Luận án Nghệ thuật trưng bày bảo tàng ở Việt Nam (Nghiên cứu: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN.i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT. iii

DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN ÁN.iv

MỞ ĐẦU.1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .10

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu . 10

1.2. Cơ sở lý luận của đề tài. 24

1.3. Khái quát về nghệ thuật trưng bày bảo tàng trên thế giới và ở Việt Nam.59

Tiểu kết. 65

Chương 2. HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TRƯNG BÀY Ở

BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA, BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT

NAM, BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM.67

2.1. Nghệ thuật trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia . 67

2.2. Nghệ thuật trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. 87

2.3. Nghệ thuật trưng bày ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. 99

Tiểu kết. 67

Chương 3. NHỮNG BÀN LUẬN VÀ XU HƯỚNG NGHỆ THUẬT TRƯNG

BÀY BẢO TÀNG Ở VIỆT NAM .116

3.1. Bàn luận về trưng bày bảo tàng Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho

nghệ thuật trưng bày bảo tàng ở Việt Nam. 116

3.2. Bàn luận về vai trò của nghệ thuật trưng bày trong bảo tàng . 127

3.3. Xu hướng của nghệ thuật trưng bày bảo tàng ở Việt Nam . 133

Tiểu kết. 164

KẾT LUẬN.167

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .172

TÀI LIỆU THAM KHẢO.173

PHỤ LỤC.183

pdf263 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghệ thuật trưng bày bảo tàng ở Việt Nam (Nghiên cứu: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lịch sử phản ánh công cuộc dựng nước và giữ nước của các vua Hùng đến trước năm 1930 ở tầng 1 và khu trưng bày những hiện vật quân sự Việt Nam từ năm 1930 đến hết thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) tại tầng 2. Nơi đây trưng bày theo các chuyên đề nhỏ kết hợp cùng sa bàn toàn cảnh chiến dịch lừng danh một thời. Tòa nhà S2 với các chuyên để về quá trình bảo vệ đất nước từ thời phong kiến đến chiến thắng thực dân Pháp là khá hợp lý, khi có các khoảng không gian chính, phụ, các không gian trưng bày phụ được nhường chỗ cho điểm nhấn chính của tòa nhà như sảnh khánh tiết. Tuy phải đi qua sảnh khánh tiết hai lần mới có thể tham quan hết được các tiểu mục trong chuyên đề này. Các không gian trưng bày tầng 2 cũng được cần đổi cho từng chuyên đề. Mặc dù các chuyên đề được bổ trí trong từng gian và lối giao thông chính ở giữa, khiến người xem phải tham quan các tổ hợp trưng bày ở bên trái rồi lại quay sang phải để tìm hiểu nốt các tổ hợp còn lại, nhưng cũng 89 như dưới tầng 1, diện tích bố trí từng chuyên đề không quá lớn nên vẫn có thể chấp nhận dược lối giao thông này [PL3, h.3.2, tr.226]. Tòa nhà S3 là tòa nhà trưng bày hiện vật thứ hai trong hệ thống trưng bày của BTLSQSVN, tòa nhà có tầng 1 dược chia thành 3 khu trưng bày hiện vật gồm cuộc kháng chiến chống Mỹ trong những năm 1954 đến 1968, đường mòn Hồ Chí Minh và cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975. Tầng 2 được chia thanh 3 khu trưng bày gồm lịch sử Việt Nam trong cóng cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975, phòng trưng bày vũ khí thô sơ tự tạo trong thời kỳ chiến tranh những năm 1945 - 1975, đặc biệt phải kể đến khu lưu giữ những hiện vật về sự ủng hộ của thế giới về cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Cuối cùng trong hệ thống trưng bày trong nhà là tòa nhà S4 có tầng 1 dược sử dụng làm khu trưng bày những hiện vật quân sự Việt Nam từ năm 1975 cho đến nay, tầng 2 được thiết kế thành 2 khu chính đó là chuyên đề nhớ công những Bà Mẹ anh hùng Việt Nam, mô hình tái hiện chiến dịch Hồ Chí Minh. Chuyên đề Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975 chính là điểm nhấn quan trọng nhất kết thúc cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, nên được nắm tại vị trí đẹp nhất của tòa nhà là sành thông tầng. Các chuyên để khác được dựa vào trang trí tại các khu vực bên cạnh sảnh này càng làm tôn vinh chiến thắng tuyệt vời ấy. Để có thể tham quan các chuyên đề theo đúng tiến trình lịch sử, khách tham quan sẽ phải bắt đầu từ lối cửa phụ ở bên trái với chuyên đề Lực luợng vũ trang nhân dân Việt Nam giai đoạn 1955 - 1968 tại tầng một phía bên trái tòa nhà, sau đó phải lên tầng 2 xem tiếp với chuyên đề Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam giai đoạn 1969 - 1973. Để có thể theo dõi tiếp chuyên đề Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam giai đoạn 1973 - 1975, khách tham quan sẽ tiếp tục di chuyên qua một hành lang phụ phía sau sảnh chính sang các gian phòng nằm bên phải tòa nhà. Ngoài ra, từ các gian bên phải này muốn vào tham quan gian khánh 90 tiết thì phải đi ra ngoài tòa nhà rồi vào bằng lối cửa chính, dẫn đến việc thay đổi cảm xúc theo chiều hưởng tiêu cực của khách tham quan khi không được theo dõi liền mạch một quá trình diễn biến lịch sử hào hùng như vậy [PL2, h.3.3-4, tr.227-228]. Tòa nhà S4 đây là tòa nhà trưng bày hiện vật cuối cùng vô cùng đặc biệt. Với Sa bàn chiến dịch Hồ Chí Minh tại tầng 2 của tòa nhà thông qua một hành lang nối từ tòa nhà S3. Sa bàn có tỷ lệ 1/8000 kết hợp âm thanh, ánh sáng và phim tư liệu lịch sử diễn tả diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của nhân dân ta [PL3, h.3.5, tr.229]. Sau khi thưởng thức Sa bàn, khách tham quan sẽ được tham quan chuyên đề “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” trưng bày 200 kỷ vật gắn với cuộc sống đời thường của các bà mẹ và các liệt sỹ - những người con thân yêu của các mẹ đã đóng góp công lao to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Phần trưng bày phản ánh vai trò của phụ nữ Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, sự đóng góp vô giá, sự hy sinh cao cả của các bà mẹ được Nhà nước tuyên dương “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, thể hiện truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Phần trưng bày với nhiều hiện vật rất dung dị đời thường như chiếc nồi đồng nấu cơm cho các con và du kích đánh giặc của mẹ Thứ, những tờ giấy báo tử của bà mẹ Quảng Nam... thực sự gây xúc động với người xem, được đông đảo khách trong nước và quốc tế quan tâm. Chuyên đề cuối cùng của bảo tàng là Lịch sử quân sự Việt Nam từ 1975-2018 với những hiện vật, tranh ảnh thể hiện những hoạt động bảo vệ chủ quyền, bảo vệ biển đảo, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng quốc phòng vững mạnh hay mở rộng quan hệ đối ngoại... giúp khách tham quan thấy được một Việt Nam từng bước đi lên, phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh [PL3, h.3.6, tr.229]. 91 2.2.2.2. Tạo hình nghệ thuật Hình khối Từ cấu trúc không gian tổng thể các phòng trưng bày, đến tạo hình như bục bệ, đai, vách trưng bày đều phải được thể hiện ra sao để mang đến công năng hợp lý cho người xem. Tạo hình các vách trưng bày trong các bảo tàng trên cũng được bổ sung, thiết kế để tăng thêm diện tích sử dụng các mặt đứng giúp trưng bày được nhiều hiện vật, hình ảnh hơn, đa dạng về phần nhìn. Từng phòng trưng bày, từng tổ hợp trưng bày theo chuyên đề phải được thiết kế để người xem thấy được đây là chuyên đề Đập tan cuộc tập kích bằng Máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, tháng 12/1972 khác với tổ hợp trưng bày của chuyên đề Cuộc tiến công chiến lược Dông Xuân 1953 - 1954 đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ Từng hiện vật như mảnh bom, đạn dược, súng ống... được sắp xếp, bố cục hợp lý trong cả tổ hợp trên các đai trưng bày, qua đó người xem thấy được sự ác liệt, gian khổ trong những cuộc chiến. Hình ảnh “Đường Hồ Chí Minh”, con đường huyền thoại được trưng bày theo giải pháp trưng bày cảnh quan, không gian hình tượng, với tạo hình về các rừng cây, đường đất, các tổ hợp hiện vật về công binh, lán sửa chữa ô tô, thông tin, quân y, hậu cần thể hiện đậm nét cuộc sống chiến đấu, sinh hoạt của bộ đội Trường Sơn trước bom đạn huỷ diệt của kẻ thù; Tổ hợp hiện vật vũ khí, phương tiện quân và dân Hà Nội sử dụng chiến đấu bảo vệ thủ đô những ngày cuối năm 1946 trên các đai trưng bày, với tạo hình cảnh nhà đục thông nhau, giường ghế, cánh cửa, hoành phi, câu đối... khẩu hiệu “Độc lập hay là chết”, tạo hình tượng người chiến sỹ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch ở mảng trung tâm, thể hiện tinh thần của quân và dân ta “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quyết giữ cho bằng được nền độc lập, tự do [PL3, h.3.7, tr.230]. Bên cạnh đó, NCS nhận thấy ngoài những hiệu quả của tạo hình nghệ thuật đem lại, thì nhiều khu trưng bày, nhiều tổ hợp nghệ thuật, vách trưng bày còn lại 92 của bảo tàng này lại đang theo một lối mòn khi còn khá đơn điệu với những hiện vật đặt trong tủ kính, những hình ảnh treo một cách bình thường trên tường, khiến khách tham quan dễ bị nhàm chán và bỏ qua. Vật liệu BTLSQSVN sử dụng vật liệu rất phong phú bao gồm các loại chính như: gỗ công nghiệp, composite, aluminum, sơn, kết hợp với các chất liệu nhân tạo bảo tàng còn sử dụng các vật liệu tự nhiên để tăng tính thẫm mỹ cho không gian trưng bày phối hợp với màu sắc nhẹ nhàng hài hòa. Bảo tàng mang tính chất lâu dài cố định nên các vật liệu được sử dụng trong bảo tàng có chất lượng tốt, đảm bảo không hỏng hóc hay gây ảnh hưởng đến việc bảo quản hiện vật trưng bày [PL3, h.3.12, tr.235]. Màu sắc BTLSQSVN sử dụng màu sắc khá phong phú trong các không gian trưng bày, sử dụng các màu trung tính làm đai vách bục bệ trưng bày, sử dụng các màu mạnh thể hiển điểm nhấn và làm nổ bật các ý đồ của tác giả ở những mảng trưng bày cần thiết ví dụ như màu cờ đỏ với trung tâm là bức ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, tất cả kết hợp tạo nên một biểu tượng về một đất nước Việt Nam sinh ra đẩy tự hào được thể hiện ở cả BTLSQSVN [PL3, h.3.9, tr.232]. Các mảng trang trí ở chuyên đề Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến cũng được bố cục đẹp, hợp lý với những hình ảnh, câu nói đặc biệt, màu sắc hồng hay xanh cũng mang đến cho khách tham quan một cảm giác gắn bó, thân tình giữa Việt Nam và các nước bè bạn trên thế giới. Thiết kế đồ họa Khi kết hợp với các yếu tố đai vách trưng bày góp phần làm cho BTLSQSVN không bị khô cứng bởi bản chất là truyền tải thông điệp từ lịch sử. Với thiết kế đồ họa mang màu sắc tươi mới, như các bức kính đỏ đặt sau 93 tương các bức tượng của những anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt... ẩn mờ trên những bức vách kính ấy là hình ảnh vị vua phi ngựa oai phong dẫn theo hàng vạn binh lính đánh trả quân thù. Đó là hình ảnh biểu tượng cho một ý chí bất khuất, vừa là lòng biết ơn đối với những người đã ngã xuống vì sự bình yên cho dân tộc, toàn bộ phòng chuyên đề này được bao phủ bởi một màu vàng đồng, tạo sự trang trọng của một thời kì phong kiến oai hung [PL3, h.3.8, tr.231]. Nhìn chung thiết kế đồ họa được sự dụng một cách rất có hiệu quả trong trưng bày tại BTLSQSVN. 2.2.2.3. Ánh sáng Khu trưng bày được sử dụng chủ yếu là ánh sáng nhân tạo, với các hệ thống đèn led sử dụng trên trần và được dấu trong các hệ tủ kính. Người họa sĩ thiết kế có sử dụng đèn hắt sáng qua các khe, càng tạo nên thêm điểm nhấn cho sự trang trọng. Về màu sắc của ánh sáng, các tuyến giao thông dẫn đường đều được sử dụng ánh sáng trắng phù hợp với toàn bộ không gian, còn các hiện vật, hình ảnh, các đai vách trưng bày được bổ sung ánh sáng vàng để tập trung thu hút người tham quan. Tuy nhiên, điểm hạn chế của việc sử dụng ánh sáng tại các bảo tàng này là ánh sáng được sử dụng đang bị đều dàn trải, chưa có các điểm nhấn tập trung ánh sáng vào các không gian trưng bày đặc biệt để hấp dẫn khách tham quan hơn, đồng thời chưa tận dụng được ánh sáng tự nhiên. Do đó NCS nhận thấy việc sử dụng ánh sáng trong các bảo tàng này chưa phát huy hết hiệu quả, chưa tôn vinh được giá trị của những hiện vật trong không gian trưng bày [PL3, h.3.11, tr.234]. 2.2.2.4. Hiện vật trưng bày Với hệ thống hiện vật khổng lồ mà BTLSQSVN đã và đang trưng bày và lưu giữ gần 16 vạn hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý, thậm chí còn có những hiện vật từ xa xưa như cọc gỗ được cắm xuống sông Bạch Đằng để chống thuyền giặc Mông tràn vào nước ta. BTLSQSVN đã phần nào thành 94 công khi tổng hợp thành các tổ hợp hiện vật có liên quan với nhau, kết hợp với các đai, vách trưng bày, tạo nên hiệu quả cho du khách tham quan. BTLSQSVN hiện nay đang có nhiều hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, xe tăng 843 đã dẫn đầu đội hình phá vỡ các tuyến ngăn chặn của địch, húc đổ cổng phụ của Dinh Độc Lập, vào trưa ngày 30/4/1975, đánh dấu giờ phút thiêng liêng của dân tộc, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Đây cũng là một trong bốn hiện vật đıược công nhận là bảo vật quốc gia mà bảo tàng LSQS Việt Nam đang có. Ba bảo vật còn lại là Máy bay MiG-21F96 số hiệu 5121 là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” đã bắn rơi 5 máy bay Mỹ, trong đó có một “Siêu pháo đài bay” B52 do phi công Phạm Tuân lái đêm ngày 27/12/1972; Máy bay MiG 4324 là hiện vật có giá trị đặc biệt, biểu tượng chiến thắng của Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng đã bắn rơi 14 máy bay Mỹ, 8 trong số 9 phi công từng lái dược phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; và cuối cùng là Bản đồ Quyết tâm Chiến dịch Hổ chí Minh, là hiện vật minh chứng cho những tháng ngày hào hùng của dân tộc, ghi dấu sự kiện Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch cuối cùng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc [PL3, h.3.10, tr.233]. Tuy nhiên đối với khu vực trưng bày trong nhà, số lượng hiện vật được bày ra khá nhiều và dàn trải đều trong từng tiểu đề nhỏ. Các hiện vật ảnh được treo nhiều và kín các bức tường, chưa có bố cục hợp lý, đôi lúc khiến người xem hoa mắt, khó tiếp nhận hết nội dung. Các hiện vật các chuyên đề cũng được tổng hợp trưng bày theo bộ, nhóm thiếu hiệu quả, tương đối lộn xộn, vô tình làm giảm đi phần nào giá trị của các hiện vật. Đây là điều thường thấy ở các bảo tàng nước ta hiện nay, vậy theo NCS vấn đề được đặt ra là với số 95 lượng hiện vật rất phong phú, tuy nhiên khi trưng bày cần biết kết hợp các yếu tố khác để làm nổi bật những hiện vật ấy chính là một trong những phương pháp thu hút khách tham quan và tăng tính thẩm mỹ của một không gian trưng bày của bảo tàng. 2.2.2.5. Kỹ thuật công nghệ BTLSQSVN có sử dụng nhiều công nghệ hiện đại như kết hợp giữa ánh sáng, âm thanh, phim tài liệu có những phòng sa bàn lớn về chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” giúp khách tham quan có cái nhìn chân thực hơn về nội dung, thông điệp mà bảo tàng gửi gắm. Ở chuyên đề Cuộc tập kích bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội 12/1972, bảo tàng đã bổ sung yếu tố phim ảnh xem tại nơi trưng bày, tuy nhiên việc bố trí ở đây chưa thực sự hợp lý khi có thể làm ảnh hưởng đến quá trình tham quan của các du khách khác [PL3, h.3.13, tr.236]. Qua đó có thể thấy việc áp dụng, bố trí những yếu tố công nghệ multimedia nói riêng và các yếu tố khác cấu thành nên một không gian trưng bày hợp lý và hiệu quả cần có một đầu tư mạnh mẽ về nhiều mặt và nghiên cứu một cách kĩ càng. 2.2.3. Trưng bày chuyên đề Bên cạnh hệ thống trưng bày thường xuyên BTLSQSVN còn tổ chức các cuộc trưng bày chuyên đề hay các cuộc triển lãm ngắn giống như BTLSQG, chủ yếu hình thức trưng bày này với nguồn kinh phí thấp và trong một thời gian ngắn, nên thường sử dụng tạo hình nghệ thuật đơn giản, màu sắc, ánh sáng đơn giản, chủ yếu sử dụng thiết kế đồ họa và các vật liệu như gỗ, kính, meka, focmex, đề can, triển lãm còn sử dụng các hiện vật gốc được trưng bày đan xen với các chuyên đề. NCS lấy ví dụ tiêu biểu trong thời gian nghiên cứu tại bảo tàng là trưng bày chuyên đề Luôn có Bác trong tim sẽ được khai mạc vào ngày 15/5/2020, nhằm tôn vinh, ngợi ca những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam, thể hiện sự tôn kính và 96 biết ơn vô hạn đối với Người. Qua đó, động viên cán bộ, chiến sĩ toàn quân, các tầng lớp nhân dân tích cực đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần trách nhiệm, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới [PL3, h.3.16, tr.237]. 2.2.4. Trưng bày ngoài trời Bước qua cánh cổng bảo tàng, trước mắt chúng ta là hệ thống trưng bày ngoài trời với những hiện vật có thể khối lớn bao gồm các loại súng thần công, những phương tiện vũ khí lập công của các đơn vị, các quân binh chủng Quân đội nhân dân Việt Nam, tên lửa, tàu phá thuỷ lôi, ống phóng lôi và các vũ khí phương tiện chiến tranh ta thu được của địch trên các chiến trường ở hai khu vực chính. Đáng chú ý là trong số này có những phương tiện vũ khí bộ đội ta sử dụng lập chiến công như pháo mặt đất 105mm, xe tăng PT-76, xe tăng 985, các loại pháo cao xạ bắn rơi các loại máy bay Mỹ hiện đại... Tuy nhiên, đặc biệt nhất ở khu vục trưng bày ngoài trời là bảo tàng còn dành một không gian thích hợp để xếp hình một chiếc máy bay đang chúc đầu rơi xuống đất bằng vô số những mảnh xác máy bay Pháp, Mỹ, trong đó có xác chiếc máy bay B52G, chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi trong trận “Điện Biên Phủ trên không” 12/1972. Tạo hình này trở thành tượng đài tưởng nhớ đến một trong những chiến thắng hiển hách nhất trong lịch sử quân và dân ta. Bên cạnh đó, thu hút người xem là bộ sưu tập về các loại bom Mỹ đã sử dụng trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ bom phá 3000 bảng Anh đến bom khoan, bom từ trường, bom bi, bom hoá học Các phương tiện thu được của địch khá phong phú với các loại vũ khí hiện đại như máy bay A-37, UH-1H, vua chiến trường, xe lội nước [PL3, h.3.14-15, tr.236-237]. Với kết cấu của không gian kiến trúc cũ để lại chưa thích hợp với hoạt động bảo tàng nhất là đối với một bảo tàng lớn nhất trong hệ thống bảo tàng 97 của quân đội cho nên dù bảo tàng rất cố gắng, nỗ lực, đất tuy rộng nhưng khu trưng bày lại rất hạn chế, nên trưng bày không có sự liên hoàn giữa các phòng để dẫn dắt người xem có được tư duy liên tục. Nhìn chung cách trưng bày các giai đoạn thiếu tính sáng tạo, nếu xem lướt qua cả khu trưng bày chỉ hết không tới một giờ. Hệ thống đai trưng bày không thống nhất về phong cách, hình khối, mỗi chỗ làm một cách với tư duy hình khối đã quá cũ, màu sắc của đại chủ yếu là trắng (không màu). Trưng bày tiểu cảnh đã quá cũ biệt lập, bụi bặm, có chỗ giữa hình tượng và hiện vật cài lẫn vào nhau làm giảm giá trị của hiện vật thật. Về ánh sáng thiếu và lẫn với ánh sáng tự nhiên, không có chủ định rõ hỗ trợ trưng bày... Việt Nam là một dân tộc anh hùng đã chiến đấu anh dũng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đã được bạn bè khắp thế giới ngưỡng mộ. Có rất nhiều gương hi sinh dũng cảm trí thông minh vượt qua vô vàn khó khăn trong chiến tranh, nhiều kỳ tích hấp dẫn thu hút sự ngưỡng mộ của bạn bè năm châu. 2.2.5. Trưng bày 3D BTLSQSVN là một trong 6 bảo tàng quốc gia và là bảo tàng đầu hệ của hệ thống bảo tàng quân đội. Với sự phát triển của công nghệ hiện đại hiện nay, nhận thấy giá trị của việc ứng dụng công nghệ tương tác 3D trong việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử quân sự, ngay từ năm 2014, Bảo tàng đã chủ động triển khai và ứng dụng công nghệ này cho một số khu trưng bày chuyên đề, triển lãm và được công chúng, khách tham quan trong và ngoài nước quan tâm, đánh giá cao hiệu quả của nó. Hiện nay trên Website của BTLSQSVN có sử dụng trưng bày 3D hay có tên gọi khác là Bảo tàng 3D, việc sử dụng hình thức này cũng đã đem lại hiệu quả cho khách tham quan trong thời gian đại dịch Covid 19 vừa qua. Tuy nhiên theo đánh giá của NCS hình thức trưng bày này tại BTLSQSVN vẫn chưa thực sự hấp 98 dẫn và được đầu tư đúng mức, vì vậy chưa cuốn hút người xem và chưa đem lại hiệu quả thẩm mỹ [PL3, h.3.17, tr.238]. 2.2.6. Đánh giá chung BTLSQSVN với hệ thống hiện vật rất đa dạng về kích cỡ. Từ những hiện vật có thể khối lớn như các loại máy bay, xe tăng... tạo sự ấn tượng ban đầu về sự hoành tráng, thì bên cạnh đó còn là những hiện vật nhỏ như các loại vũ khí, pháo, súng, hay thậm chí là chiếc dao găm, viên đạn... Ngoài sự đa dạng về kích cỡ thì hệ thống hiện vật mà các bảo tàng này hiện đang có cũng vô cùng phong phú về chủng loại. Những hiện vật ấy không chỉ là những dụng cụ chiến đấu, mà còn có thể là bất cứ thứ gì liên quan đến con người. Từ những đôi giày, đôi dép mà các anh bộ đội đã mang, tấm áo chiến sĩ đã mặc, từng chiếc xe đã đi, hay thậm chí là cả chiếc bát, đôi đũa sử dụng... cũng trở thành những hiện vật quý báu. Ngoài giá trị về mặt thẩm mỹ, những hiện vật mà BTLSQSVN đã và đang sưu tầm còn mang giá trị lịch sử to lớn khi mỗi hiện vật lại gắn liền với một câu chuyện có thật, và được chú thích kĩ càng, hiện vật gốc là những lợi thế của BTLSQSVN. BTLSQSVN lưu giữ trong tay khá nhiều hiện vật, kỷ vật lịch sử quý giá. Nhưng với trưng bày như hiện nay người xem nhất là khách nước ngoài không thể hình dung hết sự vĩ đại của cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc Việt Nam bởi trưng bày rất thiếu những câu chuyện lịch sử dẫn dắt thiếu kịch bản trưng bày hay. Qua khảo sát thực tế, NCS nhận thấy khách tham quan nhất là người nước ngoài chỉ xem loáng thoáng, họ chủ yếu chụp hình ở những trưng bày ngoài trời, nhiều hiện vật không được người xem biết tới do bày khuất ở cuối khuôn viên. Nhìn chung theo đánh giá khách quan của NCS thì về tổng quan NTTB ở BTLSQSVN đang được trưng bày theo một cách không có gì quá mới vẫn trùng lặp với đa số bảo tàng trong hệ thống bảo tàng Quân đội nói riêng và hệ 99 thống các bảo tàng tại Việt Nam nói chung. Khu vực trưng bày trong nhà đã tập hợp theo các chuyên đề, hiện vật rất phong phú tuy nhiên hơi đơn điệu. Các hệ thống phương tiện bổ sung sự tương tác cho người xem như âm thanh, phim tài liệu, cùng với ánh sáng, chất liệu chưa được đầu tư đúng mức và đặc biệt chưa có một ý tưởng mạnh mẽ cho trưng bày cho toàn bộ 3 tòa nhà trưng bày của bảo tàng. Vì vậy BTLSQSVN cần được quan tâm hơn để có một nơi trưng bày thích hợp, có một trưng bày thật hiệu quả xứng với tầm của một bảo tàng lớn nhất, đầy đủ thông tin nhất trong hệ thống bảo tàng quân đội, xứng với tầm vóc của một dân tộc một đất nước đã từng trải qua hơn 30 năm chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược. 2.3. Nghệ thuật trưng bày ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam 2.3.1. Giới thiệu chung BTDTHVN là một cơ sở khoa học, đồng thời là một trung tâm văn hóa có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Điều này được thể hiện rõ trong Quyết định số 689-TTg ngày 24/10/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập BTDTHVN, trong đó xác định: BTDTHVN (thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia), có nhiệm vụ: tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm, phân loại, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bày, giới thiệu, khai thác các giá trị lịch sử, văn hoá, về phương diện dân tộc học của các dân tộc anh em trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam; cung cấp tư liệu nghiên cứu dân tộc học cho các ngành; đào tạo cán bộ nghiệp vụ và quản lý cho Bảo tàng Dân tộc học. BTDTHVN thuộc loại hình lịch sử xã hội, bảo tàng có vai trò và ý nghĩa quan về nhiều phương diện trên quy mô quốc gia cũng như ở từng địa phương, vì trên đất nước ta có 54 dân tộc anh em, cho nên ngay từ năm 1981 Nhà nước đã có chủ trương hình thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại Thủ đô Hà Nội. Suốt nhiều năm, công trình này được xem như một bộ phận của 100 Viện Dân tộc học. Ngày 24/10/1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam trực thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Ngày 12/11/1997, Bảo tàng khánh thành khu trưng bày thường xuyên. Hiện tại, BTDTHVN tọa lạc trên khu đất rộng gần 3.3ha ở phường Dịch Vọng, Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy [PL4, h.4.1, tr.239], bảo tàng gồm hai khu vực chính trong nhà và ngoài trời. Phần kiến trúc BTDTHVN do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh người Tày thiết kế, tác giả mô phỏng tòa nhà theo hình chiếc trống đồng của văn minh Đông Sơn nổi tiếng. Phần nội thất do kiến trúc sư Véronique DollFus người Pháp thiết kế. Năm 2006 bảo tàng tiếp tục hoàn thiện trưng bày với 10 công trình kiến trúc dân gian của 10 dân tộc ở Việt Nam. Đây là khu trưng bày ngoài trời với diện tích khá lớn trưng bày 10 công trình kiến trúc dân gian [PL4, h.4.14, tr.252]. Năm 2013 bảo tàng khai trương tòa nhà trưng bày với kiến trúc được cách điệu từ cánh diều - một trò chơi dân gian quen thuộc của các nước khu vực Đông Nam Á. Diện tích xây dựng khoảng 1000m2, nằm trong khuôn viên bảo tàng. Với sự đầu tư về hình khối, ý tưởng cũng như nội dung trưng bày bên trong. Bảo tàng là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học, đồng thời là một trung tâm lưu trữ quý giá về văn hóa của 54 dân tộc với khoảng 15.000 hiện vật, 15.000 ảnh màu và đen trắng, hàng trăm băng ghi hình và ghi âm. 2.3.2. Trưng bày thường xuyên 2.3.2.1. Trưng bày về 54 dân tộc Việt Nam tại tòa nhà Trống Đồng a. Cấu trúc mặt bằng Phần lớn diện tích của toà Trống đồng được dành cho trưng bày thường xuyên, thể hiện bằng hàng loạt hiện vật, phim, ảnh dân tộc học cùng các khu vực tái tạo sống động và hàng loạt các bài viết do các nhà nghiên cứu của Bảo tàng thực hiện. Tất cả nội dung trưng bày đều được thực hiện bằng 3 thứ tiếng Việt, Pháp, Anh [PL4, h.4.3, tr.241] phân bố theo từng khu vực, hệ 101 thống đai vách được sử dụng vừa để phân chia các tiểu chủ đề, lại chính là hệ thống trưng bày nhằm tiết kiệm diện tích không gian. Lộ trình tham quan được xây dựng mạch lạc theo nội dung trưng bày từng nhóm hiện vật của các nhóm dân tộc gồm 9 phần chính, được bố cục mang tính hệ thống, nhất quán, khoa học và hấp dẫn. Khu trưng bày này được liên hệ với nhau theo dạng xoáy ốc, và được áp dụng hình thức nghệ thuật trưng bày theo trình tự sắp xếp khoa học. Theo phương pháp này, khách thăm quan sẽ trải nghiệm các không gian trưng bày từ trái qua phải, hiện vật được sắp đặt theo các diện tường và tủ từ trên xuống dưới cả tầng 1 và tầng 2 tòa nhà. Lộ trình thăm quan được thiết kế nối tiếp nhau giữa các không gian và hành lang tạo sự liên tục, giúp người thăm quan dễ kiểm soát các khu vực trưng bày, tiếp cận đầy đủ nhất. Tuy nhiên phương pháp này cũng có nhược điểm là hạn chế điểm nhìn, các không gian bị giới hạn bởi các vách, tường, tủ dài sẽ khiến cho tầm nhìn bị hạn chế, gây cảm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghe_thuat_trung_bay_bao_tang_o_viet_nam_nghien_cuu.pdf
  • pdfAbstract of the dissertation.pdf
  • pdfCV đăng thông tin cấp Viện của NCS Nguyễ.pdf
  • pdfSummary of new conclusions of the dissertation.pdf
  • pdfThông tin tóm tắt kết luận mới của luận án.pdf
  • pdfTóm tắt luận án.pdf
  • pdfTrích yếu luận án tiến sĩ.pdf
Tài liệu liên quan