giải trí, cảm nhận giá trị hữu ích của bản thân, nhưng về cơ bản là bắt nguồn từ lý do kinh tế, nghĩa là để giảm bớt sự phụ thuộc vào người thân [39, tr.36], [58]. Toàn TPCT có 1.362 NCT làm chủ sản xuất kinh doanh có giấy phép đăng ký, trong đó có 776 NCT được đạt danh hiệu là NCT làm kinh tế giỏi [7]. Có thể nói, NCT vẫn tham gia tích cực vào trong hoạt động kinh tế và khẳng định được vai trò của NCT đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố. Điều này được củng cố thông qua dữ liệu định tính từ chia sẻ của đại diện Hội NCT Quận Cái Răng: “NCT của Quận rất tích cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Họ luôn có ý chí quyết tâm làm giàu. Cho nên, nhiều người nhiều năm liền đạt danh hiệu người cao tuổi sản xuất kinh doanh giỏi” (PVS CB01, Nam, 67 tuổi, Hội NCT Quận Cái Răng). Có thể nói, tuổi càng cao nhưng ý chí quyết tâm làm giàu vẫn còn và điều này trở thành tấm gương để cho tuổi trẻ học tập. Kết quả phân tích từ cuộc khảo sát 399 NCT tại 6 quận/huyện thuộc thành phố cho thấy, có gần ½ tổng số NCT còn tham gia vào các hoạt động tạo ra thu nhập. Trong đó, đa số NCT tham gia vào hoạt động tự buôn bán/kinh doanh và 88 hoạt động được trả lương (xem bảng 3.9). Trong đó, có 49,3% NCT có sức khỏe không tốt tham gia hoạt động tự buôn bán/kinh doanh so với 40,4% NCT có sức khỏe tốt; có 43,5% nữ giới cao tuổi tham gia hoạt động tự buôn bán/kinh doanh so với 39,7% nam giới cao tuổi; có 40,2% NCT từ 70-75 tuổi tham gia hoạt động tự buôn bán/kinh doanh so với 37,3% NCT từ 60-64 tuổi và 40,0% NCT từ 65-69 tuổi. Sở dĩ tỷ lệ NCT tham gia hoạt động buôn bán cao là do tính chất của đô thị của thành phố Cần Thơ- trung tâm kinh tế của ĐBSCL. Tỷ lệ NCT tham gia hoạt động tự buôn bán/kinh doanh cuối tuần vẫn duy trì cao là do tính chất của một số hoạt động buôn bán diễn ra sôi nổi vào những ngày cuối tuần. Tỷ lệ NCT tham gia hoạt động đi kiếm tiền của ngày cuối tuần giảm là do có một số công việc làm theo giờ hành chính được nghỉ cuối tuần hoặc làm theo ca. Bảng 3.9: Tỷ lệ người cao tuổi tham gia các hoạt động tạo ra thu nhập (%) Hôm qua (166) Cuối tuần (166) +Hoạt động tự sản xuất nông nghiệp 6,0 1,8 +Hoạt động lao động được trả lương 19,3 9,6 +Hoạt động tự buôn bán/kinh doanh 44,0 41,6 (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, 2021) Các dữ liệu định tính cũng cho thấy, đa số NCT đều thừa nhận công việc buôn bán là phù hợp sức khỏe của họ. Tuy nhiên, mỗi nhóm NCT đều khó khăn khác nhau khi tham gia hoạt động tạo thu nhập, có nhóm NCT gặp khó khăn về vốn, cũng có nhóm người lại gặp khó khăn trong việc lấy nguồn hàng và vốn. Nhóm NCT không có gì ngoài còn sức khỏe thì họ lựa chọn mưu sinh bằng bán vé số, bảo vệ Mỗi cây mỗi hoa, mỗi người mỗi hoàn cảnh và khó khăn khác nhau nhưng tựu chung lại là họ phải tự lựa chọn loại hình công việc phù hợp với khả năng. 89 H: Sao Cô không buôn bán gì cho đỡ cực mà bán vé số? Đ: Cô cũng muốn lắm chứ, nhưng đâu có tiền để làm mấy cái đó. H: Thu nhập từ việc bán vé số có ổn định không? Đ: Tùy theo bữa, hôm nào bán hết thì được lời 150.000 đồng. Còn bữa nào bán không hết thì kiếm ít hơn. Làm việc này cũng như hên xui lắm (PVS03, Nữ, 65 tuổi, bán vé số, thành thị, Quận Ninh Kiều) Ngoài ra, dữ liệu định tính còn thấy, đại dịch covid-19 cũng có ảnh hưởng đến NCT sử dụng thời gian cho hoạt động tạo thu nhập. Theo họ cho rằng, hoạt động của các cơ sở kinh doanh hoạt động cầm chừng và thậm chí đóng cửa khi có chỉ đạo của thành phố. Các công việc bị ảnh hưởng thường là phục vụ các quán án, các cơ sở kinh doanh hàng hóa không thiết yếu. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến thời gian tham gia hoạt động tạo thu nhập mà còn có cả thu nhập. “Cô phục vụ quán ăn buffer ở Ba Còi được 2 năm rồi, công việc ổn định nhưng do dịch bệnh nên quán hoạt động không như trước. Lúc mở lúc không. Khi mở thì người ta gọi đến làm, còn đóng cửa thì ở nhà. Mà ở nhà đâu có làm gì đâu.” (PVS Nữ, 61 tuổi, phụ vụ quán ăn, thành thị, Quận Ninh Kiều) Phân tích lượng thời gian trung bình được sử dụng cho hoạt động tạo ra thu nhập ở bảng số liệu 3.10 cho thấy, nếu tính tổng thể NCT thì thời gian trung bình cho hoạt động này là 147,9 phút/ngày, tương đương với 2,3 giờ/ngày vào ngày hôm qua và 122,0 phút/ngày, tương đương với 2,1 giờ/ngày vào ngày cuối tuần. Nếu xét trong nhóm NCT còn tham gia hoạt động kinh tế mà có dành thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập thì có 121/166 trường hợp NCT đang tham gia hoạt động có dành thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập (chiếm 72,98%) với thời gian trung bình của nhóm NCT này là 385,45phút/ngày, tương đương với hơn 6,3 giờ/ngày vào các ngày trong tuần và có 97/166 trường hợp (chiếm 58,43%) với thời gian trung bình là 362,68 phút/ngày, tương đương với 6 giờ/ngày vào ngày cuối tuần. Như vậy, nếu chỉ tính NCT còn tham gia hoạt động kinh tế thì NCT vẫn tiếp tục tham gia hoạt động tạo thu nhập với một khoảng thời gian tương đương với người trong độ tuổi lao động. 90 Bảng 3. 10: Thời trung bình của hoạt động tạo ra thu nhập (phút/ngày) Hôm qua Cuối tuần Số lượng Trung bình Độ lệch chuẩn Số lượng Trung bình Độ lệch chuẩn Tổng thời gian 399 147,87 129,27 399 122,02 103,39 + Hoạt động lao động được trả lương 31 413,31 104,41 18 392,22 114,41 + Tự buôn bán/kinh doanh 80 380,88 125,85 76 359221 124,54 +Hoạt động tự sản xuất nông nghiệp 10 294,00 117,40 3 273,33 132,79 (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, 2021) Xét theo từng hoạt động cụ thể ở bảng 3.10 cho thấy, có 31/399 NCT tham hoạt động lao động được trả lương với một lượng thời gian khoảng 6,9 giờ/ngày vào ngày hôm qua và 6,5 giờ/ngày vào ngày cuối tuần. Sự chênh lệch giữa ngày hôm qua và cuối tuần khoảng 0,4 giờ. Độ lệch chuẩn của thời gian dành cho hoạt động này vào cuối tuần cao hơn so với ngày trong tuần và điều này cho thấy, thời gian dành cho hoạt động vào ngày cuối tuần không ổn định hơn. Thực tế cho thấy, NCT tham gia hoạt động tạo thu nhập vào ngày cuối tuần còn phụ thuộc vào tính chất công việc và áp lực của cuộc sống cũng khiến cho tuổi già phải “gồng lưng” để bươn chải mưu sinh. “Quán ăn chỗ Cô làm thường cuối tuần đông lắm và quán mở cửa sớm hơn so ngày thường, cho nên thường ngày cuối tuần Cô làm nhiều hơn” (PVS Nữ, 61 tuổi, phụ vụ quán ăn, thành thị, Quận Ninh Kiều). Công việc của Chú làm theo ca nên đâu có ngày thứ bảy, chủ nhật. Mình trực nhiều thì lương cao, trực ít lương thấp thôi. Vì cuộc sống nên cũng phải gáng (ráng) (PVS 05, Nam, 61 tuổi, bảo vệ, thành thị, Quận Cái Răng) Hoạt động tự buôn bán/kinh doanh là một trong những hoạt động mà NCT cũng dành một khoảng thời gian khá nhiều, dao động 5,9 giờ đến 6,3 giờ mỗi ngày. Độ lệch chuẩn của thời gian dành cho hoạt động này cả ngày hôm qua và 91 cuối tuần chênh lệch không đáng kể (xem bảng 3.10). Có thể nói, NCT dành thời gian cho hoạt động này khá ổn định. Sự chênh lệch giữa thời gian của ngày hôm qua với ngày cuối tuần là do tính chất hoạt động buôn bán, thời tiết, dịch bệnh Đa số NCT cho rằng, thời gian dành hoạt động buôn bán các ngày là như nhau nhưng hoạt động này còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác như tính chất của công việc, thời tiết, dịch bệnh, sức khỏe và thậm chí cả yếu tố may mắn. “Cô bán hàng như thế này là cố định mà, sáng 5 giờ mở cửa chiều tối khoảng 9h hoặc 10 giờ đóng cửa thôi” (PVS10, Nữ, 62 tuổi, Buôn bán, huyện Thời Lai) “Cô nhận vé số từ 5 giờ chiều hôm trước rồi bán rai rai khi nào hết thì thôi. Ngày nào cũng thế. Ngày cuối tuần thì bán được nhanh hơn. Nhưng nếu hôm nào gặp khách sộp và thương thì bán nhanh. Sợ nhất là ngày mưa gió, bán ế muốn chết con ơi. Mấy tháng nay, dịch bệnh nên bán không nhanh trước. Có nhiều hôm đến giờ xổ số mà còn nhóc (nhiều) luôn” (PVS03, Nữ, 65 tuổi, bán vé số, thành thị, Quận Ninh Kiều). “Hôm nào bán hết sớm thì nghỉ sớm thôi, nhưng dạo này dịch bệnh bán ế lắm.” (PVS 15 Nữ, 61 tuổi, buôn bán, thành thị, huyện Vĩnh Thạnh) Thời gian dành cho hoạt động tự sản xuất nông nghiệp dao động từ 4,5- 4,9 giờ/ngày và số NCT tham gia hoạt động này cũng không nhiều (xem bảng 3.10). Đây là hoạt động mà NCT dành ít thời gian nhất, bởi lẽ họ tự chủ được thời gian của công việc và tính chất các công việc này mang tính chất thời vụ. “Ở đây đa số NCT làm nông nên chủ yếu chăn nuôi, làm vườn. Nếu họ đã làm xong hết công việc thì nghỉ ngơi thôi. Cho nên thời gian của họ không cố định” (PVS CB02, Nam, 68 tuổi, Hội NCT xã, nông thôn, huyện Phong Điền) Câu hỏi đặt ra, NCT có cảm thấy hài lòng với cuộc sống khi họ dành thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập? Kết quả phân tích Pearson cho thấy, mối quan hệ giữa sử dụng thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập cho NCT với sự hài lòng cuộc sống là mối quan hệ ngược chiều cả ngày hôm qua (r1= -0,342, p1= 0,000) và cuối tuần (r2 = -0,250, p2=0,001). Mối quan hệ này chỉ có ý nghĩa đối với nhóm NCT còn tham gia hoạt động kinh tế và phát hiện này thống nhất với kết quả 92 nghiên cứu trước đó của Tadic và cộng sự [157]. Điều này cho thấy, mối quan hệ giữa sự hài lòng với sử dụng thời gian của NCT đang còn tham gia hoạt động kinh tế để tạo thu nhập vào ngày hôm qua mạnh hơn so với mối quan hệ vào ngày cuối tuần. Kết quả này cũng đã phản ánh về NCT đang còn tham gia hoạt động kinh tế dành nhiều thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập thì càng ít có sự hài lòng với cuộc sống, đặc biệt là ngày cuối tuần. Để củng cố cho phát hiện này, nghiên cứu đã sử phân tích Anova cho thấy có sự khác biệt giữa các nhóm thời gian mà NCT còn tham gia hoạt động kinh tế với sự hài lòng cuộc sống cả ngày hôm qua và cuối tuần. Trong đó, nhóm NCT còn tham gia hoạt động kinh tế dành thời gian tạo ra thu nhập dưới 5 giờ vào ngày hôm qua (3,18/5 điểm) và cuối tuần (3,29/5 điểm) thì có mức độ hài lòng cao hơn so với các nhóm còn lại; nhóm NCT dành thời gian tạo ra thu nhập trên 5 giờ/ngày có sự hài lòng thấp nhất (2,8/5 điểm của ngày hôm qua và 2,6/5 điểm vào ngày cuối tuần). Mặt khác, NCT còn tham gia hoạt động kinh tế nhưng không dành thời gian cho hoạt động này thì mức độ hài lòng có tăng nhẹ từ 3,01 điểm của ngày hôm qua lên 3,1 điểm của ngày cuối tuần và dưới 5 giờ có mức độ hài lòng của ngày cuối tuần và hôm qua lần lượt là 3,29 và 3,18. Trong khi đó, NCT dành thời gian cho hoạt động tạo thu nhập trên 5 giờ vào cuối tuần thì sự hài lòng của họ giảm xuống còn 2,68 điểm so với 2,8 điểm của NCT dành cùng thời gian cho hoạt động này trong ngày hôm qua. Như vậy, NCT càng dành ít thời gian cho hoạt động tạo thu nhập vào ngày cuối tuần thì càng có sự hài lòng cao hơn ngày trong tuần. NCT dành một lượng thời gian vừa phải, dưới 5 giờ/ngày góp phần cải thiện sự hài lòng của họ. Trong đó, nhóm nữ cao tuổi không dành thời gian cho hoạt động tạo thu nhập có sự hài lòng thấp hơn nam cao tuổi, trong khi đó nữ cao tuổi dành thời gian cho hoạt động này dưới 5 giờ hoặc trên 5 giờ có sự hài lòng cao hơn nam giới. Điều này cho thấy, nữ giới cao tuổi cảm thấy cuộc sống tốt hơn khi họ được làm việc tạo ra thu nhập. Nhóm NCT từ 65-69 tuổi có sự hài lòng cao hơn so với nhóm NCT từ 60-64 khi dành thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập từ 5 giờ trở xuống, trong khi đó nhóm NCT từ 65-69 tuổi có sự hài lòng thấp hơn nhóm NCT từ 60-64 tuổi khi dành thời gian cho hoạt động này trên 5 giờ. Nhóm NCT có mức sống khá giả có sự hài lòng cao hơn so với các mức sống khác. Tuy nhiên, nhóm 93 NCT có mức sống trung bình dành thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập trên 5 giờ có sự hài lòng cao hơn so với nhóm NCT cùng mức sống này dành 0 giờ cho hoạt động tạo ra thu nhập, điều này diễn ra tương tự trong ngày cuối tuần, bởi vì nhóm NCT có mức sống trung bình cố gắng làm việc để chủ động tài chính cho cuộc sống của họ. Trong khi đó, nhóm NCT khá giả, nghèo và cận nghèo dành thời gian trên 5 giờ/ngày vào ngày cuối tuần thì sự hài lòng thấp hơn so với ngày hôm qua (xem bảng 3.11). Bảng 3. 11: Mối quan hệ giữa sử dụng thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập với sự hài lòng cuộc của người cao tuổi theo giới tính, tuổi, mức sống, nguồn nhu nhập Đặc điểm Hôm qua (N=166) Cuối tuần (N=166) 0 giờ Từ 5 giờ trở xuống Trên 5 giờ 0 giờ Từ 5 giờ trở xuống Trên 5 giờ Giới tính Nam 3,54(*) 3,01 2,74 (*) 3,06 2,89 3,13 Nữ 3,45(**) 3,31 2,81(**) 2,95 3,29 2,68 Nhóm tuổi 60-64 3,03(***) 2,97 (***) 2,69(***) 3,64(*) 2,82(*) 2,85(*) 65-69 3,09(***) 3,46(***) 2,50(***) 3,54(*) 3,30(*) 2,63(*) 70-75 3,04(*) 3,36 2,40 (*) 3,43(*) 3,18 2,30(*) Mức sống Khá giả 3,72 3,60 (**) 3,18(**) 3,44 3,83 3,06 Trung bình 2,63(*) 2,99 2,81(*) 2,92(*) 2,83 3,04(*) Nghèo và cận nghèo 2,40(*) 2,31 2,03(*) 2,54(*) 2,20 2,01(*) Nguồn thu nhập Lương hưu Không 3,26(*) 3,01 2,69(*) 2,83(*) 2,99(*) 2,71(*) Có 3,78(*) 3,74(*) 3,60(*) 3,28(*) 3,76 3,02(*) (***),(**), (*): Ý nghĩa thống kê 1%, 5%, 10% (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, 2021) Nhóm NCT có lương hưu có sự hài lòng cao hơn so với nhóm NCT không có lương hưu, đặc biệt nhóm NCT có lương hưu dành trên 5 giờ có sự hài lòng cao hơn so với nhóm NCT không có lương hưu (xem bảng 3.11), bởi vì do tính chất công việc của họ và làm việc để có niềm vui sau tuổi hưu. “Chú vẫn tham 94 gia giảng dạy theo quy định kéo dài, nhờ vậy nó vui, chứ nghỉ hưu rồi buồn lắm, nhớ nghề” (PVS11, Nam, 61 tuổi, Cán bộ hưu trí, Quận Bình Thủy). Các bằng chứng này cho thấy, mối quan hệ giữa sử dụng thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập với sự hài lòng cuộc sống của NCT có sự khác nhau theo các đặc trưng giới tính, tuổi, mức sống, lương hưu. Mức độ hài lòng của NCT dành nhiều thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập vào ngày cuối tuần luôn thấp hơn so với ngày hôm qua. Đây là một trong những cơ sở để tham vấn chính sách phát triển sinh kế cho NCT, giúp họ ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống. Có thể nói, một bộ phận NCT vẫn còn đóng góp tích cực phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, giảm được gánh nặng cho gia đình và xã hội, góp phần xóa bỏ định kiến “người già là gánh nặng của gia đình và xã hội”. Mặc dù vậy, NCT dành cho hoạt động mưu sinh với thời gian gần như những lao động trong độ tuổi lao động mà đáng lẽ ra họ phải hưởng thụ cuộc sống ở tuổi già. Điều này cho thấy, NCT ở TPCT vẫn còn đối diện với áp lực của cuộc sống mưu sinh. Từ các bằng chứng này, thành phố không chỉ xây dựng nhiều giải pháp, chương trình hành động để phát huy vai trò của NCT mà còn hỗ trợ NCT yếu thế có nguy cơ chịu tác động từ những cú sốc kinh tế - xã hội hiện nay. NCT ở TPCT vẫn còn đối diện với nhiều khó khăn ở tuổi già. Như vậy, theo lý thuyết sự lựa chọn duy lý, NCT đã có sự lựa chọn hợp lý dựa trên nguồn lực (sức khỏe, tuổi tác, giới tính, nguồn thu nhập) và lợi ích (thu nhập có được từ các hoạt động kiếm tiền). Họ cũng phải cân nhắc “lợi” và “bất lợi” khi tham gia vào thị trường lao động. Theo lý thuyết nhu cầu của Maslow, tất cả hoạt động tạo ra thu nhập đó nhằm giúp cho họ thỏa mãn những nhu cầu nhất định, chẳng hạn nhu cầu đảm bảo cuộc sống, nhu cầu sống độc lập, thoải mái không phải lệ thuộc vào con cháu. Các lập luận giải thích này hoàn toàn phù hợp với các luận điểm của lý thuyết lựa chọn duy lý và lý thuyết nhu cầu của Maslow. Khuôn mẫu sử dụng thời gian tạo thu nhập, từ cơ sở phân tích thời gian của hoạt động tạo ra thu nhập của nhóm NCT đang còn tham gia hoạt động kinh tế (166/399 trường hợp), KMSDTG tạo thu nhập theo các đặc trưng nhân khẩu học được thể hiện như sau: 95 + Theo giới tính, thời gian trung bình mỗi nữ giới cao tuổi có 292,2 phút/ngày so với 243,06 phút/ngày của nam giới cao tuổi để tham gia hoạt động tạo ra thu nhập và thời gian này của cả 2 giới đều giảm xuống vào ngày cuối tuần (196,96 phút của nữ và 195,0 phút của nam). Phát hiện này khá thống nhất với kết quả với Nguyễn Trung Hải [23] nghiên cứu thời gian làm việc của NCT có việc làm tại Hà Nội. Theo lý giải của Nguyễn Trung Hải [23], sở dĩ nữ cao tuổi thời gian dành cho hoạt động tạo thu nhập nhiều là do thu nhập thấp và điều này có nghĩa là nữ cao tuổi có nguy cơ tổn thương về thu nhập trong bối cảnh già hóa dân số hiện nay. + Theo tuổi, tuổi càng cao thì thời gian dành cho hoạt động tạo ra thu nhập càng giảm. Người cao tuổi ở nhóm tuổi từ 60- 64 có thời gian trung bình dành cho hoạt động tạo ra thu nhập vào các ngày trong tuần trung bình là khoảng 4,5 giờ/ngày, giảm xuống còn 3,8 giờ/ngày ở nhóm tuổi 65-69 và giảm xuống còn 2,5 giờ/ngày ở nhóm tuổi 70-75. Cách sử dụng thời gian này được lặp lại theo những ngày bình thường trong tuần và ngày cuối tuần. + Theo trình độ học vấn, nhóm NCT có học vấn từ tiểu học trở xuống thời gian dành cho hoạt động tạo thu nhập 274,8 phút/ngày vào hôm qua và 225,6 phút/ngày; cấp 2 là 350,9 phút/ngày vào hôm qua và 278,3 phú/ngày vào cuối tuần; cấp 3 là 297,9 phút/ngày vào hôm qua và 143,6 phút/ngày vào cuối tuần; từ trung cấp trở lên là 196,7 phút/ngày và 180 phút/ngày vào ngày cuối tuần. Điều này cho thấy, NCT có trình độ học vấn thấp (từ cấp 2 trở xuống) tham gia hoạt động tạo thu nhập nhiều hơn so với các nhóm còn lại, đặc biệt đối với nhóm có trình độ trung cấp trở lên. + Theo tình trạng sức khỏe, NCT có sức khỏe tốt tham gia hoạt động tạo ra thu nhập với thời gian trung bình là 218,9 phút/ngày so với 124,0 phút/ngày của NCT sức khỏe không tốt vào ngày hôm qua; tương tự vào ngày cuối tuần là 133,8 phút/ngày của người có sức khỏe tốt so với 110,4 phút/ngày của người sức khỏe không tốt. Phát hiện này khá thống nhất với nghiên cứu Nguyễn Trung Hải [23]. Rõ ràng, KMSDTG tạo ra thu nhập thường tập trung vào nhóm NCT có sức khỏe tốt. 96 + Theo nguồn thu nhập, nhóm NCT không có lương hưu dành cho hoạt động tạo ra thu nhập 314 phút/ngày, gấp gần 3 lần so với nhóm NCT có lương hưu (138 phút/ngày); nhóm NCT không có con cháu hỗ trợ tham gia hoạt động tạo ra thu nhập là 295 phút/ngày, cao hơn so với nhóm NCT có con cháu hỗ trợ (223 phút/ngày). Xu hướng này diễn ra tương tự vào ngày cuối tuần. Điều này cho thấy, NCT không có nguồn hỗ trợ từ con cháu, lương hưu thì có xu hướng dành thời gian cho hoạt động tạo ra thu nhập nhiều hơn so với các nhóm NCT khác. Rõ ràng, KMSDTG tạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_khuon_mau_su_dung_thoi_gian_cua_nguoi_cao_tuoi_thanh.pdf
  • pdf05_(ENG)_TÓM TẮT HOÀN CHỈNH.pdf
  • pdf05_(VN)_TÓM TẮT HOÀN CHỈNH.pdf
  • pdfNCS Phan Thuận.pdf
  • pdfThong tin LA-Eng.pdf
  • pdfThong tin LA-TV.pdf
Tài liệu liên quan